Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Điều tra liên trường về chấn thương ở việt nam các kết quả sơ bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.76 KB, 8 trang )

Trường Đại học Y tế Công cộng
Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương

138 GiảngVõ
Hà Nội, Việt Nam
Tel : 844-8463560
Fax: 844-8452738
/>Điều tra liên trường về
chấn thương ở Việt Nam:
các kết quả sơ bộ

Tiến hành bởi

Mạng lưới Nghiên cứu Y tế Công cộng Việt Nam
Trường Đại học Y tế Công cộng
Viện chiến lược và chính sách Y tế
Trường Đại học Y Hà Nội
Trường Đại học Y Hải phòng
Trường Đại học Y Thái Nguyên
Trường Đại học Y Thái Bình
Trường Đại học Y Huế
Trường Đại học Y Tây Nguyên
Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Y Cần Thơ

Với sự giúp đỡ của
UNICEF Việt Nam
Văn phòng Bộ Y tế Hoa Kỳ tại Việt Nam
Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống bệnh tật, Atlanta – Hoa Kỳ




Biên tập: Lê Vũ Anh, Lê Cự Linh, Phạm Việt Cường, Michael J. Linnan
Hà Nội, 2003










Lưu ý về trích dẫn

Báo cáo này được Trường Đại học Y tế Công cộng (HSPH) biên tập thay mặt cho Mạng
lưới Nghiên cứu Y tế Công cộng của Việt Nam (VPHRN).

Những từ khoá có thể sử dụng: Chấn thương, Chấn thương trẻ em, Việt Nam, Các nước
đang phát triển, Điều tra quốc gia, Dịch tễ học, Điều tra cộng đồng, UNICEF.

Trích dẫn: Điều tra liên trường về Chấn thương ở
Việt Nam: Các kết quả sơ bộ. Biên tập:
Lê Vũ Anh, Lê Cự Linh, Phạm Việt Cường, Michael Linnan; Đại học Y tế Công cộng:
Tháng 7 – 2003.



2
Tóm tắt nội dung


Cuộc Điều tra Liên trường về Chấn thương ở Việt Nam (VMIS) là một cuộc điều tra mang tính
quốc gia về các trường hợp tử vong do tất cả mọi nguyên nhân và những thông tin về các chấn
thương nghiêm trọng ở mọi lứa tuổi của người dân Việt Nam. Nghiên cứu này được thực hiện
thông qua việc đến thăm và phỏng vấn trực tiếp các hộ nằm trong mẫu đại di
ện gồm 27.000 hộ gia
đình thuộc tất cả tám vùng sinh thái của Việt Nam. Điều tra viên đã đến thăm các hộ gia đình để
thực hiện phỏng vấn theo bộ câu hỏi về các trường hợp tử vong do tất cả các nhóm nguyên nhân
(bệnh truyền nhiễm, bệnh mạn tính và chấn thương) và về các trường hợp chấn thương không gây
tử vong xảy ra trong năm trước đó. Tất cả các dữ li
ệu đã được phân tích để xác định các mô hình
bệnh tật và tử vong khác nhau theo lứa tuổi, giới tính và nguyên nhân. Báo cáo này thể hiện các kết
quả phân tích số liệu theo những nhóm tuổi khác nhau. Là một cuộc điều tra được thực hiện trực
tiếp tại các hộ gia đình trong cộng đồng, nghiên cứu này đã loại bỏ được những sai lệch có liên
quan đến các hệ thống báo cáo tại bệnh viện và các hệ thống theo dõi dự
a vào các cơ sở y tế khác.
Nghiên cứu này đã cung cấp những số liệu nền cơ bản nhất về chấn thương ở Việt Nam, do vậy
nên được tiến hành định kỳ (sau khoảng một vài năm) để có thể thấy được xu hướng biến thiên của
tình hình chấn thương, cũng như giám sát được hiệu quả của các chương trình can thiệp ở cấp quốc
gia hay khu vực.
VMIS đ
ã cho thấy rõ chấn thương đang dần trở thành một trong những nguyên nhân hàng đầu gây
tử vong ở Việt Nam, đặc biệt ở lứa tuổi trẻ em. Trong khi bệnh mạn tính là nguyên nhân lớn nhất
gây tử vong ở những người trên 50 tuổi, thì ở nhóm tuổi dưới 50 (nhóm chiếm tỉ lệ dân số lớn nhất
Việt Nam), chấn thương là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong. Biểu đồ dưới cho thấy, ở
nhóm
dưới 50 tuổi, tỉ lệ các trường hợp tử vong do chấn thương chiếm tới hơn 50% tổng số các trường
hợp tử vong và có thể đến hơn 80% (nhóm 5-9 tuổi); trong khi các tỉ lệ trường hợp tử vong do bệnh
mạn tính đứng thứ hai khoảng dưới 30% và tỉ lệ các trường hợp tử vong do bệnh truyền nhiễm chỉ
chiếm dưới 20% tổng số các trường hợp tử vong.

0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
0-1 1-4 5-9 10-14 15-49 50-64 65+ Chung
Chấn thương
Bệnh mạn tính
Bệnh truyền nhiễm

Biểu đồ dưới cũng cho thấy một xu hướng tương tự khi xét các nguyên nhân chấn thương, bệnh
mạn tính và bệnh truyền nhiễm trong số các trường hợp không gây tử vong: trừ nhóm tuổi so sinh
(dưới 1 tuổi) và nhóm trên 50 tuổi, chấn thương hiện là nguyên nhân lớn nhất gây ra các trường
hợp bệnh, tiếp theo sau là các bệnh mạn tính và các bệnh truyền nhiễm. Bên cạnh đó, khi xét chung
ở tất cả các nhóm tuổi, chấn thương cũ
ng là một nguyên nhân đáng kể dẫn đến các trường hợp
bệnh, sấp sỉ bằng bệnh mạn tính và hơn hẳn so với bệnh truyền nhiễm. Theo kết quả điều tra 27.000

3
hộ gia đình, trong năm 2001, ở Việt Nam có tổng cộng 7011 trường hợp chấn thương không tử
vong với tỉ suất là 5.449,7/100.000. Con số này có nghĩa là có khoảng 5,5% người Việt Nam đã bị
thương trong năm đó, với mức độ nghiêm trọng đủ để phải cần đến các can thiệp y tế hay phải nghỉ
học hay nghỉ làm ít nhất là một ngày.
0%

10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
0-1 1-4 5-9 10-14 15-49 50-64 65+ Chung
Chấn thương
Bệnh mạn tính
Bệnh truyền nhiễm

Biểu đồ dưới cho thấy sự phân bố của mức độ nghiêm trọng của các chấn thương ở các nhóm tuổi.
Mức độ nghiêm trọng của chấn thương được xác định bằng sự cần thiết phải có các chăm sóc y tế
có, thời gian phải nghỉ làm hay nghỉ học, thời gian lưu lại ở trong bệnh viện, sự hiện diện của các
thương tật vĩnh vi
ễn và/hoặc tử vong. Chấn thương ở mức nhẹ là cần đến các can thiệp y tế nhưng
không phải nằm viện, mức vừa là phải nằm viện dưới 10 ngày, mức nặng là phải trải nằm viện trên
10 ngày và thường phải qua các phẫu thuật lớn, mức trầm trọng là dẫn đến các thương tật vĩnh viễn
và chết. Nhìn chung, không có sự khác biệt đáng kể về sự phân b
ố của mức độ nghiêm trọng giữa
các nhóm tuổi. ở tất cả các nhóm tuổi tỉ suất mức độ nghiêm trọng của chấn thương giảm dần khi
mức độ nghiêm trọng tăng lên.

4
0
500

1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
0-1 1-4 5-9 10-14 15-49 50-64 65+
Chết
Trầm trọng
Nặng
Vừa
Nh ẹ

Ở Việt Nam có một mô hình dịch tễ học đặc thù về tử vong do chấn thương và mô hình này tuỳ
thuộc vào từng lứa tuổi khác nhau. Biểu đồ dưới cho thấy rằng từ tuổi sơ sinh cho tới lứa tuổi dậy
thì, đuối nước là một nguyên nhân nổi bật gây tử vong ở tất cả các nhóm tuổi, vượt xa các nguyên
nhân khác. Bắt đầu từ sau lứa tuổi dậy thì, tai nạn giao thông đường bộ
(TNGT) bắt đầu nổi bật và
sau đó tăng nhanh khi tuổi tăng. Chấn thương do giao thông đường bộ trở thành nguyên nhân hàng
đầu gây ra tử vong ở những nhóm tuổi từ 15 tuổi trở lên. Mô hình bao gồm đuối nước vượt trội ở
lứa tuổi trẻ nhỏ và chấn thương do giao thông đường bộ nổi bật ở lứa tuổi trẻ lớn là một mô hình
phổ biến ở cả các quố
c gia láng giềng của Việt Nam. Ở lứa tuổi trẻ em, hai nguyên nhân gây tử
vong này gây ra hai phần ba tổng số trường hợp tử vong do chấn thương ở trẻ và vì thế đòi hỏi một
sự quan tâm đặc biệt từ các nhà hoạch định chính sách y tế và xã hội. Bên cạnh đó, cũng cần có các
biện pháp tốt để hạn chế tối đa các trường hợp tử vong do TNGT, vì đây là nguyên nhân lớn nhất
gây ra các trường h
ợp tử vong ở nhóm tuổi từ 15 trở lên.
0

20
40
60
80
100
120
140
0-1 1-4 5-9 10-14 15-49 50-64 65+
Tỉ suất (/100.000)
Đuối nước
TNGT đường bộ
Vật sắc
Ngộ độc
Ngã
Điện giật
Ngạt
Vật rơi
Bỏng
Máy móc
Khác

Với tỉ suất 26,7/100.000, TNGT là nguyên nhân lớn nhất gây nên tử vong ở Việt Nam, và VMIS
ghi nhận được tổng cộng 35 trường hợp tử vong do tai nạn giao thông vào năm 2001. Với dân số

5
khoảng 78 triệu vào năm 2001, tỉ suất này có nghĩa là trung bình có khoảng hơn 20.000 trường hợp
tử vong do TNGT trong năm 2001, điều này có nghĩa là cứ mỗi ngày trung bình có khoảng 57
trường hợp tử vong do TNGT. Các chương trình can thiệp có hiệu quả sẽ cần phải xây dựng dựa
vào mô hình các nguyên nhân TNGT cụ thể ở những nhóm tuổi khác nhau. Đối với trẻ nhỏ, đa
phần TNGT xảy ra khi trẻ đang đi bộ, với trẻ l

ớn hơn thì chấn thương xảy ra cả với những trẻ đi bộ
cũng như đi xe đạp. Với những nhóm tuổi lớn hơn, từ trên 15 trở lên, chấn thương do đi xe máy trở
thành vấn đề hàng đầu dẫn đến các trường hợp tai nạn. Các chương trình can thiệp sẽ cần nhắm tới
đối tượng vị thành niên trở lên, bao gồm các cưỡng chế pháp luật cho qui định về
đội mũ bảo hiểm,
giáo dục các hành vi lái xe an toàn và phòng chống việc điều khiển xe khi say.
0
5
10
15
20
25
30
Đuối
nước
TNGT Vật sắcNgộ
độc
Ngã Điện
giật
Ng ạtVật tự
nhiên
Bỏng Máy
móc
Kh ác
Tỉ suất (/100.000)

Đuối nước là nguyên nhân đứng thứ nhì gây nên tử vong với tỉ suất tử vong là 22,6/100.000. Đuối
nước chủ yếu xảy ra ở lứa tuổi trẻ em, nếu tính riêng ở lứa tuổi từ 19 trở xuống thì, tỉ suất của đuối
nước cao hơn hẳn so với tỉ suất của TNGT. Do đuối nước chủ yếu xảy ra vào ban ngày, con số này
có nghĩa là vào ban ngày cứ khoả

ng 20 phút lại có một trẻ chết đuối. Tỉ suất chết do đuối nước ở trẻ
em Việt Nam cao gấp mười lần ở các nước phát triển. Chấn thương do các ngã là nguyên nhân
đứng thứ ba gây nên tử vong với tỉ suất tử vong là 9,5/100.000 và gây ra hơn 7.400 trường hợp tử
vong ở Việt Nam mỗi năm, hay gần 20 người mỗi ngày. Ngộ độc đứng ở vị trị thứ tư v
ới tỉ suất
ngộ độc gây tử vong là 7,3/100.000 và gây ra khoảng hơn 5.600 trường hợp tử vong trong năm
2001, hay khoảng gần 16 người mỗi ngày. Vật sắc là nguyên nhân đứng hàng thứ 5 với tỉ suất là
5,3/100.000, hay là có khoảng 11 trẻ bị chết do ngã mỗi ngày.
Đối với các trường hợp chấn thương không tử vong, TNGT cũng là nguyên nhân hàng đầu vởi tỉ
suất trên 100.000 lên đến hơn 1.400, nghĩa là mỗi ngày trung bình có khoảng gần 3.000 số vụ
TNGT không d
ẫn đến tử vong. Trong số này thì phần lớn các trường hợp TNGT xảy ra ở những
nhóm tuổi từ 15 trở lên và mức độ nghiêm trọng chủ yếu là các chấn thương ở mức nhẹ và vừa.

6
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
TNGT Vật
sắc
Đuối
nước
Ng ộ
độc

Ng ã Điện
giật
Súc
vật
cắn
Bỏng Ngạt Vật tự
nhiên
Máy
móc
Sét
đánh
Kh ác
Tỉ suất (/100.000)

Ngã đứng thứ hai trong số các nguyên nhân hàng đầu gây nên các chấn thương không gây tử vong.
VMIS ghi nhận được tổng số 1668 trường hợp chấn thương không tử vong do ngã và tỉ suất là
1297/100.000. Con số này tương đương với số trường hợp chấn thương do ngã mỗi ngày là hơn
2.700 trường hợp
Vật sắc là nguyên nhân chấn thương không gây tử vong đứng hàng thứ ba ở Việt Nam. Vật sắc gây
ra hơn 2.000 trường hợp chấn thương m
ỗi ngày. Chấn thương do súc vật cắn là nguyên nhân đứng
hàng thứ 4 với gần 1.800 trường hợp trung bình mỗi ngày. Khoảng 18% các trường hợp là chấn
thương có chủ định.
Một chỉ số đánh giá sức khoẻ cộng đồng quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách đó là số
năm sống tiềm tàng bị mất (YPLL). Chỉ số này cho biết sự mất mát những năm cuộc sống tiề
m
tàng dẫn tới mất mát năng suất trong tương lại và thu nhập tiềm tàng ở những người đã chết trước
tuổi 65. Biểu đồ dưới cho thấy sự phân bổ tương quan của YPLL ở Việt Nam trong năm 2001 của
các nguyên nhân gây tử vong. Rõ ràng chấn thương là nguyên nhân hàng đầu gây nên sự mất mát
các năm sống của con người.

10%
28%
62%
Bệnh truyền nhiễm Bệnh mạn tính Chấn thương

Khi xem xét chấn thương trên bình diện rộng, người ta có thể đánh giá sự phân bổ cụ thể của YPLL
theo các loại chấn thương khác nhau. Biểu đồ dưới phải so sánh YPLL ở nam và nữ, cho chúng ta
thấy đuối nước là nguyên nhân nổi bật. Mặc dù đứng hàng thứ hai về tỉ suất dẫn đến tử vong, sau

7
TNGT, đuối nước chiếm một con số đáng kể tổng số năm sống tiềm tàng bị mất. Do chủ yếu xảy ra
ở lứa tuổi trẻ em, việc phòng chống đuối nước cần được đặc biệt quan tâm và phải được ưu tiên
hàng đầu trong tất cả các chương trình sức khoẻ trẻ em. Việc này xứng đáng được chúng ta đầu tư
công sức và nguồn l
ực như đã làm đối với các bệnh truyền nhiễm - nguyên nhân gây tử vong hàng
đầu ở trẻ em Việt Nam trong thế kỷ trước. Các cố gắng tập trung đó đã mang lại cho trẻ em Việt
Nam những lợi ích to lớn, nó đã đưa các bệnh truyền nhiễm từ vị trí hàng đầu gây nên tử vong ở trẻ
xuống vị trí thứ hai. Nỗ lực và quyết tâm tương tự cũng có thể sẽ đư
a lại những thành quả như vậy
đối với vấn đề đuối nước cũng như các nguyên nhân gây nên tử vong khác ở trẻ em Việt Nam. Bên
cạnh đó, cũng cần có những sự quan tâm thích đáng đối với vấn đề TNGT, khi vấn đề này liên
quan đến tất cả các lứa tuổi, và là nguyên nhân chấn thương lớn thứ hai đóng góp vào số năm sống
tiềm tàng bị mất.
0
500
1000
1500
2000
2500
3000

TNGT Vật
sắc
Đuối
nước
Ngộ
độc
Ngã Điện
giật
Súc
vật
cắn
Bỏng Ngạt Vật tự
nhiên
Máy
móc
Sét
đánh
Khác Tất cả
Nam
Nữ

Nếu xét riêng ở lứa tuổi trẻ (dưới 19 tuổi), ta có thể thầy một chỉ số nữa cũng gây ấn tượng mạnh về
gánh nặng thực sự của tử vong do chấn thương là: nếu như tất cả các trường hợp tử vong do chấn
thương ở trẻ được ngăn ngừa, kỳ vọng sống khi mới sinh (hay tuổi thọ) ở Việt Nam sẽ tă
ng lên 7
năm. Ngoài ra, nếu giả định loại trừ được nguy cơ tử vong do chấn thương ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ,
thì tỉ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi (U5MR) sẽ có thể giảm gần bốn mươi phần trăm từ 48,6 phần
nghìn xuống còn 29,7 phần nghìn. Cũng dựa trên những ước lượng khoa học đó, nghiên cứu này
cho thấy rằng nếu nguy cơ tử vong do các b
ệnh truyền nhiễm được loại bỏ hoàn toàn ở trẻ dưới 5

tuổi, chúng ta sẽ chỉ làm giảm được U5MR từ 48,6 xuống còn 41,3 (nghĩa là giảm 15%). Tất nhiên,
trên thực tế việc loại trừ hoàn toàn các nguy cơ này là không thể và vì thế các phép ước lượng nói
trên chỉ mang tính dự đoán.
Trong toàn bộ bản báo cáo, các tác giả đã đưa ra một số lưu ý về việc phiên giải các số liệu, những hạn chế
nh
ất định mà cỡ mẫu gây ra, khoảng tin cậy rộng ở một số chỉ số thống kê, và số các trường hợp mắc cụ thể
đôi khi khá nhỏ để có thể đưa ra các kết luận chi tiết. Tuy không thể bỏ qua những hạn chế kỹ thuật như
vậy, nghiên cứu này vẫn giúp khẳng định một điều rằng chấn thương đang là một vấn đề r
ất nhức nhối ở
Việt Nam, đặc biệt là đối với trẻ em. Khi chấn thương đang dần trở thành những vấn đề có ảnh hưởng đến
sức khoẻ của cộng đồng, đây chính là thời điểm để chúng ta phải dựa trên những phát hiện khoa học này để
bắt đầu xây dựng các chương trình phòng chống và kiểm soát chấn thương như là một bộ phận không th

thiếu được trong các chương trình nâng cao ở Việt Nam. Trong kỷ nguyên mới này, các chương trình về sức
khoẻ ở Việt Nam sẽ không thể được coi là hoàn thiện nếu như không bao gồm những nỗ lực phòng chống
và kiểm soát chấn thương một cách chặt chẽ.


8

×