Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.01 KB, 19 trang )

Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
4
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động CTTC:
Từ trước công nguyên đã xuất hiện nhu cầu thuê tài sản để phục vụ cho công việc sản xuất
và sinh hoạt của nông dân tự do, thợ tiểu thủ công…nên một số người có tài sản nhàn rỗi có
thể cho thuê nhằm tìm kiếm thêm thu nhập từ việc nhận được phí cho thuê tài sản. Tài sản
được đem ra giao dịch rất đa dạng bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà
cửa, đất ruộng,…Tài liệu cổ nhất về các giao dịch cho thuê tài sản mà các nhà nghiên cứu
mới tìm ra được đã xuất hiện từ năm 2800 năm trước công nguyên tại thành phố Sumerian
của người UR và để điều chỉnh hoạt động thuê và cho thuê tài sản này thì nhiều hệ thống
pháp lý đã đề cập đến nó. Tuy nhiên, văn bản quan trọng nhất về luật thuê tài sản được ban
hành năm 1700 trước công nguyên khi vua Babilon là Hammurabi đã kết hợp các hợp đồng
cổ của Sumerian và Achian về thuê mướn thành một bộ luật lớn.
Đến đầu thế kỉ XIX, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và kinh tế hàng hóa
đã tạo ra được nhiều sản phẩm mới mà một cá nhân hay một tổ chức hành chính, kinh tế nào
đó không thể và cũng không cần thiết phải mua sắm đủ những sản phẩm của những người sản
xuất khác để phục vụ cho mục đích tiêu dùng ngày càng tăng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Hình thức cho thuê tài sản ngày càng được chấp nhận một cách rộng rãi do
nó là một hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả đối với các bên tham gia.
Chính vì vậy, hoạt động thuê và cho thuê ngày càng có sự gia tăng đáng kể về số lượng và
chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê đã tạo nên sự thay đổi về tính chất giao dịch và đòi hỏi
phải có những hình thức cho thuê tài sản mới phù hợp với nhu cầu của người thuê tài sản. Từ
lúc này, nghiệp vụ cho thuê tài sản phát triển với các hình thức khác nhau ra đời nhằm đáp
ứng nhu cầu của người thuê như: thuê vận hành (Operating Lease), thuê tài chính (Finance
Lease).
Vào năm 1952, hình thức cho thuê tài chính hay còn gọi là thuê mua xuất hiện ở Hoa Kỳ
do một công ty tư nhân tên là United States Leasing Corporation đưa ra cho các doanh nghiệp


nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung và dài hạn của họ. Sau đó, nghiệp vụ cho thuê tài
chính đã chuyển sang Châu Âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60 và
đã được đưa vào luật thuê mua của Pháp (1960) với tên gọi “Credit Bail”, cũng vào năm đó
hợp đồng thuê mua đầu tiên đã xuất hiện ở Anh với giá trị giao dịch 18.000 GBP.
Đến những năm của thập kỷ 70 thế kỷ XX thì nghiệp vụ cho thuê tài chính cũng bắt đầu
được phát triển mạnh mẽ ở châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới. Nhật là quốc gia
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
5
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
Châu Á đầu tiên có ngành kinh doanh cho thuê sớm nhất với sự ra đời của công ty cho thuê
Orient (Orient Leasing Corporation). Năm 1971, tổng giá trị hợp đồng cho thuê của 31 công
ty cho thuê lớn nhất ở Nhật là 726 triệu USD, năm 1981 là 7.500 triệu USD, tăng hơn 10 lần
so với năm 1970. Đến những năm 1970, hoạt động CTTC bắt đầu xuất hiện ở Hàn Quốc, Ấn
Độ, Indonexia, đến cuối những năm 70 đầu năm 80, hoạt động CTTC đã phát triển ở hầu hết
các nước Châu Á.
Trong những năm gần đây, doanh thu từ hoạt động CTTC trên thế giới đã có nhiều dấu
hiệu khả thi, trung bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỷ USD, ở Thái Lan là 2 tỷ USD…Tại
Mỹ, ngành CTTC chiếm khoảng 25% đến 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán
thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Và tổng doanh thu hàng năm của “nền công nghiệp”
CTTC ước đạt trên 500 tỷ USD với đà tăng trưởng ở tốc độ trung bình 7%/năm.
1.2. Khái niệm về CTTC và các hình thức CTTC:
1.2.1. Khái niệm về CTTC
CTTC là hợp đồng tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa
một bên là tổ chức tín dụng (bên CTTC) với một bên là khách hàng thuê. Bên thuê sử dụng
tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận trong
hợp đồng. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng được quyền mua lại hoặc tiếp tục thuê tài
sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê các bên
không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng.
Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP thì CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn

thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên
cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và
nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh
toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.
Tài sản CTTC: khác với hình thức tài trợ cổ điển bằng tiền tệ, CTTC tài trợ dưới hình
thức tài sản thông thường. Tài sản CTTC bao gồm: động sản hay bất động sản.
- Bất động sản: là những tài sản cố định hữu hình không thể di dời hay là những tài sản vô
hình như nhà ở, khách sạn, quyền sử dụng đất.
- Động sản: là những tài sản hữu hình có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài như máy
móc, thiết bị công nghệ sản xuất, phương tiện vận tải, thiết bị văn phòng, tàu biển, máy bay.
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
6
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
Tại Việt Nam thì tài sản CTTC là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và các động sản
khác. Mọi giao dịch CTTC phải được đăng ký tại Trung tâm ký giao dịch đảm bảo.
1.2.2. Các đặc điểm và tiêu chuẩn của một giao dịch CTTC
1.2.2.1. Các đặc điểm của một giao dịch CTTC:
Thuê tài chính là một hợp đồng không thể hủy ngang và phải có một trong các đặc điểm
sau:
- Quyền sở hữu tài sản thường được chuyển giao cho người thuê khi bên thuê thanh toán hết
số tiền thuê còn nợ và giá trị còn lại như đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
- Phí thuê có thể được cơ cấu để phù hợp với yêu cầu của bên thuê.
- Lãi thanh toán và khấu hao tài sản trong các giai đoạn CTTC được chiết khấu khi tính thuế
VAT.
- Một tài sản được gọi là động sản và có thể khấu hao đều có thể cho thuê.
- Hợp đồng thuê tài sản có quy định quyền chọn mua tài sản, hai bên có thể thỏa thuận quyền
sở hữu hay bán lại tài sản hay tiếp tục thuê sau khi kết thúc hợp đồng.
- Hiện giá của khoản tiền thuê phải lớn hơn hoặc bằng giá trị thị trường của tài sản tại thời

điểm thuê.
- Thuê thiết bị, tài sản cho thuê do bên thuê lựa chọn từ nhà cung cấp, không phải do bên cho
thuê lựa chọn.
- Người cho thuê là chủ sở hữu của tài sản cho thuê trong suốt thời gian của hợp đồng.
- Bên thuê độc chiếm quyền sử dụng tài sản thuê trong suốt thời gian của hợp đồng nhưng
không được chuyển nhượng quyền sử dụng tài sản thuê cho một bên nào khác.
- Giá trị hợp đồng cho thuê tài sản tối thiểu bằng tổng chi phí mua tài sản của bên cho thuê
bao gồm các khoản tiền mua thiết bị, chi phí vận chuyển, nhập khẩu, thuế và lệ phí các lọai.
- Từ khi thiết bị được chuyển giao cho bên thuê từ nhà cung cấp thì mọi trách nhiệm và rủi ro
liên quan đến tài sản cũng đồng thời được chuyển giao cho bên thuê.- Bên thuê chịu trách
nhiệm về việc mua bảo hiểm,bảo trì, thay thế phụ tùng, sửa chữa thiết bị khi hư hỏng
1.2.2.2. Một số tiêu chuẩn của một giao dịch CTTC:
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
7
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
Theo Ủy ban tiêu chuẩn quốc tế thì một giao dịch cho thuê nếu thỏa mãn một trong
bốn tiêu chuẩn sau đây được gọi là CTTC:
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết thời hạn hợp đồng (hợp đồng thuê mua – tín
dụng thuê mua).
- Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua.
- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời hạn của tài sản.
- Hiện giá các khoản tiền thuê >= giá trị tài sản.
Theo Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính tại Mỹ qui định 4 tiêu chuẩn của CTTC:
- Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người đi thuê khi chấm dứt hợp đồng.
- Hợp đồng thuê cho phép người đi thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê với giá thấp
hơn ở một thời điểm nào đó hay đến khi chấm dứt thời hạn thuê.
- Thời hạn thuê = 75% hay cao hơn so với đời sống hoạt động ước tính của tài sản thuê.
- Hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% hay gần bằng so với giá trị tài sản
thuê.

Theo Luật cho thuê tại Nhật:
Nếu hợp đồng thuê được gọi là thuê tài chính nếu thỏa mãn một trong hai tiêu chuẩn sau:
- Thời hạn thuê được xác định rõ và tất cả số tiền thuê phải lớn hơn hoặc gần bằng 90% giá
trị tài sản và những chi phí như tiền lãi, thuế và tiền bảo hiểm.
- Trong suốt thời hạn thuê không được hủy bỏ hợp đồng.
Tại Việt Nam theo nghị định 65/2005/NĐ-CP quy định:
Một giao dịch CTTC phải thỏa mãn một trong những điều kiện sau đây:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản
thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê
theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời hạn cần thiết để khấu hao tài
sản thuê.
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng CTTC ít nhất phải tương đương với
giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
1.2.2.3. Sự khác nhau giữa CTTC với thuê thông thường:
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
8
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
Thuê tài chính Thuê thông thường
- Thời hạn thuê dài (2/3 thời gian sử
dụng của tài sản)
- Vốn gốc được thu hồi tương ứng giá
trị tài sản thuê.
- Không được phép hủy ngang
-Trách nhiệm sửa chữa, bảo hiểm, thuế
người đi thuê chịu
- Hợp đồng có thỏa thuận bán
- Người đi thuê chịu những rủi ro kể cả

không do họ gây ra
- Người cho thuê tổ chức việc tài trợ,
việc cung ứng tài sản cho thuê do người
cho thuê đặt hàng giao nhận và sử
dụng.
- Thời gian cho thuê ngắn so với thời
hạn sử dụng.
- Mức vốn thu hồi nhỏ so với giá trị tài
sản
- Được phép hủy ngang
- Trách nhiệm sửa chữa, bảo hiểm người
cho thuê chịu.
- Nếu không ghi trên hợp đồng thì không
bán tài sản
- Người cho thuê chịu mọi rủi ro ngoại
trừ những rủi ro do người đi thuê gây ra
- Người cho thuê cung cấp tài sản cho
người đi thuê
1.2.3. Các hình thức CTTC:
1.2.3.1. CTTC thuần:
Đây là hình thức cổ điển nhưng rất phổ biến, một giao dịch CTTC thường gồm 3 bên: bên
cho thuê, bên thuê và nhà cung cấp. Quan hệ giữa các bên được thể hiện như sau:
- Bên cho thuê và bên thuê: thỏa thuận về các điều kiện thuê: lãi suất, thời hạn, số tiền bên
thuê tham gia vào giá trị thiết bị.
- Bên thuê và nhà cung cấp: thỏa thuận về loại thiết bị, chất lượng, chủng loại, giá cả, điều
kiện giao hàng, chế độ bảo trì bảo hành. Bên thuê phải có trách nhiệm về việc kiểm tra chất
lượng thiết bị do nhà cung cấp giao.
- Bên cho thuê và nhà cung cấp: thỏa thuận về điều kiện thanh toán, chất lượng thiết bị, thời
hạn giao hàng, các điều khoản phạt vi phạm hợp đồng…Bên cho thuê có tránh nhiệm trả tiền
mua thiết bị đã được lựa chọn, bên cung cấp phải giao hàng theo đúng các điều khỏan trong

hợp đồng.
Hình 1.1. Cho thuê tài chính thuần
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
9
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho thuê tài chính
GVHD: ThS Nguyễn Quốc Anh
(1a) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng thuê tài sản
(1b) Bên cho thuê và bên cung cấp ký hợp đồng mua tài sản
(2a) Bên cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê
(2b) Bên cung cấp chuyển giao tài sản cho bên đi thuê
(2c) Bên cho thuê thanh tóan tiền mua tài sản
(2d) Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho bên đi thuê
(3) Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê.
Trong trường hợp tài sản tài trợ đã có sẵn và thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, bên
cho thuê cũng đồng thời là nhà cung cấp thì giao dịch cho thuê tài chính chỉ có sự tham gia
của 2 bên: bên thuê và bên cho thuê.
Hình thức này được áp dụng phổ biến nhất vì những ưu điểm sau:
 Bên cho thuê không phải mua tài sản trước nên làm cho vòng quay vốn nhanh hơn,
không phải dự trữ tồn kho
 Bên cho thuê không chịu trách nhiệm về tình trạng hoạt động của tài sản vì điều này là
do nhà cung cấp và bên thuê chịu trách nhiệm với nhau
 Bên cho thuê sẽ hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận hàng của bên đi
thuê do những sai sót về mặt kỹ thuật.
1.2.3.2. Mua và cho thuê lại:
Trường hợp bên thuê đã dùng vốn tự có để đầu tư vào các loại máy móc, thiết bị, phương
tiện vận chuyển dẫn đến thiếu hụt vốn hoạt động kinh doanh. Bên cho thuê có thể mua những
máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển này và các loại bất động sản khác thuộc sở hữu của
bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính những tài sản đó. Đó là hình thức mua và cho thuê lại.
Sinh viên thực hiện: Lê Quỳnh Trâm
10

2d
2c
2a
1b 1a
2b
BÊN CUNG CẤP
(SUPPLIER)
BÊN ĐI THUÊ
(LESSEE)
BÊN CHO THUÊ
(LESSOR)
3

×