Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Sử dụng phương pháp hệ thống kiến thức cơ bản của phần làm văn, đọc văn, và lý luận văn học trong chương trình ngưc văn THPT để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng HSG tỉnh lớp 12 môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.96 KB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 3
**************&*************

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA
PHẦN LÀM VĂN , ĐỌC VĂN VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI
DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TỈNH LỚP 12 MÔN NGỮ VĂN BAN CƠ BẢN.
Người thực hiện: Trần Thị Lan
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn.
Trường: THPT Hậu Lộc 3.
Sáng kiến kinh nghiệm mơn Ngữ văn.

THANH HĨA NĂM 2013
1


A.Đặt vấn đề:
I.Cơ sở lí luận:
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh có nói “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi
ích trăm năm trồng người”và Đảng, Nhà nước ta luôn xác định Giáo dục là quốc
sách hàng đầu.Đó là chiến lược lâu dài để xây dựng và phát triển đất nước, nhất
là trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Vì
thế ngồi chất lượng giáo dục đại trà, chúng ta rất chú trọng đên chất lượng mũi
nhọn nhằm khuyến khích tài năng qua hình thức tổ chức các trường chuyên, lớp
chọn, tổ chức các kì thi học sinh gỏi từ cấp trường đến cấp quốc gia để chọn nhân
tài . Bởi theo Thân Nhân Trung “ Hiền tài là nguyờn khớ ca quc gia.
Môn Ngữ văn là môn khoa học xà hội cơ bản chiếm vị trí quan trọng trong nhà
trờng. Ngay từ khi lọt lòng mẹ mỗi ngời con đà đợc tiếp cận với những tác phẩm


văn chơng ngọt ngào, kì thú qua lời ru, lờ kể của bà, của mẹ, của chị. Vào mẫu
giáo con trẻ vẫn thẻ thọt câu đợc câu chăng qua những vần thơ, những câu chuyện
cổ tích của cô giáo. Và khi vào bậc học tiểu học rồi lên trung học các em học sinh
không chỉ làm quen mà đợc tiếp cận và tìm hiểu sâu các tác phẩm văn học, tùy
cấp học mà tiếp cận từ dễ đến khó. Vậy mới thấy chức năng giáo dục của tác
phẩm văn học là không nhỏ. Nhất là trong hoàn cảnh xà hội nh hiện nay, khi nền
kinh tế thị trờng diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật phát triển đến chóng mặt thì
vấn đề kĩ năng sống đặt ra cho học sinh qua mỗi bài học lại càng cần thiết hơn
bao giờ hết. Song dạy Ngữ văn cho học sinh không chỉ là giáo dục đời sống tâm
hồn cho các em, mà còn phải dạy các em cách t duy mạch lạc, phân tích một vấn
đề thấu đáo, qua đó làm toát lên t tởng, tình cảm, ý đồ nghệ thuật mà nhà văn
muốn gửi gắm.
Nhng rồi trong điều kiện kinh tế, xà hội phát triển nh hiện nay, số lợng học
sinh chuyên tâm và có hứng thú học môn này rất ít, các em chỉ học đối phó, còn
dành thời gian để học các môn khoa học tự nhiên. Điều đó là rÊt thùc tÕ víi xu thÕ
chän nghỊ ë c¸c em. Nhng không phải vì thế mà ngời giáo viên dạy bộ môn này
buông xuôi mà chúng tôi luôn có cái tâm nghề nghiệp, đó là dạy làm sao cho có
hiệu quả và gây đợc hứng thú học tập cho các em. Nhất là hàng năm môn học này
là một trong những môn thi học sinh giỏi các cấp
2


II. Cơ sở thực tiễn.
1. Thuận lợi:
Môn Ngữ văn là một trong hai môn học khoa học cơ bản ( Toán, Ngữ văn)
trong nhà trường, HS đã được tiếp cận và học từ bậc tiểu học. Và dù bất kì kỳ thi
nào: kiểm tra định kì, thi vượt cấp…mơn học này cũng đóng vai trị quan trong
trong đánh giá chất lượng học sinh.
Đặc biệt với chương trình Ngữ văn ở bậc THPT môn học không chỉ nhằm
cung cấp tri thức và kĩ năng sống cho HS mà còn là một trong 3 mơn cơ bản

trong kì thi tốt nghiệp( Tốn – Văn – Ngoại) và thi Đại học - cao đẳng khối C
2.Khó Khăn:
- Thực trạng chung hiện nay học sinh ít chọn ban C,D để học và thi chọn nghề
nghiêp. Các em chọn học ban KHTN để chọn nghề cho phù hợp với xu thế thời
đại.Vì thế HS chỉ học các mơn ban KHXH trong đó có mơn văn một cách qua
quýt để đối phó cho xong chuyện, có học cũng là gượng ép, thiếu hứng thú, non
sở thích.
- Thực tế ở trường THPT Hậu Lộc 3 , 100% HS đăng kí học ban KHTN, việc
chọn được một đội tuyển đi thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 quả là hết sức
khó khăn. Trường nằm trên vùng bán sơn địa của huyện Hậu Lộc, công tác xã hội
hóa giáo dục học tập cịn kém, chất lượng mũi nhọn cực kì hạn chế. Những em có
năng khiếu văn một chút, có thể tư duy được thì lại rơi vào những học sinh học
tốt môn khoa học tự nhiên. Mà trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh khơng cho phép
một học sinh có thể dự thi hai mơn, vì thế khi chọn mơn thi các em khơng chọn
mơn Ngữ văn mà chọn môn KHTN liên quan đế quyền lợi của mình trong kì thi
Đại học – Cao đẳng sắp tới. Vậy nên người lãnh đội phải chọn những học sinh ở
tốp dưới để bồi dưỡng mà không hi vọng mang lại hiệu quả cao.
- Chọn được đội tuyển rồi,thời gian bồi dưỡng cũng rất hạn chế ( Khoảng từ 610 buổi), những HS này vừa phải học bồi dưỡng Tốn, Lí, Hóa để thi Đại họccao đẳng, vừa ôn luyện để thi học sinh giỏi môn Ngữ văn. ….

3


2. Mục đích: Với đề tài nghiên cứu này bản thân tôi muốn sử dụng phương pháp
hệ thống kiến thức làm văn, đọc văn để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh
giỏi tỉnh môn Ngữ văn lớp 12 - ban cơ bản.
- Thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn hàng năm ở đơn vị chúng tôi
như đã trình bày ở trên gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế bản thân những người dạy
phải giúp học sinh nắm những vấn đề thật cụ thể, chi tiết, có hệ thống thì các em
mới dễ nắm bắt, nhớ lâu và biết cách xử lí đề ra.
B.Giải quyết vấn đề:

I. Xác định cấu trúc đề thi:
Trước khi cung cấp kiến thức và cách làm bài cho học sinh người giáo viên
phải giúp học sinh nắm được cấu trúc đề thi học sinh giỏi của bộ môn Ngữ văn.
Cụ thể là: Đề được chia làm hai phần:
1. Nghị luận xã hội ( 6 điểm).
2. Nghị luận văn học ( 14 điểm) được chia làm hai câu.
II. Hệ thống những đơn vị kiến thức sẽ ra đề thi.
Phần này thực tế hàng năm Sở giáo dục và đào đạo đã có cơng văn hướng dẫn
và giáo viên phải cung cấp cho học sinh. Trong đó nhấn mạnh cho các em rõ:
Trọng tâm là chương trình lớp 12, và các bài đọc thêm vẫn thi học sinh giỏi.
IV. Hệ thống lại các kiểu làm bài văn nhị luận.
Trong quá trình học tập ở nhà trường nhất là bậc phổ thông, đối với môn Ngữ
văn học sinh được tiếp cận, thực hành và đánh giá qua các kì thi chủ yếu là văn
nghị luận. Đó là cái đích cuối cùng của bộ mơn này vì qua đó người học thể hiện
được cách vận dụng kiến thức và kĩ năng làm bài của mình để cho ra sản phẩm là
một văn bản hoàn chỉnh. Vậy nên dù ở dạng nghị luận xã hội hay nghị luận văn
học với nhiều kiểu bài khác nhau giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng làm một
bài văn nghị luận. Với bất kì đối tượng học sinh nào cũng phải rèn cho học sinh
kĩ năng làm bài văn nhưng đối với đối tượng là học sinh giỏi thì cần yêu cầu cao
hơn để các em làm bài một cách khoa học: vừa sâu, rộng trong kiến thức vừa
chặt chẽ, thống nhất trong hình thức, kết cấu.
- Xác định được luận điểm của đề bài và triển khai, phát triển được luận điểm đó.
4


- Kĩ năng lập luận và vận dụng một cách nhuần nhuyễn khi kết hợp các thao tác
lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh - đối chiếu,
phản bác...
- Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý để khi làm bài đúng trọng tâm, đủ ý, không lan man, xa
đề, lạc đề.

- Kĩ năng viết mở bài, thân bài, kết bài:
+ Mở bài:Là ấn tượng đầu tiên của một bài văn, tạo sức hút lớn cho người đọc và
phải là sao đanh như tiếng pháo. Để làm được điều đó, giáo viên phải yêu cầu
học sinh khi viết mở bài cần phải đạt ba yêu cầu sau: Dẫn dắt, nêu trọng tâm và
giới hạn vấn đề ngắn gọn; Gây được sự chú ý của người đọc về vấn đề mình viết;
Viết tự nhiên, giản dị nhưng sinh động, độc đáo , tránh sự cầu kì giả tạo, sáo
rỗng.
+ Thân bài: Có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề đặt ra ở phần mở bài, mở bài gồm
nhiều đoạn văn . Mỗi đoạn văn sẽ ôm chứa nội dung của một luận điểm để làm
sáng tỏ cho luận đề trong đó mỗi luận điểm được phát triển bằng các luận cứ,
được làm sáng tỏ bằng các lí lẽ và dẫn chứng cụ thể. Và các đoạn văn này được
viết bằng nhiều cách khác nhau như song hành, móc xích, diễn dịch, quy nạp,
tổng - phân - hợp nhưng phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau cả về nội dung lẫn
hình thức.
+ Kết bài: Để có một kết bài hay ngoài phải đảm bảo được việc tổng kết lại vấn
đề đặt ra ở phần mở bài và kết bài, cần tiếp tục khơi gợi được suy nghĩ, tình cảm
của người đọc. Hay nói cách khác là vừa phải có sức khái quat cao vừa mở rộng
nâng cao vấn đề vừa tạo dư ba trong lòng người đọc.
- Kĩ năng dùng từ phải đảm bảo tính chính xác, vừa cụ thể vừa mang tính khái
quát vừa mang màu sắc văn chương; diễn đạt trong sáng, mạch lạc nhưng phải có
sự logic, liên kết câu, đoạn văn chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức; trình bày
sạch đẹp, bố cục rõ ràng.
1. Trong phần văn nghị luận xã hội với ba kiểu đề: Nghị luận về một tư tưởng
đạo lí,Nghị luận về một hiện tượng đời sống Và Nghị luận về một vấn đề trong
tác phẩm văn học. Phần này về lí thuyết để làm bài khơng xa lạ gì đối với đối
5


tượng HS giỏi, nhưng để có được một bài văn hay, sâu sắc người giáo viên phải
dạy cho học sinh:

- Nhận dạng rõ ràng kiểu bài, xác định được vấn đề cần nghị luận. Nhất là đối
với những bài luận đề được rút ra từ những câu chuyện ngụ ngôn ngắn, câu
chuyện trong quà tặng cuộc sống, các câu danh ngôn, các ý kiến....Muốn xác định
được luận đề của những đề bài ấy giáo viên yêu cầu HS phải đọc kĩ đề, phải hiểu
được câu chuyện, câu nói, ý kiến ấy đề cập đến vấn đề gì qua hệ thống ngơn từ
giàu tính hình tượng, đa nghĩa , hàm súc ... và phải đặt ra câu hỏi tại sao lại nói
như vậy, nói như vậy là có ý nghĩa gì?...
- Kĩ năng làm bài:
+ Cần vận dụng các thao tác nghị luận một cách uyển chuyển, linh hoạt các thao
tác và kết hợp chúng để bài viết đạt hiệu quả cao nhất.
+ Cần vận dụng tổng hợp các phương thức biểu đạt: Bên cạnh việc kết hợp nhiều
thao tác lập luận, bài văn nghị luận xã hội cần phải có sự kết hợp với các phương
thức biểu đạt đó là biểu cảm, thuyết minh, tự sự, miêu tả... nhất là phương thức
biểu cảm. Bởi văn nghị luận thuyết phục người đọc khơng chỉ riêng lí trí mà cịn
phải tác động vào tình cảm, cảm xúc. Khi đó để chân lí khơng chỉ được nhận
thức mà cịn phải tác động vào tình cảm, cảm xúc, người đọc khơng chỉ biết, hiểu
mà còn xúc động nữa.
- Và với phần văn nghị luận xã hội khơng chỉ đơn thuần là mục đích cung cấp
kiến thức xã hội mà mục đích cao cả hơn là giúp học sinh nhận thức đúng đắn
những vấn đề đạo đức nhân sinh cao đẹp trong đời sống xã hội để rồi giáo dục
nhân cách cho các em.Vì thế đối với kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
cần yêu cầu cao ở HS khi rút ra được ý nghĩa, bài học nhận thức và hành động về
một tư tưởng, đạo lí. Cịn với kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống phải
yêu cầu cao ở HS khi bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội
đó.
1.Phần nghị luận văn học: Giáo viên hướng dẫn HS nắm lại lí thuyết về
từng kiểu bài nghị luận văn học cụ thể:

6



*Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. Với kiểu bài này GV cũng phải hướng
dẫn cho học sinh làm bài một cách cụ thể như sau:
+ Nắm bắt được nhân vật trữ tình trong văn bản , phải xác định được nhân vật
trữ tình chủ thể hay trữ tình nhập vai và phải nắm bắt được sự vận động, phát
triển của tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình đó.
+ Phân chia bài thơ làm các phần, đoạn và phải xác định được luận điểm của
từng phần và từng đoạn .
+ Phải phân tích nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ, câu thơ như cách viết câu, sử
dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... để rồi làm nổi bật nội dung tư
tưởng mà nhà thơ muốn thổ lộ.Nhưng khơng nên dàn trải, bình qn mà phải có
sự lựa chọn và chú trọng vào chi tiết nghệ thuật độc đáo.
+ Sau khi phân tích phải tổng hợp, khái quát, đánh giá, nâng cao vấn đề
*Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi: GV chia tách thành
các kiểu bài với cách tiếp cận và nắm bắt cụ thể như sau:
- Phân tích nhân vật.
+ Ý nghĩa của việc phân tích nhân vật: Nhân vật là “công cụ” giúp nhà văn phản
ánh tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về
nhân sinh của nhà văn. Nhân vật chính thường điển hình cho một giai tầng nào đó
trong xã hội, thậm chí một thời đại.Vì vậy khi giúp học sinh nhận thức một nhân
vật, giáo viên phải giúp các em hướng tới khái quát được các giá trị đó. Ngoài ra
nhân vật là con đẻ của nhà văn trong suốt cả một quá trình thai ngén vì thế khi
phân tích nhân vật cũng là để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp nghệ thuật của
nhà văn.
+ Các phương diện cơ bản khi phân tích nhân vật tự sự.
. Lai lịch: Chính là hồn cảnh xuất thân, hồn cảnh gia đình, điều kiện sống
trong quá khứ của nhân vật... nó phần nào chi phối đến tính cách, số phận của
nhân vật.
. Ngoại hình: Theo quan niệm của ơng bà ta xưa “ Trơng mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lịng mới ngon”, nhà văn cũng vậy, miêu tả ngoại hình nhân

vật nhằm hé mở tính cách, chiều sâu nội tâm bên trong. Đại thể là như vậy nhưng
7


với một số trường hợp cũng có thể là một sự trật khớp giữa ngoại hình và tính
cách.
. Ngơn ngữ: Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học được cá thể hóa cao
độ, mang đậm dấu ấn cá nhân.
. Nội tâm nhân vật: Đó là thế giới bên trong của nhân vật với những cảm xúc,
cảm giác, tình cảm, suy nghĩ....Thâm nhập thế giới nội tâm phong phú của nhân
vật trở thành cuộc hành trình đầy thú vị của nhà văn, cũng là điều hấp dẫn với
người đọc và người phân tích tác phẩm sau đó.
. Cử chỉ, hành động: Bản chất con người ta bộc lộ chân xác, đầy dủ nhất qua cử
chỉ, hành động. Vì thế phân tích nhân vật cần phân tích được cử chỉ hành động và
cách hành xử của nhân vật ấy.
+ Vai trị của tình huống truyện đối với việc thể hiện nhân vật trong tác phẩm tự
sự: Khi phân tích nhân vật, chúng ta cần quan tâm thích đáng đến tình huống
truyện.Vì thơng qua tình huống truyện, nhân vật sẽ phần nào thể hiện được tính
cách, số phận nhân vật.
Trên đây là phần hướng dẫn cơ bản cho học sinh làm một bài văn phân tích
nhân vật, nhưng giáo viên cần lưu ý học sinh khơng nên máy móc mà phải linh
hoạt ở từng nhân vật văn học cụ thể để đạt hiệu quả cao khi làm bài.
- Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn xuôi: Đây là dạng đề liên quan đến
một vấn đề, một phương diện về nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Giáo viên phải giúp học sinh chỉ ra được những biểu hiện, ý nghĩa của vấn đề đó
trong tác phẩm.
* Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học: Với kiểu bài bài này thi học sinh
giỏi cấp tỉnh rất hay ra bởi đòi hỏi ở HS khả năng khái quát, đánh giá vấn đề. Ý
kiến bàn về văn học có thể là một nhận định về văn học, một danh ngôn về vấn
đề trong văn học. Mà vấn đề đó có thể thuộc lí luận văn học, về văn học sử, về

tác phẩm, phong cách tác giả.Để làm tốt được kiểu bài này giáo viên phải hướng
dẫn học sinh như sau:
- Yêu cầu về kiến thức:

8


+ HS phải nắm được kiến thức về lí luận văn học, về văn học sử, về tác phẩm, về
phong cách tác giả, quan điểm sáng tác...
+ Kiến thức có được là nhờ vào cả một q trình tích lũy, tổng hợp trong cả quá
trình học tập, từ sách giáo khoa, từ các bài giảng của thầy cô, tù các văn hay của
các bạn học sinh trong các kì thi học sinh giỏi.
- Yêu cầu về phương pháp:
+ Phải hiểu đúng toàn diện nội dung, tinh thần của ý kiến, nhận định để xác định
đề bài đề cập đến vấn đề gì, bản chất của vấn đề là gì?
+ Khi phân tích, chứng minh nhận định đó vào cụ thể trong văn học, học sinh
phải biết nhìn nhận xem ý kiến, nhận định đó xác đáng chưa, sâu sắc chưa, có
khía cạnh nào phải bàn thêm khơng, nếu có chúng ta cũng có thể sử dụng thao tác
bình luận để làm sáng rõ quan điểm của mình.
* Nghị luận về một vấn đề mang tính chất tổng hợp: Đây là dạng đề yêu cầu
HS phải biết tổng hợp, khái quát so sánh, đối chiếu những vấn đề trong các tác
phẩm văn học. Nhưng những tác phẩm văn học phải ra đời trong một giai đoạn
lịch sử, có cùng chung đề tài, xu hướng, trào lưu. Khi so sánh người làm bài chỉ
ra được sự giống nhau, khác nhau của từng tác phẩm văn học cùng mang đề tài,
xu hướng, trào lưu ấy để thấy được sự độc đáo thú vị trong quá trình khám phá,
phát hiện cũng như tài năng văn chương của các nhà văn. Để làm tốt được kiểu
bài này giáo viên phải hướng dẫn học sinh như sau:
- Yêu cầu về kiến thức: Nhóm các văn bản về cùng một đề tài, một xu hướng,
một trào lưu văn học
- Yêu cầu về phương pháp:

+ Xác định được vấn đề cần phải làm sáng tỏ là gì?
+ Giải thích cho người đọc hiểu khái niệm của vấn đề đó .
+ Biểu hiện của vấn đề đó trong từng tác phẩm cụ thể.
+ So sánh để chỉ ra sự giống nhau, khác nhau của vấn đề đó trong từng tác phẩm.
+ Lí giải ngun nhân vì sao có sự giống nhau và khác nhau đó.
V. Hệ thống kiến thức các bài đọc văn.
1. Hệ thống kiến thức các bài đọc văn cụ thể.
9


Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận, giáo viên bồi
dưỡng học sinh giỏi còn phải giúp học sinh hệ thống lại kiến thức của các bài đọc
văn. Bởi vì các bài đọc văn trong chương trình lớp 11, 12 sẽ là phần trọng tâm
trong kì thi.Với dung lượng kiến thức nhiều, thời gian dành cho các buổi ôn
luyện rất hạn chế nên giáo viên sẽ phải có phương pháp cụ thể để các em có thể
tự học, nghiên cứu sách vở và giải đề.Cụ thể như sau:
* Trên tinh thần các bài đọc văn các em đã được học trên lớp theo thời khóa
biểu chính khóa, giáo viên được giao trách nhiệm bồi dưỡng phải giúp HS hệ
thống lại kiến thức của bài học để các em lĩnh hội vừa đầy đủ, vừa chi tiết
nhưng vừa khái quát nhất về văn bản. Để làm được điều đó ngồi kiến thức trong
SGK, SGV, Chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên phải năng đọc thêm các tài liệu,
tìm tịi sáng tạo trong q trình giảng dạy thì bài học mới có chiều sâu .Cụ thể
HS phải nắm được:
- Nét chính về tác giả: Như quan điểm sáng tác, đặc điểm văn học, phong cách
nghệ thuật. Học sinh nắm và hiểu được những điều đó sẽ hiểu sâu hơn về tác
phẩm và ý đồ ngệ thuật của nhà văn.
- Hoàn cảnh sáng tác , xuất xứ, vị trí của tác phẩm.
- Nội dung tư tưởng chủ đạo và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
- Điểm sáng văn chương của tác phẩm. Trong mỗi tác phẩm văn học nhất là văn
xi thường có một đoạn văn hoặc một chi tiết nghệ thuật đặc sắc để lại rất nhiều

dư vị trong lòng người đọc đồng thời cũng thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà
văn.Bởi có thể nói điểm sáng văn chương chính là gan ruột và sự tìm tịi, sáng tạo
để đưa đến cho người đọc sự thú vị nhất và cũng nhằm bộc lộ rõ nhất tư tưởng,
tình cảm của nhà văn. Ví dụ như: Cảnh đoàn tàu đi qua phố huyện lúc đêm khuya
( Hai đứa trẻ - Thạch Lam), Cảnh cho chữ ( Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân),
Hồn quê trong Tràng giang của Huy Cận; Hình ảnh đơi bàn tay Tnú ( Rừng xà
nu - Nguyễn Trung Thành)....
* Sau khi các em đã nắm được kiến thức của các bài đọc văn, giáo viên sẽ hệ
thống các kiểu đề bài của văn bản đó, học sinh nắm bắt được các dạng đề bài và

10


về nhà thực hành để vừa khắc sâu kiến thức vừa thuần thục trong kĩ năng làm
một bài văn.
2. Hệ thống kiến thức các bài đọc văn theo từng giai đoạn, mảng đề tài, xu
hướng, trào lưu, thể loại.
a. Hệ thống theo từng giai đoạn:
* Hệ thống lại, hoàn cảnh lịch sử, xã hội ,nội dung, đặc điểm cơ bản của văn học
Việt Nam hiện đại qua từng giai đoạn với mục đích:
- Giúp học sinh nắm kiến thức một cách khái quát nhất về một giai đoạn văn học,
đó sẽ là cơ sở ở học sinh nắm bắt các bài đọc văn được sáng tác trong giai đoạn
ấy một cách bài bản, khoa học, sâu sắc nhất. Ngược lại, khi giáo viên giảng các
bài đọc văn cụ thể cần gắn với nét chính của giai đoạn văn học ấy và xem đó như
một dẫn chứng làm sáng tỏ phần nào giai đoạn văn học. Rõ ràng đó là một mối
quan hệ hữu cơ với nhau và nó sẽ phục vụ rất nhiều cho việc làm một bài văn
Nghị luận về một ý kiên bàn về văn học. Ví dụ ta có đề bài sau:
Đề bài: Có ý kiến cho rằng “ Thơ những năm kháng chiến chống Pháp đạt
được nhiều thành tựu xuất sắc. Tình yêu quê hương , đất nước, lòng căm thù
giặc, ca ngợi kháng chiến và con người kháng chiến là những cảm hứng

chính” ( SGK lớp 12- Ban cơ bản- tập1, Nhà xuất bản Giáo dục, tr5).
Qua các tác phẩm thơ viết trong thời kì chống Pháp đã học và đọc thêm
trong chương trình Ngữ văn lớp 12 hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
- Giúp HS có thể so sánh các giai đoạn văn học với nhau thông qua những tác
phẩm cùng viết về một đề tài, để rồi giúp học sinh có thể nhận thấy: Cùng viết về
một đề tài, đối tượng các nhà văn về cơ bản nhìn nhận, đánh giá đối tượng giống
nhau nhưng bên cạnh đó sẽ có nét khác nhau ở cách kết thúc cuộc đời , số phận
nhân vật. Tơi có thể lấy ví dụ: Khi các nhà văn viết về đề tài người lao động
nghèo trong chế độ cũ như: Chí Phèo ( Nam Cao) - viết trước cách mạng tháng
Tám năm 1945, Vợ chồng A Phủ ( Tơ Hồi), Vợ nhặt ( Kim Lân) - viết sau cách
mạng tháng Tám năm 1945. Các nhà văn đều phát hiện ra bản chất tốt đẹp trong
tâm hồn cũng như số phận đau khổ, bất hạnh của người lao động nghèo
khổ.Nhưng nếu là những tác phẩm viết trước cách mạng tháng Tám năm 1945,
11


các nhà văn chỉ mới dừng lại ở đó nên kết thúc truyện khơng mở cho nhân vật lối
thốt với một tương lai tươi sáng ở phía trước, mà là sự tù túng, đầy sự bi quan,
bế tắc, bế tắc cho cả một giai cấp. Cụ thể : Ở Chí Phèo của Nam Cao là Chí
Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch cũ. Còn những
tác phẩm viết sau cách mạng tháng Tám năm 1945 kết thúc truyện bao giờ cũng
là kết thúc mở, nhà văn mở ra một con đường sáng cho nhân vật mà ở đó là sự
đổi đời theo ánh sáng của cách mạng. Các nhân vật sẽ kết thúc một cuộc đời tăm
tối, cực nhục, bị chà đạp, bị áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, cường quyền
để vươn lên đòi lại quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho bản thân. Như tác
phẩm Vợ nhặt của Kim Lân chẳng hạn: Kết thúc truyện hiện lên trong óc Tràng
là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cùng những người đói đi phá kho thóc Nhật. Giáo
viên cũng giúp cho học sinh nhận thấy vì sao có sự khác nhau như vậy. Đó là do
nhận thức chính trị của các nhà văn ở thời điểm sáng tác tác phẩm. Và sở dĩ có
được kết thúc như vậy là do nhà văn nhìn cuộc đời, nhân vật bằng nhãn quan

cách mạng.
b. Hệ thống theo trào lưu, xu hướng văn học.
- Giáo viên phải giúp học sinh phương pháp nắm bắt từng văn bản cụ thể trên
tinh thần của từng trào lưu, xu hướng văn học. Để học sinh vừa nắm được đặc
trưng, xu hướng của từng trào lưu văn học, có nghĩa từ đó các em có thể làm
sáng tỏ nó ở từng tác phẩm cụ thể .Ví dụ như: Với phong trào thơ mới là tinh
thần của nó chính là ở cái tơi cá nhân với sự giải phóng về tình cảm, cảm xúc và
về trí tưởng tượng; Văn học hiện thực phê phán chính là ở nhân vật điển hình và
tính cách điển hình cho một giai cấp, tầng lớp người nào đó; văn xi chống Mĩ
là đề cập đến chất sử thi và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; Văn học sau năm
1975 mang cảm hứng thế sự - đời tư...
c. Hệ thống theo thể loại văn học.
Giáo viên giúp học sinh hệ thống các bài đọc văn có cùng một thể loại, bởi khi
đã cùng chung một thể loại thường có những nét tương đồng về nghệ thuật. Cùng
với việc học sinh đã nắm kĩ từng văn bản, học sinh có thể so sánh nét giống nhau
và khác nhau để chỉ ra sự độc đáo trong nghệ thuật sáng tạo của nhà văn. Ví dụ
12


bài Tùy bút Người lái đị sơng Đà ( Nguyễn Tn) và bài Bút kí Ai đã đặt tên
cho dịng sơng ( Hồng Phủ Ngọc Tường) ta có thể nhận thấy chúng có nét
tương đồng của thể kí.Đó là bằng ngịi bút phóng khống, tự do các nhà văn
thoải mái ghi chép lại những sự vật, sự việc, con người cụ thể bằng phong cách
nghệ thuật tài hoa, uyên bác.
V. Hệ thống các khái niệm thuộc về phần lí luận văn học.
Khi học sinh làm bài văn về một vấn đề trong tác phẩm văn học, hay xử lí
một đề bài tổng hợp mà trong đó có chứa đựng khái niệm bắt buộc các em phải
hiểu và giải thích được khái niệm rồi sau đó mới đi phân tích làm sáng tỏ. Các
khái niệm đó trong q trình giảng dạy giáo viên cũng đã cung cấp nhưng cụ thể
thành khái niệm, lời văn như thế nào, giáo viên phải cho học sinh nắm lại. Các

khái niệm đó là:
- Tình huống truyện.
- Tiềm tàng, tiềm ẩn.
- Tình huống truyện.
- Yêu nước.
- Nhân đạo.
- Cái tơi cá nhân.
- Tính sử thi .
- Cảm hứng lãng mạn.
- Chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Phong cách nghệ thuật...
VI. Hệ thống đề bài.
Sau khi giúp học sinh hệ thống lại những kiến thức cơ bản trên, giáo viên
sẽ đưa ra hệ thống đề bài dựa trên kết cấu đề thi học sinh giỏi tỉnh hàng năm để
các em thực hành. Các em có thể làm bài tại lớp và làm bài ở nhà, nhưng điều
quan trọng là khi các em làm bài giáo viên phải chấm bài để kiểm tra về kiến
thức, về kĩ năng làm bài của các em. Giáo viên phải chỉ ra chỗ đạt, chỗ chưa đạt
và phải sửa cho các em từ những lỗi nhỏ nhất để các em rút kinh nghiệm và
không tái phạm lần sau.
13


Ở bài viết này tôi chỉ đưa ra hai đề bài và hướng dẫn chấm để minh họa cho
những lí thuyết trên.
Đề 1.
Câu 1( 4 điểm): Trình bày hồn cảnh sáng tác và đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ
Việt Bắc ( Tố Hữu).
Câu 2 ( 6 điểm ): Bài học cuộc sống mà anh (chị) rút ra từ lời tâm sự của nữ
nhà văn Mĩ Helen Keller: “Tôi đã khóc vì khơng có giày để đi cho đến khi nhìn
thấy một người khơng có chân để đi giày”.

Câu 3 ( 10 điểm): Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tác phẩm Người
lái đị sơng Đà và Hồng Phủ Ngọc Tường qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng
sơng.
Hướng dẫn chấm:

CÂU

I

U CẦU

ĐIỂM

Học sinh cần nêu được các ý chính sau:
1. Hồn cảnh sáng tác :

4.0

- Tháng 5- 1954 chúng ta chiến thắng Điện Biên Phủ, đã mang lại

0,25

niềm vui kháng chiến, thắng lợi, hịa bình . Nhân sự kiện có tính
chất lịch sử tháng 10 - 1954 Trung ương Đảng quyết định rời chiến
khu Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội,Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt
Bắc .
- Bài thơ đã nói lên được tình nghĩa thắm thiết với Việt Bắc quê

0,25


hương cách mạng, với nhân dân và cuộc kháng chiến gian khổ của
người cán bộ cách mạng. Tất cả nay đã thành kỉ niệm sâu nặng, để
trong niềm vui không quên những cội nguồn của thắng lợi, khơng
qn những ngày gian khổ và nghĩa tình gắn bó, để càng tin tưởng
ở tương lai.
2. Nghệ thuật : Việt Bắc tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt

0,5

ngào tha thiết của TH và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
trong thơ ơng.

0,5
14


a. Thể thơ lục bát truyền thống được vận dụng tài tình trong một
bài thơ dài, vừa tạo được âm hưởng chung thống nhất vừa thể hiện
một sự biến hóa đa dạng, không nhàm chán cho người đọc. Để rồi
suối nguồn tình cảm cứ tn chảy dạt dào dưới ngịi bút của ông.
b. Kết cấu đối đáp: Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối

0,5

đáp giao duyên trong ca dao - dân ca: bên hỏi, bên đáp, người bày
tỏ, người hô ứng.Hỏi và đáp điều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách
mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, bao nỗi niềm nhớ
thương.Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc
thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những
người tham gia kháng chiến. Nên vừa có sự biến đổi linh hoạt , vừa

như phân thân, hóa thân của chính nhân vật trữ tình vào hai đại từ
mình- ta.

0,5

c.Những lối nói giàu hình ảnh, cách chuyển nghĩa truyền thống như
so sánh, ẩn dụ... được sử dụng thích hợp: Nhớ gì như nhớ người
yêu;... Nhớ hoa cùng người...nhằm gợi hình ảnh và giàu biểu cảm,
cảm xúc cho câu thơ.

0,5

d. Nhiều câu ca dao, câu Kiều được vận dụng:
- Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
(Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười)
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
(Những là rày ước, mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình)
Vừa miêu tả được hiện thực cụ thể, diễn tả tình cảm, tâm trạng vừa
quen thuộc, vừa mới mẻ.

0,5

e. Về ngôn ngữ: Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất mộc
mạc, giản dị nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách
15



mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào nghĩa tình

0,5

g. Tình nghĩa với căn cứ cách mạng , với nhân dân, với Đảng, với
Bác Hồ là tình cảm của người cách mạng nhưng đã trở thành ý
nghĩ, tình cảm cao đẹp chung của con người Việt Nam trong kháng
chiến: Thủy chung son sắt với quê hương đất nước.

II

Cần đảm bảo được các yêu cầu sau:

6
điểm

a/ Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
Sử dụng linh hoạt phương pháp: Giải thích, phân tích, bình luận.
Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, diễn đạt lưu lốt, khơng mắc lỗi
chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b/ u cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm
bảo các ý sau:
- Vấn đề cần nghị luận: Sự thiếu thốn khó khăn của mình chẳng

0,5

thấm gì nếu so với những khổ đau, bất hạnh của nhiều người khác

trong cuộc sống.
- Nội dung cần nghị luận:
* Giải thích hai hình ảnh đối lập nhau: “khơng có giày để đi” và
“khơng có chân để đi giày”
+ “Khơng có giày để đi”: là sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất

0,5

(tức là nói về hồn cảnh nghèo khó)
+ “Khơng có chân để đi giày”: là nỗi bất hạnh nghiệt ngã của số

0,5
16


phận (nỗi đau về thể xác và tâm hồn)
=> Ý nghĩa của lời tâm sự: Cuộc sống có mn vàn khổ đau và bất

0,5

hạnh, sự thiếu thốn của bạn chẳng thấm vào đâu khi so với nỗi bất
hạnh của nhiều người của nhiều người khác. Hãy thấy mình cịn là
người may mắn để biết chia sẻ và cố gắng vươn lên và không bao
giờ được cúi đầu tuyệt vọng trước những bất hạnh, những chơng
gai trong cuộc sống.
* Phân tích, bình luận:
+ Người ta khóc là khi trạng thái tâm hồn xúc động, đau buồn, có
khi vui quá cũng khóc. Nữ sĩ khóc vì hồn cảnh túng thiếu của 1.0
mình “khơng có giày để đi” bà đã khóc mãi cho đến khi bà nhìn
thấy một người khơng có cả đơi chân để đi giày→bà đã kịp nhận ra

mình cịn là người may mắn hơn họ rất nhiều. Như vậy dù phải đi
bằng đơi chân trần thì mình cịn có chân để bước trên đường đời,
cịn họ khơng có chân nên dù có giày cũng khơng thể đi được,
khơng thể làm những gì họ muốn => những thiếu thốn về vật chất
chẳng thấm gì so với sự thiếu thốn về xác và tinh thần.
+ Lời tâm sự của Helen Keller không dừng lại ở đôi giày, đôi chân

1.0

(nếu đôi giày là ước mơ, khát vọng của mình thi đơi chân lại là ước
mơ khát vọng của người khác). Hãy biết hài lịng với những gì
mình đang có và biết chia sẻ nỗi bất hạnh cùng người khác, động
viên nhau để đạt được những điều mà mọi người uớc mơ. Nếu yêú
đuối, thiếu bản lĩnh, nghị lực cuộc sống sẽ dễ bị buông xuôi và rơi
và tuyệt vọng (dẫn chứng- những tấm gương vượt khó trong thực tế
cuộc sống);
+ Lời tâm sự của nữ sĩ không chỉ thể hiện sự thức ngộ trước cuộc

1.0

sống mà cịn hàm chứa lời động viên, khích lệ: Dù ở bất kì hồn
cảnh nào cũng khơng được gục ngã phải gắng sức mà vươn lên, khó
khăn bất hạnh chính là thử thách tơi luyện ta trưởng thành, hồn
thiện mình.
17


-Bài học cuộc sống: Không nên than vãn, bi quan trước hồn cảnh

1.0


khó khăn về vật chất phải hiểu được giá trị đích thực của cuộc sống.
Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi nhận thức, bản lĩnh
và nghị lực vươn lên khơng ngừng. Hơn thế ta phải nhìn ra cuộc đời
để nhận biết, đồng cảm, chia sẻ từ đó có thêm sức mạnh, lịng tin
u cuộc sống để làm việc và cống hiến nhiều hơn. Tương lai của
III

mỗi người phụ thuộc vào sự nỗ lực của bản thân...
Cần đảm bảo được các yêu cầu sau:
a, Yêu cầu về hình thức:

10

- Biết cách viết một bài văn nghị luận văn học
- Bài viết đảm bảo một văn bản hoàn chỉnh, trình bày rõ ràng, mạch
lạc. Văn viết khơng sai phạm về dùng từ, ngữ pháp.
b, Yêu cầu về nội dung:
a. Giới thiệu khái quát về tác phẩm Người lái đị sơng Đà và
tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng?.
- Người lái đị sơng Đà: Là tùy bút đặc sắc , in trong tập Sông Đà,

0,5

Nguyễn Tuân đi tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười
đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động miền Tây Bắc.
- Ai đã đặt tên cho dịng sơng?: Là bút kí viết về vẻ đẹp của dịng

0,5


sơng Hương, qua đó ca ngợi vẻ đẹp của một vùng văn hóa xứ sở và
con người xứ Huế.
=> Đều là thể kí in đậm phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác

0,5

của hai nhà văn
Gợi ý:

b.Giải thích khái niệm Phong cách nghệ thuật:
- Là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định

0,25

của hệ thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật,
nói lên cái nhìn độc đáo trong các sáng tác của nhà văn, trong tác
phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.
- Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của

0,25

tác phẩm như một thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung
18


và hình thức tác phẩm. Chỉ có ở những nhà văn có tài năng, có bản
lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo.
c. Khái quát về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn
- Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố


0,5

gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề,
nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng là lay
động người đọc nhiều nhất.
- HPNT: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ

0,5

vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí.... Tất
cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,mê đắm và
tài hoa.
d. Nêu những nét tương đồng trong phong cách nghệ thuật của
hai tác giả g thể hiện qua hai tác phẩm:
- Đều là thể loại tuỳ bút và đều thấm đẫm chất trữ tình: ghi chép ,

0,5

miêu tả chi tiết cụ thể về vẻ đẹp của đối tượng được đề cập đến
trong văn bản, qua đó bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh
giá của mình về đối tượng đó. Cụ thể:
+ NLĐSĐ: Miêu tả dịng sơng Đà với hai tính cách đối lập nhau,

1.0

SĐ sinh thể sống, có tâm trạng , có tính cách , rồi SĐnhư một cố
nhân.Bên cạng đó là người lái đị bình dị mà tài hoa, trí dũng ,rất
đáng khâm phục và trân trọng.
+ AĐ ĐTCDS? Miêu tả dịng sơng Hương thấm đẫm chất thơ:


1.0

SH thơ mộng, dịu dàng, chung tình làm mê đắm lịng người bởi
có vẻ đẹp của một người thiếu nữ, của một người mẹ phù sa bồi
đắp cho một vùng văn hóa xứ sở.
- Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác
+ SĐ : NT sử dụng kiến thức của nhiều ngành khi miêu tả con

1.0

sông Đà như : địa lí, quân sự, điện ảnh, võ thuật và tài hoa ở
cách sử dụng ngôn từ: nhiều từ ngữ độc đáo mới lạ, sử dụng
19


nghệ thuật liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, nhân hóa.
+ AĐ ĐTCDS: HPNT am hiểu về các lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn

1.0

hóa, thi ca...và miêu tả dịng sơng bằng bút pháp nghệ thuật miêu
tả đặc sắc như: liên tưởng, tưởng tượng, so sánh nhân hóa.
e.Nét khác biêt: Thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo:
a. Nguyễn Tuân với Người lái đị sơng Đà: Nghiêng về phát

1.0

hiện và diễn tả những hiện tượng đập mạnh vào giác quan người
đọc ( Phân tích con sơng Đà Hung bạo và cuộc chiến giữa người

lái đị với con sơng).
b. Hồng Phủ Ngọc Tường với Ai đã đặt tên cho dịng sơng?:

1.0

Thiên về chất thỏ trữ tình dịu ngọt ( Phân tích sơng Hương để
nhận thấy).
g. Đánh giá nhận xét.
- Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề, có tâm

0,25

với nghề.
- Có tình u q hương đất nước thiết tha.
Lưu
ý

0,25

Học sinh có thể trình bày theo những kết cấu khác nhau và có
những cảm nhận riêng của mình miễn là đáp ứng được yêu cầu đề;
Khuyến khích thêm điểm cho những bài làm có năng lực cảm thụ
văn chương, có sáng tạo.

Đề 2.
Câu 1 ( 4 điểm): Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong khổ thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lịng q dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.

( Huy Cận - Tràng giang)
Câu 2 ( 6 điểm):

Địa ngục hay thiên đàng ?
20


Một ký giả được phép xuống địa ngục và lên thiên đàng để làm phóng sự
về cuộc sống ở đó. Anh xuống địa ngục vào đúng giờ ăn. Thức ăn toàn sơn hào
hải vị nhưng cư dân lại ốm o, gầy còm, da bọc xương. Và anh chỉ hiểu ra khi
quan sát họ dùng bữa. Muỗng, nĩa, đũa rất dài buộc dính vào đơi tay nên dù cố
gắng mấy họ cũng không thể đưa thức ăn vào miệng, mà thức ăn lại đổ ra bàn
hay rơi tung toé xuống đất. Tệ hơn nữa là họ tranh giành nhau, và muỗng, nĩa,
đũa trở thành vũ khí để họ đâm chém nhau. Khi giờ ăn kết thúc, họ buồn bã, thất
vọng rời phịng ăn với dạ dày rỗng khơng.
Q sợ hãi, chàng ký giả rời địa ngục để lên thiên đàng. Đến nơi cũng
đúng vào giờ ăn. Thức ăn đơn sơ, giản dị nhưng cư dân ai cũng vui tươi, khỏe
mạnh. Đôi bàn tay họ cũng được gắn chặt vào muỗng, nĩa, đũa rất dài. Có khác
là thay vì đưa thức ăn vào miệng của mình thì họ lại yêu thương dùng muỗng,
nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang tiếng ca hát, nói cười vui vẻ.
(Theo internet)
Anh/chị suy nghĩ như thế nào trước những điều anh ký giả trông thấy ?
Câu 3 ( 10 điểm) : Số phận bi thảm và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người
phụ nữ Việt Nam qua ba nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ( Tơ Hồi),
người vợ nhặt trong Vợ nhặt ( Kim Lân) , người đàn bà hàng chài trong tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu).
Hướng dẫn chấm:
CÂU

I


YÊU CẦU

Học sinh cần nêu được các ý chính sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí khổ thơ và vấn đề

ĐIỂM

4,0
0,25

cần nghị luận.
* Giải thích ngắn gọn khái niệm cổ điển và hiện đại : Cổ điển là cách

0,5

sử dụng đề tài, thể thơ,thi liệu, tứ thơ của thơ cổ, cịn hiện đại chính
là tinh thần của thơ mới, đó là cái tơi cá nhân.
* Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ:
21


- Màu sắc cổ điển hiện rõ ở các hình ảnh: mây, núi, cánh chim, bóng

0,25

chiều.
+ Hình ảnh: "Lớp lớp mây cao đùn núi bạc" khiến người đọc liên

0,5


tưởng tới hai câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
(Lưng trời sóng gợn lịng sơng thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa)
Lớp lớp mây trắng "đùn" lên, chồng lên nhau thành những núi mây.
Ánh hồng hơn chiếu vào như dát bạc, núi mây trở thành núi bạc.
Cảnh tượng thật hùng vĩ nhưng khơng vì thế mà nỗi sầu vợi đi.
Những núi mây kia vẫn là những núi buồn khổng lồ.
+ Hình ảnh cánh chim lẻ loi, cơ độc bay nghiêng trong ánh hồng hơn

0,5

đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ trong thơ cổ điển: Ngàn mai gió cuốn
chim bay mỏi(Bà Huyện Thanh Quan);Chim hơm thoi thót về
rừng(Nguyễn Du); Lạc hà dữ cô lộ tề phi (Ráng chiều và cánh cò
cùng bay - Vương Bột) báo hiệu một ngày đã kết thúc.
- Hai câu kết đưa người đọc trở về một tứ thơ Đường của Thôi Hiệu:

0,5

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Hoàng hơn về đó q đâu tá?
Khói sóng trên sơng não dạ người)
Gợi cho bài thơ khơng khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
* Vẻ đẹp hiện đại:
- Cái tôi nhỏ nhoi, cô độc trước cuộc đời ảm đạm không có nổi một


0,5

giờ vui giống như cánh chim chiều trong bóng hồng hơn.
- Xưa Thơi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ q hương,

0,75

cịn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó
đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lịng yêu quê hương thắm thiết
đến nhường nào của nhà thơ . Đó cũng là nét tâm trạng hiện đại của
22


các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất
lực, khơng làm gì được.
* Đánh giá khái quát: Khổ thơ nói riêng, bài thơ nói chung còn mãi

0,25

đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ
đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một
tấm lịng u nước, u q hương thầm kín.
II

Cần đảm bảo được các yêu cầu sau:

6
điểm

a/ Yêu cầu về kĩ năng:

Biết cách làm bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống. Sử
dụng linh hoạt phương pháp: Giải thích, phân tích, bình luận. Lập
luận chặt chẽ, thuyết phục, diễn đạt lưu lốt, khơng mắc lỗi chính tả,
dùng từ, ngữ pháp.
b/ u cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm
bảo các ý sau:
- Vấn đề cần nghị luận: Dù sống ở đâu, noi cuộc sống giàu có hay

0,5

nơi thiếu thốn về vật chất nhưng tình người mới là quan trọng để con
người sống có tính cộng đồng, sống cho nhau và vì nhau.
- Nội dung cần nghị luận:
* Giới thiệu và phân tích vấn đề xã hội đặt ra trong truyện: Trong
truyện là hai cảnh tượng trái ngược nhau mà anh kí giả nhận thấy:
- Địa ngục là nơi giàu có về vật chất nên mọi người có những bữa ăn

1.0

ngon, sơn hào hải vị. Nhưng ai cũng gày còm, ốm yếu, da bọc xương
vì sống ích kỉ, thiếu tình u thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau .
Điều đó thể hiện qua những bữa ăn: muỗng, thìa dài khơng thể cho
thức ăn vào miệng, thức ăn rơi vãi . Rồi thậm chí tệ hại hơn, họ cịn
xem nhau như là kẻ thù để tranh giành nhau, đâm chém nhau. Kết cục
là ai cũng đói, buồn bã và thất vọng vì khơng đạt được mục đích.
- Ở thiên đàng thiếu thốn về vật chất với những bữa ăn đơn sơ giản dị

1.0
23



trái với ở địa ngục nhưng cư dân ai cũng vui tươi, khỏe mạnh , hạnh
phúc. Vì họ đã biết sống cho nhau, vì nhau bằng tình u thương, săn
sóc nên trong bữa ăn cũng những đôi tay ấy, cũng muỗng, dĩa, thìa ấy
nhưng họ lại đưa thức ăn vào miệng nhau.
=> Ý nghĩa của câu chuyện: Phải biết đặt tình người và tính cộng

1.0

đồng lên trên vật chất, cá nhân để cuộc đời này con người được sống
vui vẻ , hịa thuận,hạnh phúc, đầm ấm bên nhau.
* Phân tích, bình luận:
- Trong cuộc sống dù ở nơi nào, cương vị nào, dù giàu hay nghèo

1.0

con người ta cũng nên sống có tính cộng đồng. Đó chính là tình
người cao đẹp khi chúng ta biết quan tâm chia sẻ lẫn nhau, biết u
thương nhau, đùm bọc nhau. Có được tình cảm đó con người ta sẽ có
cách làm cho cuộc sống của nhau tốt đẹp hơn nhất là trong lúc hoạn
nạn khó khăn. Như trong câu chuyện cư dân khơng thể đưa thức ăn
vào miệng mình nhưng biết lấy muỗng, dĩa, thìa để đưa thức ăn vào
miệng nhau. Đó là hành động, nghĩa cử cao đẹp.
- Nếu con người sống thiếu tính cộng đồng có nghĩa tham lam, ích kỉ

1.0

chỉ biết lo cho bản thân sẽ có một cuộc sống buồn tẻ, thất vọng. Bởi
vì họ ln sống trong sự sợ sệt, lo lắng người khác sẽ ăn hết phần của

mình, làm hết phần của mình, giàu có hết phần của mình vì thế họ đã
có những hành động thơ lỗ thậm chí là bạo lực để giành giật, thậm chí
là xem nhau như kẻ thù. Những người có lối sống như vậy sẽ phải
nhận về hậu quả thật tệ hại.
-Bài học cuộc sống: Phải biết sống đẹp, sống có tinh thần cộng đồng, 0,5
sống cho nhau và vì nhau đó mới là giá trị đích thực của cuộc sống.
Làm được điều đó cá nhân mỗ người sẽ thấy cuộc sống này có ý
nghĩa hơn. Hơn thế nữa chúng ta sẽ góp phần làm cho cuộc đời này
III

người gần người và yêu thương người hơn.
Cần đảm bảo được các yêu cầu sau:
a, Yêu cầu về hình thức:

10

- Biết cách viết một bài văn nghị luận văn học
24


- Bài viết đảm bảo một văn bản hoàn chỉnh, trình bày rõ ràng, mạch
lạc. Văn viết khơng sai phạm về dùng từ, ngữ pháp.
b, Yêu cầu về nội dung:
* Giới thiệu vấn đề:
- Người phụ nữ xuất hiện trong văn học xưa nay dù được hưởng niềm 0,25
vui và hạnh phúc trọn vẹn hay đau khổ tủi nhục vẫn luôn làm rung
động trái tim người đọc. Người đọc cùng đau buồn cảm thông, chia
sẻ với nỗi đau khổ bất hạnh của họ, nhưng người đọc vui cùng niềm
vui và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của họ.
- Ba nhân vật nữ : Mị trong Vợ chồng A Phủ( Tơ Hồi), Người vợ


0,25

nhặt trong Vợ nhặt( Kim Lân), Người đàn bà hàng chài trong Chiếc
thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu), họ đều có số phận bi thảm
nhưng đằng sau nỗi khổ đó vẫn tiềm ẩn sâu trong họ vẻ đẹp tâm hồn,
dù mỗi người một vẻ khác nhau nhưng tựu trung lại là vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt nam.
* Hoàn cảnh của từng nhân vật: Ba tác phẩm ra đời trong ba thời

0,25

điểm khác nhau, phản ánh số phận con người trong mỗi hoàn cảnh
khác nhau.
- Vợ chồng A Phủ( Tơ Hồi) là số phận của người dân lao động miền

0,25

núi phía Bắc trong xã hội thực dân phong kiến, trong đó nhân vật
chính là Mị- một cô gái Mèo đã chịu nhiều bất hạnh đau khổ khi làm
kiếp con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra nhưng cuối cùng bằng
sức sống tiềm tàng và khát vọng sống, tự do Mị đã vùng lên tự giải
phóng mình.
- Vợ nhặt( Kim Lân) phản ánh số phận người Việt Nam trong nạn đói

0,25

năm 1945 . Khi đối diện với cái đói, cái chết người ta vẫn khao khát
được yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Nhất là với nhân vật người vợ
nhặt khi có hạnh phúc, có mái ấm gia đình, người đàn bà trở nên thật

hiền hậu đúng mực.
- Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu)được viết vào đầu

0,25

những năm 1980, lại phản ánh số phận của người lao động nữ vùng
25


×