Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả liên quan đến niêm yết trên thị trường chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần việt nam và ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.57 KB, 76 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự ra đời và phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại cổ
phần (NHTMCP) là kết quả của chính sách đổi mới hệ thống ngân hàng Việt
Nam sau những năm 1990. Chính sự xuất hiện của các NHTMCP đã làm tăng
tính cạnh tranh trên thị trường tài chính ngân hàng, góp phần quan trọng trong
việc tập trung nguồn vốn vào một hệ thống tài chính trung gian chuyên
nghiệp và lành mạnh, phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của đất nước. Các NHTMCP ở Việt Nam đã và đang tiến hành đổi
mới, tái cơ cấu, không ngừng cải tổ để củng cố năng lực quản lý, hoạt động
của mình; đồng thời luôn nỗ lực tìm chỗ đứng trong bối cảnh có rất nhiều
cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thế giới và trong
nước đã chứng kiến hàng loạt sự đổ vỡ, sáp nhập, tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng của hàng loạt các ngân hàng tên tuổi và có bề dầy hoạt động hàng trăm
năm như Lehman Brothers - định chế tài chính đã từng là ngân hàng lớn thứ
tư của Mỹ với 158 năm tuổi phá sản hôm 15/9/2008. Tiếp theo đó, hàng loạt
ngân hàng khác cũng phải phải tiến hành sáp nhập và thậm chí tuyên bố phá
sản như: Merrill Lynch, Countrywide Financial, Bear Stearns, Ameribank
[33]. Đối với Việt Nam, cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng cũng
là một quy luật kinh tế khách quan, tồn tại tất yếu khi chúng ta chủ trương
phát triển hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ổn định, vững chắc, đáp
ứng được đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hiện nay và thời
gian sắp tới.
Đứng trước áp lực cạnh tranh mạnh mẽ và nhiều phía như vậy, trong
khi năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam nhỏ bé, năng lực cạnh tranh
thấp, hệ thống quản trị điều hành còn nhiều bất cập nên các ngân hàng Việt
Nam sẽ khó đứng vững và phát triển trong thời kỳ hội nhập nếu không có
1
chiến lược phát triển phát triển phù hợp. Việc tăng giới hạn sở hữu của nhà
đầu tư chiến lược nước ngoài vào các NHTMCP Việt Nam kéo theo hệ quả tất
yếu của xu hướng thâu tóm, can thiệp sâu hơn vào bộ máy tổ chức, quản lý và


điều hành tại các Ngân hàng trong nước. Làm thế nào để nhanh chóng nâng
cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của các NHTMCP ở Việt Nam là
một đòi hỏi cấp thiết để đủ khả năng duy trì và phát triển NHTMCP trong
cuộc chiến cạnh tranh không cân sức với các tập đoàn tài chính nước ngoài
đang đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc vấn đề làm thế nào để tồn tại và phát triển, các
NHTMCP Việt Nam đã chủ động giải bài toán hội nhập bằng cách nâng cao
tiềm lực tài chính, đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ ngân hàng, tái cơ cấu bộ
máy tổ chức hoạt động, chú trọng phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng để
nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, tiến trình tăng năng lực tài chính
của các NHTMCP theo cách truyền thống diễn ra chậm chạp trong khi tiến
trình mở cữa thị trường tài chính ngân hàng đã diễn ra và áp lực cạnh tranh
mỗi ngày một lớn. Do vậy, để tăng nhanh năng lực tài chính của các
NHTMCP thì bài toán đầu tiên phải kể đến là làm thế nào để huy động và sử
dụng hiệu quả nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Đồng nghĩa với đó là vấn
đề niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK) phải được quan
tâm hàng đầu vì tính ưu việt của huy động vốn qua TTCK chính là một sự lựa
chọn tốt nhất. Chính vì vậy, niêm yết trên TTCK của các NHTMCP Việt Nam
là phương án khả thi để nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của
NHTMCP. Tuy nhiên, việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng cần được
nghiên cứu, cân nhắc một cách kỹ lưỡng, bởi lẽ, nó không chỉ ảnh hưởng tới
hiệu quả hoạt động của ngân hàng mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả của TTCK
và an toàn cho hệ thống ngân hàng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề niêm yết cổ phiếu của các NHTM nói chung và niêm yết cổ
2
phiếu của các NHTM cổ phần nói riêng đã được đề cập và thu hút sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
và những người quan tâm đến sự phát triển TTCK tại Việt Nam. Tuy nhiên,
một số đề tài nghiên cứu, bài viết đăng trên các báo chuyên ngành tiếp cận

vấn đề này trên góc độ đánh giá chung và góc độ quản lý kinh tế. Vì thế, việc
phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn của việc niêm yết cổ phiếu của
NHTMCP trên TTCK vẫn là rất cần thiết vì nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc nâng cao năng lực hoạt động của các NHTMCP trong bối cảnh
hiện nay.
Ngoài ra, từ thực tế phát sinh trong quá trình công tác tại MB, tôi đã
thu được những kiến thức thực tế bổ ích về hoạt động của ngân hàng, trong đó
tôi đặc biệt quan tâm tới chế định pháp lý về niêm yết cổ phiếu của Ngân
hàng trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; diễn biến quá
trình hoạt động trước và sau niêm yết của MB và đề xuất các giải pháp cho
việc nâng cao hiệu quả hoạt động niêm yết tại MB.
Vấn đề niêm yết cổ phiếu của NHTM trên TTCK được một số tác giả
nghiên cứu như: Luận văn thạc sỹ “Niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng
thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của tác giả Bùi
Văn Thành; Luận văn thạc sỹ “Thông tin và minh bạch thông tin trên thị
trường chứng khoán” của tác giả Lê Trường Vinh; Luận văn thạc sỹ “Một số
giải pháp nhằm đẩy mạnh việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương
mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Huyền; Luận án tiến sỹ “Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt
Nam” của tác giả Lê Thị Hương Lan…
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về NHTM,
NHTMCP và TTCK, luận văn nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng
hoạt động của NHTMCP nói chung, của MB nói riêng về niêm yết cổ phiếu
3
trên TTCK Việt Nam làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn cho việc niêm yết của MB
trên TTCK và các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP nói
chung và của MB trên TTCK. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể được xác định là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về NHTM và TTCK, vai trò của
NHTM và TTCK trong nền kinh tế thị trường;

- Nghiên cứu khái quát thực trạng hoạt động của các NHTMCP và
TTCK Việt Nam, tình hình niêm yết và nghiên cứu sự điều chỉnh của pháp
luật đối với hoạt động của NHTMCP và TTCK hiện nay;
- Thực tiễn quá trình niêm yết cổ phiếu của MB tại Sở giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh;
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động
NHTMCP, TTCK để khẳng định nhu cầu và các phương hướng đẩy mạnh
việc niêm yết các NHTMCP trên TTCK Việt Nam nói chung và của MB.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các văn bản quy phạm pháp luật về
NHTMCP liên quan đến niêm yết cổ phiếu trên TTCK, các tư liệu thực tế có
liên quan.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý và thực
tiễn của hoạt động NHTMCP và TTCK Việt Nam; thực tiễn hoạt động, lịch
sử hình thành và phát triển của các NHTMCP ở Việt Nam nói chung, của
Ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thu thập và tổng hợp thông tin, so sánh,
phân tích, đối chiếu … để làm sáng tỏ các căn cứ, cơ sở khoa học của vấn đề
nghiên cứu; từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại trong hệ thống pháp luật và
đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả vận
dụng các quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để
4
khái quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ngân hàng thương mại cổ phần,
niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và pháp luật Việt Nam về niêm

yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần.
Chương 2: Thực tiễn niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ
phần Quân đội.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả liên quan
đến niêm yết trên thị trường chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam và Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN,
NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN VÀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Nhận diện về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính tiền tệ
ngân hàng theo quy định của pháp luật, phục vụ các doanh nghiệp và các
thành phần kinh tế khác vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục
tiêu kinh tế của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của NHTM được thực hiện
theo các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước
và các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò là một định chế tài chính trung
gian, là nhân tố quan trọng trong việc khai thông nguồn vốn tiết kiệm đáp ứng
nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời nó
cũng giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nền kinh tế vận hành hữu
hiệu thông qua các kênh huy động vốn từ dân cư và phân phối lại nguồn vốn
đó thông qua các hình thức cấp tín dụng.
Đạo luật ngân hàng của Cộng hòa Pháp năm 1941 đưa ra khái niệm:
“Ngân hàng thương mại là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là

nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác, và sử dụng nguồn lực đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính” [28].
Theo Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua
6
ngày 16 tháng 6 năm 2010: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận” [31].
Qua các khái niệm trên chúng ta có thể rút một số đặc trưng của
NHTM như sau:
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp có địa vị pháp
lý bình đẳng như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác, có ngành nghề kinh
doanh chính là kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng, hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận. NHTM là một pháp nhân độc lập, tổ chức bộ máy tổ chức chặt
chẽ, có hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro, đáp ứng các tiêu
chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Tính
chất “đặc biệt” NHTM thể hiện các mặt sau: Lĩnh vực hoạt động kinh doanh
của NHTM là tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng - đây được coi là lĩnh
vực đặc biệt vì nó liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, đến mọi mặt của
đời sống kinh tế xã hội, được ví là “mạch máu của nền kinh tế”, là bức tranh
phản ánh dòng vốn của bất kỳ đất nước nào. Mặt khác, lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng là lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm, đòi hỏi luôn có sự thận trọng trong việc
điều hành hoạt để tránh gây thiệt hại cho nền kinh tế. NHTM là một doanh
nghiệp nhưng nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để kinh doanh chủ yếu là
nguồn vốn huy động từ bên ngoài, vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng rất
thấp trong tổng nguồn vốn kinh doanh.
- Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, bản chất “trung
gian tài chính” của NHTM thể hiện ở việc NHTM là tổ chức thực hiện việc

“đi vay để cho vay”, nghĩa là NHTM sử dụng nguồn vốn huy động thông qua
các kênh huy động và tái sử dụng nguồn vốn đó để thực hiện cấp tín dụng,
giải ngân đến các đối tượng có nhu cầu vay vốn và đáp ứng được điều kiện do
NHTM đặt ra trên nguyên tắc có lãi và đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật.
7
NHTM là một định chế tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất
trong việc khai thông các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư của các chủ thể
trong nền kinh tế, đồng thời nó cũng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
cho nền kinh tế vận hành nhịp nhàng, hữu hiệu. NHTM hoạt động theo định
chế tài chính tổng hợp và là thành viên chủ yếu tham gia vào hoạt động của
thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn.
Chức năng trung gian tài chính của NHTM bao gồm chức năng trung
gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán cho các doanh nghiệp, cá
nhân trong nền kinh tế. Chức năng trung gian tín dụng của NHTM là việc
ngân hàng làm cầu nối giữa người có vốn và người có nhu cầu sử dụng vốn,
hay nói các khác NHTM đóng vai trò vừa là chủ thể đi vay, vừa là chủ thể cho
vay trong nền kinh tế [27].
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán khi
ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng như trích một khoản tiền
trên tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào
một khoản tiền gửi của khách hàng từ tiền bán hàng hoá hoặc các khoản phải
thu khác theo lệnh của chủ tài khoản hoặc người được ủy quyền. Hiện nay,
NHTM nắm giữ phần lớn các khoản chi trả, thanh toán về hàng hóa và dịch
vụ của các doanh nghiệp và một bộ phận dân cư.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và thanh toán, NHTM có
điều kiện thuận lợi về thông tin, quan hệ với các doanh nghiệp từ đó có khả
năng làm tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp, đại lý bảo hiểm, ngân hàng lưu ký chứng khoán NHTM cũng
có thể tham gia trực tiếp vào thị trường tiền tệ thông qua việc mua bán các
loại chứng khoán hoặc đơn thuần làm dịch vụ kinh doanh tiền tệ để thu lợi

nhuận. NHTM cũng sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm dịch vụ ngân
hàng mới, thoả mãn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của người dân. Hiện nay, các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu của người
8
dân, doanh nghiệp thông qua các kênh cung cấp rất đa dạng như sản phẩm
truyền thống, sản phẩm ngân hàng điện tử.
Chức năng tạo nguồn tiền của NHTM tức là chức năng góp phần gia
tăng tiền tệ cho nền kinh tế. Chức năng tạo nguồn tiền được thực hiện thông
qua việc kết hợp chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán tạo
cho NHTM khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại NHTM. Từ một lượng tiền gửi ban đầu, qua nghiệp
vụ cho vay dưới hình thức chuyển khoản, đã làm cho số dư tiền gửi trên tài
khoản tiền gửi trong hệ thống NHTM tăng lên nhiều lần.
1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại
Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, nội
dung và phạm vi hoạt động chính của ngân hàng của NHTM như sau:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và
các loại tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài.
- Cấp tín dụng dưới các hình thức: Cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân hàng; phát
hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với
các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; các hình thức cấp tín
dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
- Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; cung ứng các phương tiện
thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh toán; tổ chức và tham gia các hệ
thống thanh toán.
- Ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh
toán ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối.
- Góp vốn, mua cổ phần: NHTM phải thành lập hoặc mua lại công ty

con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động kinh doanh sau đây: Bảo lãnh
phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ
9
quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua, bán
cổ phiếu; cho thuê tài chính; bảo hiểm. NHTM được thành lập, mua lại công
ty con, công ty liên kết hoạt động trong lĩnh vực quản lý tài sản bảo đảm, kiều
hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín
dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng.
- Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia đấu thầu tín phiếu
Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá khác trên thị
trường tiền tệ.
- Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh: Sau
khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, NHTM được kinh
doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản
phẩm sau đây: Ngoại hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài
sản tài chính khác.
- Nghiệp vụ ủy thác và đại lý: NHTM được quyền ủy thác, nhận ủy
thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo
hiểm, quản lý tài sản theo quy định của NHNN.
- Các hoạt động kinh doanh khác của NHTM: Dịch vụ quản lý tiền
mặt, tư vấn ngân hàng, tài chính; các dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két
an toàn; tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập
doanh nghiệp và tư vấn đầu tư; mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
doanh nghiệp; dịch vụ môi giới tiền tệ; lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng
và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng sau khi
được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
1.1.3. Tổng quan về niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán của ngân hàng thương mại cổ phần
1.1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động
giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến
10
hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ
những tổ chức phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán
lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp [27].
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động
trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ
thể nắm giữ các loại chứng khoán thông qua hệ thống trung gian là các công
ty chứng khoán. Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia
thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan
đến chứng khoán.
Chỉ số chứng khoán tăng hay giảm, giá chứng khoán lên hay xuống
phụ thuộc vào cung cầu thị trường. Vì thế sự chuyển động của giá cổ phiếu có
thể là một đồng hồ dự báo khuynh hướng chung của nền kinh tế. Sự phát triển
TTCK có tính thanh khoản và chiều sâu còn mang lại cho các quốc gia sự ổn
định cao hơn của hệ thống tài chính. Chính vì thế, người ta cho rằng TTCK
được gọi là “hàn thử biểu” của nền kinh tế, tính thanh khoản của thị trưởng
thể hiện ở khối lượng và giá trị giao dịch tốt thì bức tranh thị trường vốn
thông qua kênh này sẽ dồi dào; nghĩa là nguồn vốn tái đầu tư cho các mục
đích kinh doanh của các doanh nghiệp sau mỗi đợt chào bán, giao dịch sẽ đem
lại hiệu quả tích cực.
Như vậy, quan niệm đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với sự phát triển
chung của TTCK hiện nay như sau: TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua
bán, trao đổi các loại chứng khoán.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ,
nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa
các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các quan hệ mua
bán trao đổi chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán và thực

chất đây là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư
bản kinh doanh.
11
Thị trường chứng khoán không giống như thị trường các loại hàng hóa
thông thường, hàng hóa trên TTCK là quyền sở hữu về tư bản. Như vậy, có
thể nói, bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và
cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về
chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK chính là hình thức phát triển bậc
cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa [27].
1.1.3.2. Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Niêm yết chứng khoán được coi là quá trình “định danh” các chứng
khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán.
Cụ thể là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch
tại thị trường giao dịch tập trung (là các Sở giao dịch chứng khoán). Cụ thể,
đây là quá trình Sở giao dịch chứng khoán xem xét và chấp thuận cho công ty
phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên Sở giao dịch
chứng khoán nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Sở
giao dịch chứng khoán đó đề ra, phù hợp quy định pháp luật về chứng khoán.
Hoạt động niêm yết đòi hỏi phải đảm bảo sự tin cậy đối với nhà đầu
tư. Các công ty xin niêm yết phải có đáp ứng được các điều kiện để niêm yết
và công khai thông tin, hồ sơ doanh nghiệp đối với nhà đầu tư. Điều kiện này
được quy định cụ thể trong quy chế về niêm yết chứng khoán do Sở giao dịch
chứng khoán ban hành. Yêu cầu quan trọng nhất trong vấn đề niêm yết là yêu
cầu về công bố thông tin của công ty. Các nhà đầu tư và công chúng phải nắm
được đầy đủ các thông tin và có cơ hội nắm bắt thông tin do công ty phát hành,
đảm bảo sự công bằng trong tiếp nhận thông tin, kể cả các thông tin mang
tính chất định kỳ hoặc thông tin bất thường có tác động đến giá cả, khối lượng
chứng khoán giao dịch cũng như tình hình hoạt động của tổ chức phát hành.
Chúng ta có thể thấy, mục đích cơ bản của niêm yết cổ phiếu là nhằm
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và đảm bảo duy trì sự hoạt động lành mạnh

của TTCK. Điều quan tâm nhất của nhà đầu tư khi quyết định tham gia mua
12
bán chứng khoán của tổ chức phát hành là đó phải là chứng khoán thực,
chứng khoán ấy phải đảm bảo việc chi trả cổ tức và quyền lợi khác cho nhà
đầu tư. Việc niêm yết cổ phiếu cũng nhằm thiết lập mối quan hệ hợp đồng
giữa Sở giao dịch chứng khoán với tổ chức phát hành về nghĩa vụ cung cấp
thông tin ra công chúng những thông tin có liên quan đến cổ phiếu và công ty
đó. Sở giao dịch chứng khoán đề ra các quy định, quy chế niêm yết, quy chế
giao dịch, thanh toán, bù trừ cũng như đưa ra các nguyên tắc công khai
thông tin nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và công bằng cho mọi nhà
đầu tư trên TTCK.
Có thể hiểu, niêm yết cổ phiếu là việc đưa các cổ phiếu có đủ điều
kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán theo các tiêu chuẩn, trình tự,
quy định mà Sở giao dịch chứng khoán ban hành.
1.1.3.3. Bản chất, đặc điểm và vai trò của niêm yết cổ phiếu của
ngân hàng thương mại cổ phần
Nếu như tiền gửi tiết kiệm là một trong các kênh huy động vốn truyền
thống thì TTCK được coi là một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp
niêm yết đồng thời là kênh đầu tư vốn của các nhà đầu tư bên cạnh hình thức
gửi tiết kiệm truyền thống. Hiện nay, NHTMCP thực chất là một doanh
nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần được quy định tại Luật doanh
nghiệp 2005. Với đặc tính là một công ty cổ phần, các NHTMCP không thể
bỏ qua khả năng huy động tăng vốn nhanh chóng thông qua TTCK. Bên cạnh
đó, để tạo ra sức cạnh tranh cho cổ phiếu của mình, tăng cao tính thanh khoản
cho cổ phiếu cũng như linh hoạt và giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất, việc
niêm yết cổ phiếu của ngân hàng trên TTCK trở thành một đòi hỏi bức thiết.
Niêm yết cổ phiếu của NHTMCP là việc đưa cổ phiếu của NHTMCP
đủ điều kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán. Chủ thể thực hiện
niêm yết đồng thời là chủ thể phát hành cổ phiếu là các NHTMCP hay còn
gọi là công ty niêm yết.

13
Niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, NHTMCP thực hiện niêm yết phải đáp ứng đồng thời điều
kiện theo quy định pháp luật về chứng khoán và ngân hàng với các chỉ tiêu
tài chính cụ thể
Tỷ số tài chính là các tỷ số được cấu trúc và tính toán từ dữ liệu các
báo cáo tài chính của NHTM nhằm phản ánh và đánh giá một đặc tính nào đó
trong hoạt động tài chính của Ngân hàng.
Để thực hiện niêm yết, ngoài việc đáp ứng các quy định pháp luật về
chứng khoán, các NHTMCPC phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện theo pháp
luật về ngân hàng; trong đó các NHTMCP phải thỏa mãn các chỉ tiêu tài
chính do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định như: Đảm bảo về thời gian
hoạt động tối thiểu, về vốn điều lệ, về bảo đảm an toàn trong hoạt động; về
phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro …
Việc quy định các NHTMCP phải đảm bảo các điều kiện này là cần
thiết do ngân hàng là lĩnh vực đặc thù, hoạt động ngân hàng có tính ảnh
hưởng dây chuyền và tác động trực tiếp tới hoạt động của các ngành nghề
khác trong nền kinh tế.
Thứ hai, thủ tục, trình tự thực hiện niêm yết cổ phiếu của các
NHTMCP phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý trực tiếp là Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Theo đó, các NHTMCP thực hiện niêm yết phải tuân thủ quy trình,
thủ tục chấp thuận niêm yết trên TTCK theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
Sau khi văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước đối với việc
tổ chức tín dụng cổ phần niêm yết trên TTCK có hiệu lực, NHTMCP phải
thực hiện đăng ký niêm yết trên TTCK theo quy định của pháp luật về
chứng khoán.
14
Thứ ba, NHTMCP có thể tham gia trên TTCK với hai tư cách khác

nhau, đó là tham gia với tư cách là một doanh nghiệp và tham gia với tư cách
là một trung gian tài chính.
Với tư cách là một doanh nghiệp, NHTMCP huy động vốn thông qua
việc phát hành chứng khoán trên TTCK; đầu tư và kinh doanh chứng khoán
thu lợi nhuận. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được cơ quan
quản lý nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi
phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao
dịch chứng khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán.
Với tư cách là một trung gian tài chính, NHTMCP thực hiện các dịch
vụ về chứng khoán cho khách hàng nhằm thu phí dịch vụ như : dịch vụ bảo
lãnh phát hành chứng khoán cho khách hàng; dịch vụ môi giới chứng khoán;
nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán cho khách hàng; các nghiệp vụ phụ trợ khác (lưu ký chứng khoán, quản
lý thu nhập khách hàng, nghiệp vụ tín dụng; nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư).
Vai trò của niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK thể hiện ở
các nội dung cơ bản như sau:
Một là, niêm yết cổ phiếu trên TTCK giúp NHTMCP huy động lượng
vốn lớn khi có nhu cầu.
Nguồn vốn kinh doanh luôn được các công ty xem nguồn tài chính
quan trọng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh ổn định, bền vững của
chính bản thân NHTM. Nguồn vốn kinh doanh cũng là nguồn tài chính quan
trọng để doanh nghiệp phát triển các kênh phân phối, tăng thị phần, và đầu tư
tài chính. Nhất là trong điều kiện kinh tế khó khăn như hiện nay, một thực tế
đã chứng minh rằng: NHTM nào vốn ít, quy mô nhỏ thì cơ hội vượt quá
khủng hoảng và mở rộng mạng lưới hoạt động sẽ khó khăn, gian nan hơn rất
nhiều các NHTM dồi dào về nguồn vốn. Do vậy, nguồn vốn được coi là tiền
đề khơi thông các hoạt động kinh doanh của NHTM, là thước đo hiệu quả và
khả năng thanh khoản cho các ngân hàng.
15
Ngân hàng có cổ phiếu niêm yết sẽ dễ dàng trong huy động vốn dài

hạn do khi tham gia niêm yết trên TTCK do NHTMCP có thể thu hút vốn dài
hạn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa
trên tính thanh khoản cao và uy tín trên thị trường. Các ngân hàng không phải
thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ truyền
thống thông qua hợp đồng tín dụng. Các NHTMCP niêm yết từ đó sẽ rất chủ
động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho mục tiêu kinh doanh
hàng năm, chiến lược và mục tiêu kinh doanh dài hạn của mình. Điều này
cũng được coi là yếu tố quan trọng nhất khi các NHTMCP quyết định niêm
yết cổ phiếu trên TTCK. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, áp lực tăng vốn
đối với các Ngân hàng đang luôn là vấn đề then chốt để các Ngân hàng tăng
cường năng lực hoạt động, mở rộng trụ sở, phát triển sản phẩm dịch vụ, tăng
cường năng lực đầu tư tài chính.
Hai là, tham gia niêm yết cổ phiếu giúp nâng cao tính thanh khoản
cho cổ phiếu của NHTM.
Nhờ có TTCK, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ
sở hữu thành tiền mặt hoặc mua bán sang các loại chứng khoán khác khi họ
muốn. Có thể nói rằng, khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp
dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Khi thanh khoản tăng, dòng vốn đầu
tư đổ vào thị trường trở nên mạnh mẽ hơn, nghĩa là tính thanh khoản chính là
yếu tố thu hút các nhà đầu tư gia nhập vào thị trường này. Ngược lại, khi thị
trường hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao
tính thanh khoản của các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường.
Khi cổ phiếu các NHTMCP được niêm yết, chúng có thể được nâng
cao tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp nhận làm tài sản bảo đảm và dễ
dàng được sử dụng phục vụ cho các mục đích về tài chính, thừa kế và các
mục đích khác. Hơn nữa, các cổ phiếu được niêm yết có thể được mua với số
lượng rất nhỏ, do đó các nhà đầu tư có vốn nhỏ vẫn có thể dễ dàng trở thành
cổ đông của NHTMCP.
16
Ba là, quảng bá thương hiệu NHTMCP niêm yết.

Niêm yết chứng khoán là một quá trình khó khăn, NHTM phải đáp
ứng được những điều kiện chặt chẽ về mặt tài chính, hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng như cơ cấu tổ chức theo quy định. Thực tế cho thấy, các NHTM
đã đăng ký niêm yết hiện nay đều là các ngân hàng có quy mô vốn điều lệ
cao, hoạt động kinh doanh tốt, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro và phát triển
sản phẩm dịch vụ đa dạng, thuộc nhóm ngân hàng được đánh giá xếp hạng tín
nhiệm tốt của Ngân hàng nhà nước. Thông qua việc niêm yết, hình ảnh của
các NHTMCP trong các nhà đầu tư, cổ đông và khách hàng sẽ được “tô đẹp”
hơn nữa. Nhờ vậy NHTMCP được niêm yết có sức hút đầu tư hơn đối với các
nhà đầu tư và công chúng. Do đó, việc trở thành ngân hàng được niêm yết sẽ
giúp cho nhiều người biết đến như một ngân hàng làm ăn có hiệu quả, luôn
được công chúng quan tâm. Việc niêm yết cũng là một hình thức quảng bá
thương hiệu rất hiệu quả và ít chi phí cho các NHTMCP.
Bốn là, tăng cường hiệu quả quản lý và hoạt động.
Sau khi niêm yết, các NHTM sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình, điều này thể hiện ở việc song song với việc tăng vốn, các ngân hàng đổi
mới phương thức quản lý, đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, trình độ
chuyên môn cán bộ, nhân viên được nâng cao. Từ đó ngân hàng tăng được số
khách hàng trung thành, khách hàng truyền thống ngày càng được củng cố.
Đây chính là nhân tố đem lại nguồn thu ổn định và dài hơi cho các NHTM
thông qua việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Ngoài ra, để thu hút đầu vốn từ các nhà đầu tư trên thị trường cũng
như để sử dụng đồng vốn có hiệu quả, các NHTM cũng phải cải thiện chính
sách quản lý của mình. Đồng thời sự giám sát hoạt động của ngân hàng cũng
mang tính xã hội hóa cao hơn. Do đó, NHTM sẽ hoạt động có hiệu quả hơn.
Tóm lại, niêm yết cổ phiếu và quản lý việc niêm yết cổ phiếu có vai trò rất
quan trọng đối với các NHTMCP, đối với nhà đầu tư và đối với sự phát triển
17
của TTCK. Do đó, việc điều chỉnh việc điều chỉnh cả pháp luật đối với quan
hệ niêm yết cổ phiếu cần thiết có sự điều chỉnh của pháp luật.

1.2. PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều hiện
kinh tế - chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên
cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới,
Việt Nam đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng biệt: về chủ
trương, ban đầu sẽ thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán ở Thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, sau đó khi thị trường đã phát triển thì sẽ chuyển
thành Sở giao dịch chứng khoán. Hiện tại đã phát triển thành hai Sở giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Sự ra đời và phát triển của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc
đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 20/7/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000.
1.2.1. Các chủ thể có liên quan trong quá trình niêm yết cổ phiếu
của ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán
Như đã phân tích ở trên, TTCK là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch
mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở
thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những
người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các
chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình
thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng
các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán [27].
Các chủ thể tham gia trong quá trình niêm yết cổ phiếu của NHTMCP
trên TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành đồng thời là
chủ thể thực hiện niêm yết là các NHTMCP, nhà đầu tư và các tổ chức có liên
quan đến chứng khoán.
18
1.2.1.1. Chủ thể thực hiện niêm yết
Chủ thể thực hiện niêm yết là các NHTMCP thực hiện huy động vốn
thông qua TTCK; hay còn gọi là các “nhà phát hành” chứng khoán. Các

NHTMCP là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK.
1.2.1.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người có nhu cầu mua, bán chứng khoán của các
NHTMCP trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư
cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Riêng đối với các nhà đầu tư là tổ chức, cá
nhân nước ngoài phải tuân thủ các điều kiện riêng về sở hữu cổ phần trong
các NHTMCP tại Việt Nam.
1.2.1.3. Các chủ thể khác có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Các tổ chức kinh doanh trên TTCK: Là công ty chứng khoán nơi thực
hiện chức năng trung gian mua bán chứng khoán của các NHTMCP trên TTCK.
- Cơ quan quản lý nhà nước: Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
- Các Sở giao dịch chứng khoán.
- Các tổ chức khác có liên quan đến TTCK như: Hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán; Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán; Công
ty dịch vụ máy tính chứng khoán; Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
1.2.2. Điều kiện niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ
phần ở Việt Nam
1.2.2.1. Điều kiện niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ
phần tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh của các NHTM ngoài việc đáp ứng các điều kiện chung đối với việc
niêm yết cổ phiếu thì cần tuân thủ các điều kiện riêng là phải có sự thẩm định
và chấp thuận trước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo quy định tại
điều 53 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ
19
sung một số điều của Luật chứng khoán thì các điều kiện niêm yết cổ phiếu của
NHTMCP tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm:
- Có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 120 tỷ đồng
Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;

- Có ít nhất 02 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính đến
thời điểm đăng ký niêm yết (ngoại trừ các Ngân hàng nhà nước cổ phần hóa
gắn với niêm yết); tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm
gần nhất tối thiểu là 5% và hoạt động kinh doanh của hai năm liền trước năm
đăng ký niêm yết phải có lãi; không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01
năm; không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy
định của pháp luật về kế toán báo cáo tài chính;
- Công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó
Tổng Giám đốc), Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
- Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất ba trăm (300)
cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ;
- Cổ đông là cá nhân, tổ chức có đại diện sở hữu là thành viên Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc
(Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công ty; cổ đông lớn là người có
liên quan với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng
Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công
ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 06
tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 06 tháng
tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên
đại điện nắm giữ;
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định.
- Được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
20
1.2.2.2. Điều kiện niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ
phần tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Theo quy mô và đặc điểm của từng Sở giao dịch chứng khoán, việc
quy định điều kiện niêm yết cổ phiếu của từng Sở giao dịch sẽ có sự khác
nhau. Đối với Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội thì điều kiện niêm yết được
quy định thấp hơn so với Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí

Minh. Theo quy định tại điều 54 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán thì điều kiện niêm
yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cụ thể như sau:
- Có có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 30 tỷ
đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
- Có ít nhất 01 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính
đến thời điểm đăng ký niêm yết (ngoại trừ Ngân hàng nhà nước nhà nước cổ
phần hóa gắn với niêm yết); tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu
(ROE) năm liền trước năm đăng ký niêm yết tối thiểu là 5%; không có các
khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm, không có lỗ lũy kế tính đến thời
điểm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán báo
cáo tài chính;
- Tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 cổ
đông không phải cổ đông lớn nắm giữ;
- Cổ đông là cá nhân, tổ chức có đại diện sở hữu là thành viên Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc
(Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công ty; cổ đông lớn là người có
liên quan với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng
Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công
ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 06
21
tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 06 tháng
tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên
đại diện nắm giữ;
- Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định.
- Được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Như vậy: Về cơ bản các điều kiện niêm yết cổ phiếu của các
NHTMCP tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội là giống nhau về đầu mục hồ sơ; các thông số và

chỉ tiêu tài chính. Tuy nhiên, do đặc điểm, quy mô và yêu cầu đối với từng Sở
giao dịch nên các chỉ số tài chính cụ thể là có sự khác biệt.
Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đòi hỏi chủ thể
thực hiện niêm yết phải có quy mô vốn điều lệ lớn hơn rất nhiều so với Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội (120 tỷ so với 30 tỷ); thời gian hoạt động dài
hơn tính đến thời điểm đăng ký niêm yết (2 năm so với 1 năm); đặc biệt là cơ
cấu cổ đông với tỷ lệ cổ phiếu có quyền biểu quyết không phải là cổ đông lớn
phải đặt mức độ cao hơn (20% và so với 15%). Điều này cho thấy: yêu cầu
niêm yết, điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh được xem là quy mô hơn, khó khăn hơn so với Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội. Điều này được lý giải nhằm phù hợp với lịch sử phát triển, quy
mô phát triển và điều kiện đáp ứng của từng Sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay, các NHTMCP đã niêm yết trên TTCK thì hầu hết đều thực
hiện đăng ký niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
do hầu hết các Ngân hàng đều thỏa mãn và đáp ứng tốt các điều kiện niêm yết
theo quy định pháp luật. Việc niêm yết tại một thị trường “quy mô hơn” sẽ
đem lại những lợi ích nhất định đối với các chủ thể niêm yết trên thị trường
này như: nâng cao vị thế và uy tín cho chủ thể niêm yết, tăng khả năng thanh
khoản cho cổ phiếu niêm yết…
22
1.2.3. Trình tự niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ
phần ở Việt Nam
1.2.3.1. Thủ tục chấp thuận niêm yết theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước
Trong quá trình thực hiện niêm yết cổ phiếu, ngoài việc tuân thủ các
quy định về chứng khoán và TTCK, các NHTM còn phải tuân thủ quy định
chuyên ngành của NHNN; đặc biệt là việc tuân thủ các điều kiện về thời gian
hoạt động, vốn điều lệ, chỉ tiêu an toàn tài chính, tỉ lệ nợ xấu…
Theo quy định tại Thông tư số 26/2012/TT-NHNN ngày 13 tháng 09
năm 2012 về hướng dẫn thủ tục chấp thuận của NHNNVN đối với việc niêm

yết trên TTCK trong nước và nước ngoài của tổ chức tín dụng cổ phần thì
điều kiện để các NHTMCP được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận niêm yết
trên TTCK như sau:
- Có thời gian hoạt động tối thiểu là 02 (hai) năm tính đến thời điểm
đề nghị.
- Giá trị thực của vốn điều lệ đến thời điểm đề nghị không thấp hơn
mức vốn pháp định theo quy định hiện hành.
- Hoạt động kinh doanh có lãi trên cơ sở báo cáo tài chính hợp nhất có
kiểm toán và báo cáo tài chính riêng lẻ có kiểm toán trong 02 (hai) năm liền
kề trước năm đề nghị.
- Tuân thủ các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của
NHTMCP tại Điều 129 và Khoản 1 Điều 130 Luật Các tổ chức tín dụng và
các hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước đối với các quy định này liên tục
trong trong thời gian 06 (sáu) tháng liền kề trước thời điểm đề nghị.
- Tỷ lệ nợ xấu dưới 3% so với tổng dư nợ tại thời điểm cuối quý trong
thời gian 02 (hai) quý liền kề trước quý đề nghị.
- Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm cuối quý liền kề trước quý đề nghị.
23
- Trong thời gian 12 (mười hai) tháng liền kề trước thời điểm đề nghị,
NHTMCP không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng dưới hình thức phạt tiền với tổng mức phạt từ 30 (ba mươi) triệu
đồng trở lên.
- Tại thời điểm đề nghị, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của
NHTMCP có số lượng và cơ cấu đảm bảo quy định của pháp luật hiện hành.
- Tại thời điểm đề nghị, NHTMCP có bộ phận kiểm toán nội bộ và hệ
thống kiểm soát nội bộ bảo đảm tuân thủ Điều 40, Điều 41 Luật Các tổ chức
tín dụng và các quy định có liên quan của pháp luật hiện hành.
Như vậy, việc NHNN quy định các điều kiện cao hơn, chặt chẽ hơn
đối với các NHTM có nhu cầu thực hiện niêm yết trên Sở giao dịch chứng

khoán là cần thiết do đây là lĩnh vực nhạy cảm, có rủi ro cao, hoạt động của
các NHTM luôn được coi là “huyết mạch” của nền kinh tế và có ảnh hưởng
trực tiếp đến tất cả các ngành nghề, lĩnh vực khác. Chỉ các ngân hàng đáp ứng
đầy đủ các điều kiện nêu trên mới được NHNN xem xét chấp thuận việc niêm
yết trên sàn, điều này góp phần đảm bảo an toàn hệ thống của chính các
NHTM tham gia niêm yết cũng như đảm bảo sự phát triển của thị trường
chứng khoản.
Nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên, các NHTM phải chuẩn bị hồ sơ
đề nghị chấp thuận niêm yết trên TTCK bao gồm các tài liệu như: Văn bản
của NHTMCP đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấp thuận niêm yết trên TTCK;
Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua việc niêm yết trên TTCK;
Báo cáo tài chính hợp nhất có kiểm toán và báo cáo tài chính riêng lẻ có kiểm
toán của 02 (hai) năm liền kề trước năm đề nghị. Trường hợp năm liền kề
năm đề nghị chưa có báo cáo tài chính có kiểm toán, tổ chức tín dụng cổ phần
gửi kèm hồ sơ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán
của năm này, đồng thời có văn bản cam kết bổ sung báo cáo tài chính sau khi
có kết quả kiểm toán.
24
Sau khi nhận được bộ hồ sơ đầy đủ của NHTM, trong thời hạn theo
quy định pháp luật (Hiện nay Thông tư số 26/2012/TT-NHNN ngày 13 tháng
09 năm 2012 về hướng dẫn thủ tục chấp thuận của NHNNVN đối với việc
niêm yết trên TTCK trong nước và nước ngoài của tổ chức tín dụng cổ phần
thì thời hạn là 40 ngày), Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấp thuận hoặc
không chấp thuận việc NHTMCP niêm yết trên TTCK. Sau khi văn bản chấp
thuận của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tổ chức tín dụng cổ phần niêm
yết trên TTCK có hiệu lực, NHTMCP phải đăng ký niêm yết trên TTCK theo
quy định của pháp luật về chứng khoán.
1.2.3.2. Thủ tục đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch
chứng khoán
Thứ nhất, về hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán.

Theo Điều 57 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 07 năm
2012 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng
khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán quy định
hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán; theo đó
các NHTMCP đăng ký niêm yết chứng khoán phải nộp hồ sơ đăng ký niêm
yết cho Sở giao dịch chứng khoán sẽ phải đáp ứng bao gồm:
- Giấy đăng ký niêm yết cổ phiếu;
- Quyết định của Đại hội đồng cổ đông kỳ gần nhất thông qua việc
niêm yết cổ phiếu;
- Sổ đăng ký cổ đông của tổ chức đăng ký niêm yết được lập trong
thời hạn 01 tháng trước thời điểm nộp hồ sơ đăng ký niêm yết;
- Bản cáo bạch theo mẫu của Bộ Tài chính;
- Cam kết của cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm
soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc), Kế
toán trưởng và cam kết của cổ đông lớn là người có liên quan với thành viên
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc
25

×