Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Quản trị tài sản ngắn hạn của công ty cổ phần Mirea Fiber

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.82 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, cùng với tiến trình hội nhập của nước ta vào các định
chế khu vực và trên thế giới với định hướng phát triển kinh tế quốc gia từ nay đến năm
2020. Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng
phải đương đầu với nhiều thách thức lớn. Chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của nước ta có sự
thay đổi lớn. Với các doanh nghiệp thì ranh giới giữa thành công và thất bại trở nên rõ
ràng. Ngày nay tràn ngập các doanh ngiệp sản xuất ra cùng một loại hàng hóa, khách
có nhiều cơ hội lựa chọn nên việc sử dụng vốn lưư động sao cho có hiệu quả trở nên
quan trọng .Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn còn tồn đọng những mặt hạn chế.
Một số doanh nghiệp gặp không ít những khó khăn bởi trình độ quản lý chưa theo kịp
với đà của cơ cơ chế thị trường kèm theo là sự phản ứng kém linh hoạt với phương
thức và cách thức điều hành doanh nghiệp điển hình trong lĩnh vực tài chính. Các
doanh nghiệp còn lúng túng trong huy động, quản lý và sử dụng vốn. Bất kỳ doanh
nghiệp nào khi bắt tay vào sản xuất hay xem xét một phương án kinh doanh đều quan
tâm đầu tiên đến vốn kinh doanh của mình và sử dụng vốn một cách tiết kiệm. Muốn
vậy, công tác tài chính của doanh nghiệp phải được thực hiện một cách đầy đủ, chính
xác kịp thời và đảm bảo thực hiện đúng chế độ chính xác.
Xuất phát từ nhận thức trên, qua thời gian thực tập tại công ty,em đã chọn đề tài:
" Quản trị tài sản ngắn hạn của công ty cổ phần Mirea Fiber”
2.Mục đích nghiên cứu:
Từ thực tế học tập và thực tập tại Công ty cổ phần Mirea Fiber, tôi lựa chọn đề
tài:“ Quản trị tài sản ngắn hạn của công ty cổ phần Mirea Fiber”. Tôi mong rằng có
thể rút ra một số bài học kinh nghiệm hữu ích cho bản thân và cho Công ty cổ phần
Mirea Fiber trong việc phát triển các sản mới, có tính cạnh tranh cao, đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hàng nói riêng và toàn xã hội nói chung. Trên thực tế đã có một số
nghiên cứu về quản trị tài sản nói chung nhưng vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về tài
sản ngắn hạn, và cũng chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về bộ sản phẩm của Công ty cổ
phần Mirea Fiber. Với các đặc điểm riêng của Công ty tôi thiết nghĩ cần một đề tài
nghiên cứu về vấn đề này.


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Theo tôi, khả năng phát triển của một sản có thể đánh giá từ hai góc độ, góc độ
nhà quản lý của công ty và góc độ người tạo ra sản phẩm. Từ đó, theo tôi có thể phân
tích khả năng phát triển của bộ sản phẩm qua ba yếu tố chính:
- Các lợi thế của sản phẩm đó trước các đối thủ cạnh tranh.
- Tính toán khả năng sinh lời của bộ sản phẩm.
- Thực tế phát triển của bộ sản phẩm trong thời gian gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm đánh giá được các yếu tố đó, tôi tiến hành qua hai bước, nghiên cứu
thông tin dữ liệu và phân tích. Trong nghiên cứu gồm có phương pháp định tính kết
hợp với phương pháp định lượng nhằm tổng hợp dữ liệu về ngân Công ty cổ phần
Mirea Fiber và các đối thủ cạnh tranh. Dữ liệu bao gồm dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ
cấp. Dữ liệu sơ cấp được tìm hiểu thông qua phỏng vấn trực tiếp khách hàng và các cán
bộ nhân viên công ty có liên quan đến quá trình sản xuất của sản phẩm. Dữ liệu thứ cấp
được tìm hiểu thông qua các bảng biểu, báo cáo kinh doanh và bản cáo bạch tài chính
của công ty.
Trong phân tích dữ liệu tôi sử dụng phương pháp phân tích nội dung đối với
phân tích định tính và phương pháp phân tích các thông số tài chính đối với phân tích
định lượng. Cụ thể sẽ thực hiện việc so sánh giữa các đối thủ cạnh tranh trong phân
tích định tính và sử dụng các phương pháp phân tích giá trị hiện tại thuần (NPV) và tỷ
suất doanh lợi nội bộ (IRR).
5.Kết cấu khóa luận:
Xin phép các thầy cô cho em được trình bày khóa luận với bố cục sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về quản trị tài sản ngắn hạn.
Chương II: Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty cổ phần
Mirea Fiber.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản trị tài sản ngắn hạn tại
Công ty cổ phần Mirea Fiber.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CƠ BẢN CỦA QUẢN
TRỊ TÀI SẢN NGẮN HẠN DOANH NGHIỆP

1.1.Một số khái niệm cơ bản liên quan tới quản tri tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp.
1.1.1.Khái niệm tài sản ngắn hạn.
.Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tài sản cố định doanh nghiệp cần
phải có các tài sản ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được chia làm 2 bộ
phận: Tài sản ngắn hạn sản xuất và tài sản ngắn hạn lưu thông.
- Tài sản ngắn hạn sản xuất: Gồm một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm
bảo cho quá trình sản xuất được liện tục như: nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên
liệu… và một bộ phận là những sản phẩm đang trong quá trình sản xuất như: Sản phẩm
dở dang, bán thành phẩm…
- Tài sản ngắn hạn lưu thông: Là những tài sản ngắn hạn nằm trong quá trình
lưu thông của doanh nghiệp như: Thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền,
vốn trong thanh toán…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản ngắn hạn sản xuất và tài sản ngắn
hạn lưu thông luôn thay thế chỗ cho nhau, vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho
quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên,
liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản ngắn hạn nhất định. Do đó, để
hình thành nên các tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất
định đầu tư vào các tài sản đó. Số vốn này được gọi là số tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp.
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hóa lần lượt
qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, tài sản ngắn hạn từ hình
thái ban đầu là tiền được chuyển hóa sang hình thái vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang,
sản phẩm hàng hóa khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về hình thái ban đầu là tiền.
Đối với doanh nghiệp thương mại, sự vận động của tài sản ngắn hạn nhanh hơn
từ hình thái vốn bằng tiền chuyền qua hình thái hàng hóa và cuối cùng chuyển về hình
thái tiền. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục không
ngừng, nên sự tuần hoàn của tài sản ngắn hạn cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có
tính chất chu kì tạo thành sự chu chuyển của tài sản ngắn hạn.

Từ những sự phân tích trên có thể rút ra: Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp là
số vốn ứng ra để hình thành nên các tài sản ngắn hạn nhằm đảm bảo cho quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục, tài sản ngắn hạn luân
chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu hồi toàn bộ, hoàn thành một
vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.
Tài sản ngắn hạn là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ tiền vốn
đầu tư vào các hình thái khác nhau của tài sản ngắn hạn, khiến cho các hình thái có
được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho chuyển hóa
hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi, góp phần tăng tốc độ
luân chuyển tài sản ngắn hạn, tăng hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn.
1.1.2.Phân loại,kết cấu tài sản ngắn hạn.
1.1.2.1.Phân loại tài sản ngắn hạn.
Để quản lý tài sản ngắn hạn được tốt cần phải phân loại tài sản ngắn hạn. Dựa
theo những tiêu thức khác nhau có thể phân loại tài sản ngắn hạn thành nhiều loại khác
nhau. Thông thường có một số cách phân loại chủ yếu sau:
 Phân loại theo vai trò từng loại tài sản ngắn hạn trong quá trình sản xuất kinh
doanh
Theo cách phân loại này tài sản ngắn hạn có thể chia làm ba loại:
- Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vốn vật đóng
gói, vốn công cụ dụng cụ nhỏ
- Tài sản ngắn hạn trong khâu trực tiếp sản xuất gồm các khoản sau: Vốn sản
phẩm đang chế tạo, vốn về chi phí trả trước
- Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông bao gồm các khoản: Vốn thành phẩm,
vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn.
Phương pháp này cho phép biết được kết cấu tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
theo vai trò. Từ đó, giúp cho việc đánh giá tình hình phân bổ tài sản ngắn hạn trong các
khâu của quá trình luân chuyển tài sản ngắn hạn, thấy được vai trò của từng thành phần
vốn đối với quá trình kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp tổ chức quản lý

thích hợp nhằm tạo ra một kết cấu tài sản ngắn hạn hợp lý tăng tốc độ luân chuyển tài
sản ngắn hạn.
 Phân loại tài sản ngắn hạn theo hình thái biểu hiện
Dựa theo hình thái biểu hiện có thể chia tài sản ngắn hạn thành : tiền, hàng tồn
kho và các khoản phải thu
+ Tiền gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Tiền là
một loại tài sản có tính linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển đổi thành
các tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp cần phải có một lượng tiền cần thiết nhất định.
+ Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ phía khách hàng thể
hiện ở số tiền mà các khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng,
cung ứng dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra trong một số trường hợp
mua sắm vật tư khan hiếm, doanh nghiệp còn có thể phải ứng trước tiền mua hàng cho
người cung ứng, từ đó hình thành khoản tạm ứng.
+Hàng tồn kho
- Nguyênvật liệu chính: Là giá trị các loại nguyên vật liệu chính dự trữ cho sản
xuất, khi tham gia vào sản xuất chúng hợp thành thực thể của sản phẩm.
-Nguyên vật liệu phụ: Là giá trị các loại vật liệu phụ dự trữ cho sản xuất, giúp
cho việc hình thành các sản phẩm, nhưng không hợp thành thực thể chính của sản
phẩm, chỉ làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc tạo
điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện thuận lợi.
+ Nhiên liệu: Là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ dùng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
1.1.2.2.Kết cấu tài sản ngắn hạn.
Bên cạnh nghiên cứu các cách phân loại TSNH theo những tiêu thức khác nhau,
doanh nghiệp còn phải đánh giá, nắm bắt được kết cấu TSNH ở từng cách phân loại đó.
Kết cấu TSNH phản ánh các thành phẩm và mối quan hệ tỷ lệ giữa thành phần trong
tổng số TSNH của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu TSNH
cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu TSNH theo các cánh phân loại khác
nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về TSNH mà mình đang

quản lý, sử dụng từ đó xác định đúng các trọng điểm và các biện pháp quản lý TSNH
có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua
việc đánh giá, tìm hiểu sự thay đổi kết cấu TSNH trong những thời kỳ khác nhau có thể
cho thấy được những biến đổi tích cực cũng như những mặt hạn chế trong công tác
quản lý TSNH của từng doanh nghiệp.
Kết cấu TSNH của doanh nghiệp luôn thay đổi và chịu tác động của nhiều yếu
tố khác nhau. Có thể phân thành ba nhóm chính sau đây:
-Các nhân tố về mặt công ứng vật tư như: khoảng cách giữa doah nghiệp với nơi
cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư
được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp, giá
cả của vật tư…
-Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của
doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình
độ tổ chức quá trình sản xuất…
-Các nhân tố về mặt thanh toán như phương thức thanh toán được lựa chọn theo
các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hành kỷ luật thanh toán giữa các
doanh nghiệp.
1.2. Nội dung lý thuyết liên quan tới quản trị tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp.
1.2.1.Các mô hình quản trị tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp.
1.2.1.1.Quản trị tiền
Tài sản bằng tiền của doanh nghiệp gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng.
Tài sản bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của một doanh
nghiệp, tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi thường xuyên phải có
lượng tiền tương xứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ở trạng
thái bình thường.
Tài sản bằng tiền là một loại tài sản có tính linh hoạt cao và cũng dễ là đối
tượng của các hành vi tham ô, gian lận và lợi dụng. Một trong những yêu cầu của công
tác quản lý tài chính doanh nghiệp là phải làm cho đồng vốn đầu tư vào kinh doanh
không ngừng vận động và sinh lời. Chính vì thế việc quản lý vốn bằng tiền là vấn đề

hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu của quản lý tài sản bằng tiền bao gồm các vấn đề chính sau
đây:
- Xác định mức dự trữ tài sản tiền mặt một cách hợp lý. Việc xác định mức tồn
trữ tiền mặt hợp lý có ý nghĩa quan trọng giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh
toán bằng tiền mặt cần thiết trong kỳ, tránh được rủi ro không có khả năng thanh toán.
Giữ được uy tín với nhà cung cấp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được cơ hội
kinh doanh tốt, tạo khả năng thu được lợi nhuận cao.
Để xác định mức tồn trữ tiền mặt hợp lý có nhiều cách như: Có thể dựa vào kinh
nghiệm thực tế, có thể sử dụng mô hình quản lý EOQ hoặc mô hình quản lý tiền mặt
Millerorr.
- Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu chi bằng tiền, doanh nghiệp cần phải xây
dựng các nội quy, quy chế về quản lý các khoản thu, chi đặc biệt là các khoản thu, chi
bằng tiền mặt để tránh sự mất mát, lạm dụng tiền của doanh nghiệp mưu lợi cho cá
nhân.
- Tất cả các khoản thu , chi bằng tiền mặt phải thông qua quỹ, không được chi
tiêu ngoài quỹ.
- Phải có sự phân định rõ ràng trong quản lý tiền mặt giữa nhân viên kế toán tiền
mặt và thủ quỹ. Việc xuất nhập khẩu quỹ tiền mặt hàng ngày do thủ quỹ tiến hành trên
cơ sở các phiếu thu, chi tiền mặt hợp thức và hợp pháp. Cuối ngày, thủ quỹ phải kiểm
quỹ, đối chiếu tồn quỹ với số liệu của sổ quỹ và kế toán tiền mặt. Nếu có chênh lệch
thủ quỹ và kế toán phải kiểm tra lại để xác định nguyên nhân và kiến nghị biện pháp xử
lý kịp thời.
- Tăng tốc quá trình thu tiền và làm chậm đi quá trình chi tiền. Dự đoán được
thời gian chi trả, doanh nghiệp có thể tận dụng lượng tiền mặt trôi nổi trên một số dư
tiền mặt nhỏ hơn.
- Cần quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt. Xác định rõ đối tượng tạm
ứng, các trường hợp tạm ứng, mức độ tạm ứng và thời hạn được tạm ứng.
- Thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn cho doanh
nghiệp.

Để chủ động trong thanh toán, doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc lập kế
hoạch lưu chuyển tiền tệ, trên cơ sở đó có biện pháp thích ứng nhằm đảm bảo sự cân
bằng thu, chi vốn bằng tiền của doanh nghiệp và nâng cao khả năng sinh lời của số vốn
tiền tệ nhàn rỗi.
1.2.1.2. Quản trị hàng tồn kho dự trữ
* Tầm quan trọng của quản trị tài sản về hàng tồn kho và các yếu tố ảnh hưởng
mức dự trữ hàng tồn:
Các doanh nghiệp sản xuất thường tồn tại ba loại hàng tồn kho ứng với ba giai
đoạn khác nhau của một quá trình sản xuất:
+ Tồn kho nguyên vật liệu
+ Tồn kho sản phẩm dở dang
+ Tồn kho thành phẩm
Đối với các doanh nghiệp thương mại, hàng tồn kho chủ yếu là dự trữ hàng hóa
để bán. Tài sản ngắn hạn đầu tư vào dự trữ hàng tồn kho gọi là tài sản về hàng tồn kho.
Việc quản lý tài sản về hàng tồn kho rất quan trọng vì:
- Tài sản về hàng tồn kho chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng giá trị tài sản của
doanh nghiệp và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
- Việc duy trì một lượng tài sản về hàng tồn kho thích hợp sẽ mang lại cho
doanh nghiệp sự thuận lợi cho hoạt động kinh doanh .
- Việc đầu tư tài sản vào dự trữ hàng tồn kho hợp lý giúp doanh nghiệp tránh
được tình trạng ứ đọng vật tư, hàng hóa. Từ đó góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển
vốn lưu động, giúp doanh nghiệp thực hiện tốt nguyên tắc tiết kiệm, sử dụng có hiệu
quả các phương tiện sản xuất và nhân lực.
- Dự trữ hàng tồn kho hợp lý có vai trò như một tấm đệm an toàn giữa các giai
đoạn khác nhau trong chu kỳ kinh doanh.
Hiệu quả quản lý vốn về hàng tồn kho ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến hiệu
quả hoạt động kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Mục tiêu đặt ra trong quản lý vốn về hàng tồn kho là kiểm soát đầu tư và tồn
kho nhằm đạt tới các mục tiêu chủ yếu sau:
- Tổ chức khoa học, hợp lý việc dự trữ đảm bảo cho quá trình kinh doanh diễn

ra liên tục, tránh sự gián đoạn do việc dự trữ gây ra.
- Giảm tới mức thấp nhất có thể được số vốn cần thiết cho việc dự trữ.
Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc dự trữ hàng tồn kho:
+ Đối với mức tồn kho dự trữ nguyên vật liệu, công cụ, phụ thuộc vào: Quy mô
sản xuất, khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường, giá cả các loại vật tư được cung
ứng, khoảng cách giữa các doanh nghiệp và nhà cung ứng…
+ Đối với mức tồn kho sản phẩm dở dang, các yếu tố ảnh hưởng gồm: Đặc điểm
và các yêu cầu kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chế tạo sản phẩm, Thời gian hoàn
thành sản phẩm, trình độ tổ chức quá trình sản xuất…
+ Đối với mức tồn kho thành phẩm, hàng hóa thường chịu ảnh hưởng của các
yếu tố: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ, sự phối hợp giữa khâu sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, khả năng xâm nhập hay mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Để quản lí tốt vốn về hàng tồn kho phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ
phận quản lý trong doanh nghiệp như: Bộ phận cung ứng vật tư, bộ phận sản xuất, bộ
phận Marketing…
* Các chi phí liên quan đến dự trữ hàng tồn kho
- Chi phí đặt hàng: Bao gồm các chi phí giao dịch, chi phí vận chuyển và chi
phí giao nhận hàng theo hợp đồng
- Chi phí lưu giữ: Là những chi phí liên quan đến việc thực hiện dự trữ hàng tồn
kho trong môt khoảng thời gian xác định trước. Chi phí lưu giữ bao gồm: Chi phí lưu
kho và chi phí baỏ quản, chi phí hư hỏng chi phí thiệt hại do hàng tồn kho bị lỗi
thời,giảm giá, biến chất, chi phí bảo hiểm, chi phí cơ hội về số vốn lưu giữ đầu tư vào
hàng tồn kho, chi phí trả lãi tiền vay để mua vật tư, hàng hóa dự trữ, chi phí thuế.
Chí phí lưu dự được tính bằng đơn vị tiền tệ trên mỗi đơn vị hàng lưu kho hoặc
tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng lưu kho trong một thời kỳ.
Chí phí lưu giữ cũng bao gồm: Chi phí biến đổi và chi phí cố định, gần như tất
cả các chi phí lưu giữ biến động tỷ lệ theo mức độ hàng tồn kho, chỉ có chi phí thuê
kho hoặc khấu hao các thiết bị hoạt động trong kho là tương đối cố định trong thời gian
ngắn. Vì vậy chi phí lưu giữ được xem như là một chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị
hàng tồn kho.

- Chi phí thiệt hại khi không có hàng
Chi phí thiệt hại do hàng tồn kho hết xảy ra bất cứ khi nào doanh nghiệp không
có khả năng dao hàng bởi nhu cầu hàng lớn hơn số lượng hàng dự trữ trong kho.
Chi phí thiệt hại bao gồm: Chi phí đặt hàng khẩn cấp, chi phí thiệt hại do ngừng
trệ sản xuất, lợi nhuận bị mất do hết thành phẩm dự trữ để bán cho khách hàng
* Các biện pháp chủ yếu quản lý vốn dự trữ hàng tồn kho
Để quản lý tốt vốn dự trữ hàng tồn kho cần phối hợp nhiều biện pháp từ khâu
mua sắm, vận chuyển, dự trữ vật tư đến dự trữ thành phẩm, hàng hóa để bán. Trong đó
cần chú trọng một số biện pháp quản lý chủ yếu sau:
- Xác định đúng đắn lượng nguyên vật liệu, hàng hóa cần mua trong kỳ và
lượng tồn kho dự trữ hợp lý.
- Xác định và lựa chọn nguồn cung ứng, người cung ứng thích hợp để đạt các
mục tiêu: giá cả mua vào với chi phí thấp nhất, các điều khoản thương mại có lợi cho
doanh nghiệp và tất cả gắn liền với chất lượng vật tư hàng hóa phải đảm bảo.
- Lựa chọn các phương tiện vận chuyển phù hợp để tối thiểu hóa chi phí vận
chuyển xếp dỡ.
- Thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường, vật tư, hàng hóa
- Tổ chức tốt việc dự trữ bảo quản vật tư, hàng hóa
- Thường xuyên kiểm tra nắm vững tình hình dự trữ, phát hiện kịp thời tình
trạng vật tư ứ đọng, không phù hợp để có biện pháp giải phóng nhanh số vật tư đó, thu
hồi vốn
- Thực hiện tốt việc mua bảo hiểm đối với vật tư hàng hóa.
1.2.1.3. Quản trị các khoản phải thu
Trong quá trình sản xuất kinh doanh để khuyến khích người mua, doanh nghiệp thường
áp dụng phương thức bán chịu đối với khách hàng. Điều này có thể làm tăng thêm một
số chi phí do việc tăng thêm các khoản nợ phải thu từ phía khách hàng như: Chi phí
quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ…Đổi lại doanh nghiệp cũng có thể tăng thêm
được lợi nhuận nhờ mở rộng số lượng sản phẩm tiêu thụ. Quy mô các khoản phải thu
chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
- Thứ nhất: Khối lượng sản phẩm hàng hóa bán chịu cho khách hàng

- Thứ hai: Sự thay đổi theo thời vụ của doanh thu đối với các doanh nghiệp sản
xuất có tính chất thời vụ, trong những thời kỳ sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu
tiêu thụ lớn cần khuyến khích tiêu thụ để thu hồi vốn.
- Thứ ba: Thời hạn bán chịu và chính sách tín dụng của doanh nghiệp: đối với
các doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm có đặc điểm sử
dụng lâu bền thì kỳ thu tiền bình quân thường dài hơn các doanh nghiệp ít vốn.
1.2.2.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
1.2.2.1. Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn:
Việc sử dụng hợp lý tài sản ngắn hạn biểu hiện ở tăng tốc độ luân chuyển tài sản
ngắn hạn. Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử
dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp cao hay thấp
Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn được biểu hiện bằng hai chi tiêu: Số lần
luân chuyển và kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn.
- Số lần luân chuyển tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức sau:
L =
TSNHBQ
M
Trong đó:
L: Số lần luân chuyển tài sản ngắn hạn trong kỳ
M: Tổng mức luân chuyển tài sản ngắn hạn ở trong kỳ
TSNHBQ: Số tài sản ngắn hạn bình quân sử dụng ở trong kỳ được xác định
bằng phương pháp bình quân số học.
- Kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
K=
L
N
Trong đó:
K: Kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn

N: Số ngày trong kỳ được tính chẵn một năm là 360 ngày, một quý là 90 ngày,
một tháng là 30 ngày
M: Tổng mức luân chuyển tài sản ngắn hạn ở trong kỳ
1.2.2.2. Mức tiết kiệm tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh số tài sản ngắn hạn có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ
luân chuyển tài sản ngắn hạn ở kỳ so sánh so với kỳ gốc.
Công thức tính như sau:
V
tk
(
±
)=
360
1M
×
(K
1
- K
0
) hoặc =
1
1
L
M
-
Lo
M1
Trong đó:
V
tk

: Số tài sản ngắn hạn có thể tiết kiệm (-) hay phải tăng thêm (+) do ảnh
hưởng của tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn kỳ so sánh so với kỳ kế hoạch.
M
1
: Tổng mức luân chuyển tài sản ngắn hạn kỳ so sánh
K
1
, K
o
: Số lần luân chuyển tài sản ngắn hạn so sánh, kỳ gốc
L
1
, L
0
: Số lần luân chuyển tài sản ngắn hạn kỳ so sánh, kỳ gốc.
1.2.2.3. Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn = Doanh thu
tài sản ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số doanh thu được tạo ra trên tài sản ngắn hạn bình quân
là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và
ngược lại.
1.2.2.4. Hàm lượng tài sản ngắn hạn
Hàm lượng tài sản ngắn hạn =
tai sản ngắn hạn bình quân
Doanh thu
Là chỉ tiêu phản ánh mức đảm nhận về tài sản ngắn hạn trên doanh thu. Chỉ tiêu
này cao hay thấp cũng được đánh giá ở các ngành khác nhau. Đối với ngành công
nghiệp nhẹ thì hàm lượng tài sản ngắn hạn chiếm trong doanh thu rất cao, còn đối với
ngành công nghiệp nặng thì hàm lượng tài sản ngắn hạn chiếm trong doanh thu thấp.
1.2.2.5. Tỷ suất lợi nhuận tài sản ngắn hạn

Tỷ suất lợi nhuận tài sản ngắn hạn =

Lợi nhuận trước thuế
tài sản ngắn hạn bình quân
Là chỉ tiêu phản ánh một đồng tài sản ngắn hạn có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trước thuế. Tỷ suất lợi nhuận tài sản ngắn hạn càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn càng cao.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới quản trị tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
TSNH của doanh nghiệp luôn vận động chuyển hóa không ngừng và tồn tại
dưới nhiều hình thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó, TSNH chịu tác động bởi
nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Có thể
chia các nhân tố đó ra làm hai nhóm chủ yếu:
1.3.1 Nhóm các nhân tố khách quan:
Hiệu quả sử dụng TSNH của các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi:
+ Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, sức mua
của thị trường sẽ bị giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh
nghiệp. sản phẩm cuả doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít đi, lợi nhuận
giảm sút và tất yếu làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và TSNH nói
riêng.
+ Rủi ro: Do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà
các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiệ kinh doanh của cơ chế thị trường có
nhiều thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp
còn gặp phải những rủi ro thiên nhiên gây ra như động đất, lũ lụt, núi lửa… mà các
doanh nghiệp khó có thể lường trước được.
+ Do tác động của cuộc cánh mạng khao học công nghệ làm giảm giá trị tài
sản , vật tư… Vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời
giá cả của sản phẩm thì hàng hóa bán ra thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn nói chung và TSNH nói riêng.
+ Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự điều chỉnh, thay đổi về
chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế… cũng tác động đến hiệu quả sử dụng

TSNH của doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan:
Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn rất nhiều nhân tố chủ quan xuất phát
từ bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cũng
như toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong đó
phải kể đến một số nhân tố chủ yếu sau:
+ Vấn đề xác định nhu cầu TSNH: do xác định nhu cầu TSNH thiếu chính xác
dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh. Nếu thừa vốn sẽ gây
lãng phí còn nếu thiếu vốn thì lại không đảm bảo cho quá trình sản xuất. Điều này sẽ
ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
+ Việc lựa chọn phương án đầu tư: Là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những
sản phẩm lao vụ ,dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng,
động thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng
vòng quay của tài sản ngắn hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn và ngược
lại.
+ Do trình độ quản lý: Trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn
đến thất thoát vật tư hàng hóa trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, dẫ đến sử dụng lãng phí tài sản ngắn hạn,hiệu quả sử dụng vốn thấp.
+ Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở cuẩ các chính sách gây thất
thoát TSNH, điêu này trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng TSNH.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng tới công tác tổ chức và sử
dụng TSNH của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới
hiệu quả tổ chức và sử dụng TSNH, các doah nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách
kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của các nhân tố, tìm ra nguyên nhân của những mặt tồn tại
trong việc tổ chức sử dụng TSNH nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu
quả của đồng TSNH mang lại là quả là cao nhất.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN NGẮN HẠN
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MIREA FIBER

2.1.Giới thiệu khái quát về công ty cổ phần Mirea Fiber:
2.1.1.Lịch sử hình thành của công ty cổ phần Mirea Fiber:
- Công ty cổ phần Mirae Fiber tiền thân là Công ty TNHH Mirae Fiber Hưng
Yên, chính thức thành lập ngày 10/12/2004. Công ty TNHH Mirae Fiber Hưng Yên có
chủ đầu tư là Công ty TNHH Mirae Fiber Tech.
Ngày 10/12/2004, Chi nhánh của Công ty TNHH Mirae Fiber VN tại Hưng
Yên được tách ra hoạt động độc lập và lấy tên là Công ty TNHH Mirae Fiber Hưng
Yên theo Giấy phép đầu tư số 130/GP-KCN-BD-GPĐC1-HY với mức vốn đăng ký là
5.441.743 đôla Mỹ, thời hạn hoạt động là 44 năm.
Ngày 13/03/2006, Công ty TNHH Mirae Fiber Hưng Yên được UBND Tỉnh
Hưng Yên chuẩn y việc thay đổi giấy phép đầu tư điều chỉnh vốn đầu tư theo đó vốn
đầu tư đăng ký mới là 7.471.243 đôla Mỹ
Ngày 30/07/2007, Công ty thay đổi giấy phép đầu tư tăng mức vốn đầu tư đăng
ký lên 8.966.348 đôla Mỹ theo giấy chứng nhận đầu tư Số 130/GP-KCN-BD/GCN-
ĐC3/05/01.
Ngày 11/09/2007 Công ty nhận được Giấy chứng nhận đầu tư số 051033000001 do
UBND tỉnh Hưng Yên chuẩn y việc chuyển nhượng vốn và thành lập công ty cổ phần
với mức vốn điều lệ đăng ký là 103.830.540.000 đồng (tương đương với 6.452.709
đôla Mỹ) và hình thức chuyển đổi là “Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp và bán một
phần vốn của chủ đầu tư”. Công ty chính thức hoạt động theo mô hình Công ty Cổ
phần từ ngày 01 tháng 10 năm 2007.
- Ngày 14/12/2007 cổ phiếu của Công ty Cổ phần Mirae Fiber đã chính thức
giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN). Cổ phiếu của
Công ty niêm yết tại TTGDCKHN với mã KMF. Số lượng cổ phần của Công ty niêm
yết tại TTGDCKHN là 10.383.054 cổ phần, tương đương trị giá là 103.830.540.000
đồng
Theo tinh thần của Nghị định 101/2006/NĐ-CP ban hành ngày 21 tháng 09 năm 2006
về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo
hình thức công ty cổ phần, Công ty TNHH Mirae Fiber Hưng Yên đã thực hiện chuyển
đổi mô hình hoạt động. Ngày 11/09/2007 Công ty nhận được Giấy chứng nhận đầu tư

số 051033000001 do UBND tỉnh Hưng Yên chuẩn y việc chuyển nhượng vốn và thành
lập công ty cổ phần với mức vốn điều lệ đăng ký là 103.830.540.000 đồng (tương
đương với 6.452.709 đôla Mỹ) và hình thức chuyển đổi là “Giữ nguyên giá trị doanh
nghiệp và bán một phần vốn của chủ đầu tư”. Công ty chính thức hoạt động theo mô
hình Công ty Cổ phần từ ngày 01 tháng 10 năm 2007.
Kể từ khi được thành lập dưới hình thức là chi nhánh của Công ty TNHH Mirae
Fiber VN cho đến khi trở thành công ty cổ phần, Công ty đã liên tục tăng trưởng,
không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất và ngày càng lớn mạnh. Với những nỗ lực vượt
bậc, Công ty đã đạt được nhiều danh hiệu đáng tự hào trong những năm qua:
Bằng khen của UBND tỉnh Hưng Yên năm 2005;
Giải thưởng “Thương hiệu mạnh Việt Nam” do Thời báo kinh tế Việt Nam cấp
năm 2006
Chào bán cổ phần:Trong năm 2008 Công ty không có hoạt động chào bán cổ
phần.
Niêm yết cổ phiếu: Ngày 14/12/2007 cổ phiếu của Công ty Cổ phần Mirae
Fiber đã chính thức giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(TTGDCKHN). Cổ phiếu của Công ty niêm yết tại TTGDCKHN với mã KMF. Số
lượng cổ phần của Công ty niêm yết tại TTGDCKHN là 10.383.054 cổ phần, tương
đương trị giá là 103.830.540.000 đồng. Ngay ngày đầu chào sàn, cổ phiếu của Công ty
đã đạt mức giá cao nhất đạt 71.000 đồng/cổ phiếu. Trong năm 2008, khủng hoảng kinh
tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến các nền kinh tế nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng,
tác động này đã ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam dẫn đến mức giá cổ
phiếu của Công ty đã rơi xuống dưới mệnh giá.
2.1.2.Chức năng nhiệm vụ của công ty cổ phần Mirea Fiber:
Hiện nay, Công ty đang sản xuất, gia công và kinh doanh các nhóm sản phẩm
chính là: tấm bông, tấm bông xâm kim, tấm bông chần, tấm bông dán, bông hạt, bông
sợi, các nguyên phụ liệu ngành dệt may… Nguyên liệu bông hóa học chủ yếu được
nhập khẩu, sau đó được xử lý chế biến qua các dây chuyền sản xuất các loại tấm bông
cao cấp (Padding) và dây chuyền sản xuất các loại tấm bông chần, tấm bông dán
(Quilting và Bonding). Công nghệ sản xuất khép kín, hiện đại, được nhập khẩu chủ yếu

từ Hàn Quốc, kết hợp với các chất phụ gia cần thiết để tạo ra các sản phẩm, đảm bảo
các tiêu chuẩn kỹ thuật về hoá, lý, cũng như hình thức tuỳ theo yêu cầu của khách
hàng. Với các loại sản phẩm được sản suất qua dây chuyền Padding như tấm bông, tấm
bông xâm kim, bông hạt, bông sợi phải đảm báo độ trắng, độ mịn, xốp, đàn hồi và độ
bền vật lý. Các sản phẩm sản xuất theo dây chuyền Quilting như tấm bông chần phải
đạt được yêu cầu về hình thức và chất lượng theo đơn đặt hàng của các đối tác. Sản
phẩm của Công ty là nguyên liệu đầu vào của ngành may mặc xuất khẩu như các loại
áo jacket, áo thể thao…, và ngành chăn, gối, đệm. Do vậy, mỗi loại sản phẩm phải
đảm bao tiêu chuẩn gắt gao theo yêu cầu của khách hàng. Các sản phẩm mang nhãn
hiệu “Unifil” và “VivaBon” đã được Công ty Mirae Fiber Tech., Ltd đăng ký bản
quyền nhãn hiệu sản phẩm và cho phép Công ty Cổ phần Mirae Fiber được sử dụng
các nhãn hiệu này. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty phụ thuộc vào thị trường
may mặc xuất khẩu tại Việt Nam, Công ty cung ứng tới 70% tổng sản phẩm sản phẩm
cho các công ty may nước ngoài đặt tại Việt Nam như World Best, Global MGP,
Habitex, Beeahn, Hanil, Everpia VietNam…Với thị trường xuất khẩu là các nước có
nhu cầu tiêu thụ hàng may mặc lớn như: Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Đan Mạch…
Bên cạnh các hoạt động sản xuất chính kể trên, Công ty còn kinh doanh các
loại bông phế phẩm và một số phụ liệu cho ngành may mặc. Mặc dù, đây không phải là
ngành sản xuất kinh doanh chính nhưng cũng mang lại một nguồn thu đáng kể và tạo
điều kiện cho Công ty tận dụng tốt các sản phẩm thừa nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.1.2.1.Đặc điểm bộ máy quản lý và bộ máy kế toán của công ty:
Cơ cấu bộ máy quản lý Công ty được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần như sau:
- Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty gồm tất cả các cổ
đông có quyền biểu quyết, họp ít nhất mỗi năm một lần. ĐHĐCĐ quyết định những
vấn đề được Luật pháp và Điều lệ Công ty quy định. ĐHĐCĐ thông qua các báo cáo
tài chính hàng năm của Công ty và ngân sách tài chính cho năm tiếp theo, bầu miễn
nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của Công ty.
- Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty để

quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Công ty không thuộc thẩm quyền của
Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị của Công ty có 05 thành viên, mỗi nhiệm
kỳ tối đa của từng thành viên là 05 năm. Chủ tịch Hội đồng quản trị do HĐQT bầu
ra.
- Ban Kiểm soát
Ban Kiểm soát là cơ quan có chức năng hoạt động độc lập với Hội đồng quản trị và
Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu ra và thay mặt ĐHĐCĐ giám sát mọi
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, báo cáo trực tiếp ĐHĐCĐ.
Ban Kiểm soát của Công ty có 03 thành viên.
- Ban Tổng Giám đốc
Tổng Giám đốc là người điều hành và có quyền quyết định cao nhất về tất cả những
vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty. Tổng Giám đốc chịu trách
nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị về việc tổ chức sản xuất kinh
doanh, thực hiện các biện pháp để đạt được các mục tiêu phát triển Công ty do Đại hội
đồng cổ đông và Hội đồng quản trị đề ra.
Công ty có 01 Phó Tổng Giám đốc là người giúp việc cho Tổng Giám đốc và chịu
trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về các công việc được phân công, chủ động giải
quyết những vấn đề mà Tổng Giám đốc đã uỷ quyền và phân công theo đúng điều lệ
Công ty.
- Phòng Hành chính nhân sự
Có chức năng tham mưu giúp HĐQT và Tổng Giám đốc Công ty thực hiện các công
việc cụ thể sau:
+ Tổ chức nhân sự sản xuất;
+ Quy hoạch, đào tạo, đề bạt, miễn nhiệm và nhận xét công nhân viên hàng năm theo
đúng tiêu chuẩn và quy chế Công ty;
+ Thực hiện công tác tuyển dụng, quản lý và sử dụng lao động;
+ Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nội dung kỷ luật lao động của
công nhân viên các khối cơ quan Công ty.
- Phòng Tài chính - Kế toán
Là bộ phận chức năng giúp việc cho HĐQT và Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ

thể sau:
+ Hạch toán kế toán;
+ Quản lý hoạt động tài chính toàn Công ty.
- Phòng kinh doanh và điều hành sản xuất
Là bộ phận chức năng trợ giúp Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ thể sau:
+ Lập kế hoạch và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo các đơn đặt
hàng;
+ Nghiệm thu sản phẩm, kiểm tra chất lượng kỹ thuật;
+ Quản lý sản xuất, giám định chất lượng ở các phân xưởng và kiểm soát lượng
hàng trong kho;
- Phòng xuất nhập khẩu
Là bộ phận chức năng trợ giúp Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ thể sau:
+ Thực hiện công tác ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá;
+ Theo dõi các hợp đồng xuất nhập khẩu.
- Phòng Marketing
Là bộ phận chức năng trợ giúp Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ thể sau:
+ Mở rộng thị trường cung cấp hàng hoá;
+ Giải đáp thắc mắc của khách hàng, tiếp thu ý kiến khách hàng nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm;
+ Chăm sóc khách hàng của Công ty.
Nhìn chung mô hình tổ chức hiện tại của Công ty đã đáp ứng được với yêu cầu
của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Việc phân cấp mạnh của Công ty đối
với các bộ phận trực thuộc đã tạo điều kiện cho các đơn vị phát huy tính chủ động
sáng tạo trong công tác quản lý và điều hành sản xuất, trong việc phát triển thị
trường, cũng như trong việc thực thi định hướng phát triển chung của Công ty.
2.1.2.2.Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty:
Tấm bông: Sợi xơ thô được kiểm tra kỹ lưỡng trước khi cho vào máy đánh bông, sau
đó được máy đánh bông đánh thành sợi nhỏ thổi vào máy tạo màng qua hệ thống ống
dẫn, tại đây bông sợi được liên kết lại thành màng và được xếp thành nhiều lớp khác
nhau tuỳ theo độ dầy sản phẩm, sau đó được đưa sang giàn phun resin, giàn phun sẽ

phun keo để kết dính các lớp màng bông với nhau. Tuỳ theo độ dầy của tấm bông mà
giàn phun sẽ kết dính các lớp màng bông dầy hay mỏng khác nhau đảm bảo các yêu
cầu kỹ thuật về độ kết dính của keo, độ đàn hồi và liên kết của tấm bông. Sau khi được
phun keo, các tấm bông sẽ được đưa sang máy sấy để sấy khô lớp keo rồi đưa lớp bông
vừa sấy sang máy ủi, máy ủi sẽ tạo cho tấm bông phẳng hơn, nhẵn hơn nâng cao tính
liên kết của các sợi bông với nhau và tạo ra loại bông tấm có chất lượng tốt đáp ứng
các yêu cầu kỹ thuật đặt ra.
Tấm bông xâm kim: Quy trình sản xuất bông xâm kim cũng gần giống như sản xuất
tấm bông. Nhưng do đây là loại sản phẩm có yêu cầu cao hơn nên trong giai đoạn tạo
màng bông, máy tạo màng được đặt ở chế độ tạo ra các lớp bông có độ dầy khác nhau,
sau đó các tấm bông được đưa sang máy xâm kim ép các tấm bông lại với nhau tạo ra
loại bông có độ dai hơn các loại tấm bông khác, có loại được qua các giai đoạn phun
keo, sấy khô và ủi, sản phẩm tạo ra sau đó được đóng gói và xuất cho khách hàng.
Bông hạt: Sợi xơ thô được kiểm tra trước khi đưa vào máy đánh bông, máy đánh
bông sẽ được cài đặt chế độ tạo bông hạt để tạo ra sản phẩm bông mới có những hạt
bông nhỏ xen lẫn các sợi bông, đảm bảo yêu cầu về độ trắng và các yếu tố kỹ thuật quy
định, sau đó bông hạt được đưa vào máy đóng gói thành phẩm.
Bông sợi: Quy trình sản xuất của bông sợi cũng được thực hiện như việc sản xuất
bông hạt tuy nhiên do cấu tạo sản phẩm khác nhau nên ở giai đoạn đánh bông, máy
được đặt ở chế độ tạo bông sợi.
QUY TRÌNH SẢN XUẤT CÁC SẢN PHẨM TẤM BÔNG CAO CẤP
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Bảng2.1:Kết quả hoạt động kinh doanh:

×