ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
ĐINH ĐẠO
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ
CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG
TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN BẮC TRÀ MY TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HUẾ - 2014
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
ĐINH ĐẠO
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ
CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG
TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN BẮC TRÀ MY TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 62 72 03 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. ĐỖ THỊ HÒA
2. PGS.TS. VÕ VĂN THẮNG
HUẾ - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
chân tình, hiệu quả của nhiều cá nhân, tập thể, của quý cô giáo, thầy giáo,
các đồng nghiệp cùng bạn bè và gia đình.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Bộ Giáo dục và Đào
tạo, lãnh đạo Đại học Huế, Trường Đại học Y Dược Huế, Bệnh viện đa
khoa Trung ương Quảng Nam đã tạo điều kiện thu
ận lợi cho tôi học tập,
nghiên cứu.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến khoa Y tế công cộng, Trường Đại
học Y Dược Huế cùng quý cô giáo, thầy giáo đã nhiệt tình giảng dạy và tạo
môi trường học tập, nghiên cứu hiệu quả.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đỗ Thị Hòa, nguyên Phó trưởng
bộ môn Dinh dưỡng và An toàn thực phẩm, Trường Đại học Y Hà Nội;
PGS.TS. Võ Văn Thắng, Trưởng khoa Y tế công cộng, Tr
ường Đại học Y
Dược Huế là những cô giáo, thầy giáo đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi
tận tình, chu đáo trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Đinh Thanh Huề, người thầy đầu
tiên dìu dắt, định hướng cho tôi những vấn đề trọng tâm khi nghiên cứu đề
tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Đào tạo Sau đại học, Đại học Huế
;
Phòng Đào tạo Sau đại học, Đại học Y Dược Huế; các khoa, phòng Bệnh
viện đa khoa Trung ương Quảng Nam; lãnh đạo huyện Bắc Trà My; Trung
tâm Y tế huyện Bắc Trà My; Phòng Thống kê huyện Bắc Trà My; lãnh đạo
xã và Trạm Y tế các xã Trà Giáp, Trà Giác, Trà Đốc, Trà Tân, Trà Sơn, Trà
Kót cùng các ban ngành, đoàn thể các xã trên đã quan tâm, tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp tôi học tập cũng như triển khai đề tài nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn sâu sắc đến các đồng nghiệp của Bệnh viện đa khoa
Trung ương Quảng Nam; Trung tâm Y tế huyện Bắc Trà My; đội ngũ cán
bộ y tế các xã Trà Giáp, Trà Giác, Trà Đốc, Trà Tân, Trà Sơn và Trà Kót,
cùng mạng lưới cộng tác viên dinh dưỡng; các trưởng thôn, già làng cũng
như các bà mẹ có con dưới 5 tuổi của 6 xã trên đã trực tiếp giúp đỡ tôi
trong quá trình tổ chức thu thập thông tin và triển khai các hoạt động can
thiệp tại cộng đồng.
Tôi luôn ghi nhớ công ơn của người thân, bạn bè, đặc biệt là vợ con
tôi đã chia sẻ, động viên để tôi yên tâm học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận án.
Một lần nữa, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã quan tâm giúp đỡ
và tạo điều kiện tốt để tôi hoàn thành bản luận án tiến sĩ này.
Ngày 22 tháng 5 năm 2014
Tác giả
Đinh Đạo
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện,
được tiến hành công phu, nghiêm túc.
Các số liệu, kết quả trong luận án này là trung thực và chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Người viết luận án
Đinh Đạo
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1 TỔNG QUAN 3
1.1. THỰC TRẠNG SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI 3
1.1.1. Tình hình thiếu dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi 3
1.1.2. Nguyên nhân và hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em 8
1.2. CÁC TIẾP CẬN CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG 15
1.2.1. Tiếp cận can thiệp cải thiện bữa ăn 15
1.2.2. Tiếp cận can thiệp bổ sung vi chất dinh dưỡng 18
1.2.3. Tiếp cận can thiệp cải thiện dịch vụ y tế 20
1.2.4. Xã hội hóa chăm sóc dinh dưỡng 22
1.2.5. Chăm sóc dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số Việt Nam 23
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 28
2.1.1. Đối tượng 28
2.1.2. Địa điểm 28
2.1.3. Thời gian 28
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 28
2.2.2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu 30
2.2.3. Phương pháp đo lường các chỉ số 33
2.2.4. Các bước tiến hành nghiên cứu 41
2.2.5. Xử lý và phân tích số liệu nghiên cứu 49
2.2.6. Kỹ thuật hạn chế sai số 49
2.2.7. Hạn chế của nghiên cứu 50
2.2.8. Đạo đức nghiên cứu 51
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 52
3.1. TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN BẮC TRÀ
MY 52
3.1.1. Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc thiểu số 52
3.1.2. Các yếu tố liên quan suy dinh dưỡng trẻ em 54
3.2. KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG TRẺ
EM DƯỚI 5 TUỔI DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN BẮC TRÀ MY 60
3.2.1. Hoạt động can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em 60
3.2.2 Kết quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em 64
Chương 4 BÀN LUẬN 80
4.1. TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN BẮC TRÀ
MY 80
4.1.1. Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc thiểu số 80
4.1.2. Các yếu tố liên quan suy dinh dưỡng trẻ em 83
4.2. KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG TRẺ
EM DƯỚI 5 TUỔI DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN BẮC TRÀ MY 94
4.2.1. Hoạt động can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em 94
4.2.2. Kết quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em 100
KẾT LUẬN 111
KIẾN NGHỊ 113
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CI Khoảng tin cậy (Confident Interval)
CSHQ Chỉ số hiệu quả
CTVDD Cộng tác viên dinh dưỡng
DTTS Dân tộc thiểu số
FAO Tổ chức Thực phẩm và Nông nghiệp thế giới
(Food and Agriculture Organization)
GDTTTC Giáo dục truyền thông tích cực
HQCT Hiệu quả can thiệp
NCT Nhóm can thiệp
NCUT Người có uy tín
NĐC Nhóm đối chứng
OR Tỷ suất chênh (Odds Ratio)
SCT Sau can thiệp
SD Độ lệch chuẩn (Standard Deviation)
SDD Suy dinh dưỡng
SDDTE Suy dinh dưỡng trẻ em
TB Trung bình
TCT Trước can thiệp
TPSC Thực phẩm sẵn có
UNICEF Quỹ Nhi đồng liên hiệp quốc
(United Nations Child’ Fund)
VDD Viện Dinh dưỡng
WHO Tổ chức Y tế thế giới
(World Health Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân loại suy dinh dưỡng theo mức độ của WHO-1997 39
Bảng 3.1. Tỷ lệ hiện mắc suy dinh dưỡng theo thể 52
Bảng 3.2. Tỷ lệ trẻ nhẹ cân theo mức độ 52
Bảng 3.3. Tỷ lệ trẻ thấp còi theo mức độ 52
Bảng 3.4. Tỷ lệ trẻ thấp còi theo nhóm tuổi 53
Bảng 3.5. Liên quan giữa các đặc điểm chung với trẻ nhẹ cân 54
Bảng 3.6. Liên quan giữa bệnh tật trẻ với thể nhẹ cân 55
Bảng 3.7. Liên quan giữa kiến thức nuôi con của bà mẹ với trẻ nhẹ cân 56
Bảng 3.8. Liên quan giữa thực hành bà mẹ nuôi con với trẻ nhẹ cân 57
Bảng 3.9. Liên quan giữa niềm tin người có uy tín của bà mẹ với SDDTE 58
Bảng 3.10. Các yếu tố liên quan suy dinh dưỡng trẻ em qua phân tích hồi
quy logistic đa biến 59
Bảng 3.11. Thống nhất kế hoạch can thiệp phòng chống SDDTE 60
Bảng 3.12. Các hoạt động can thiệp phòng chống SDDTE đã triển khai 62
Bảng 3.13. Kinh nghiệm sử dụng thực phẩm sẵn có giàu đạm ở địa phương63
Bảng 3.14. Đặc điểm các yếu tố giữa 2 nhóm trước can thiệp 64
Bảng 3.15. NCT cải thiện hiểu biết về chất béo của bà mẹ 65
Bảng 3.16. NĐC cải thiện hiểu biết về chất béo của bà mẹ 65
Bảng 3.17. Cải thiện hiểu biết về chất béo của bà mẹ sau can thiệp 65
Bảng 3.18. Cải thiện hiểu biết của bà mẹ về nhóm rau quả 66
Bảng 3.19. NCT cải thiện hiểu biết nuôi con của bà mẹ 67
Bảng 3.20. NĐC cải thiện hiểu biết nuôi con của bà mẹ 67
Bảng 3.21. Cải thiện hiểu biết nuôi con của bà mẹ sau can thiệp 67
Bảng 3.22. NCT cải thiện thực hành nuôi con của bà mẹ 68
Bảng 3.23. NĐC cải thiện thực hành nuôi con của bà mẹ 68
Bảng 3.24. Cải thiện thực hành nuôi con của bà mẹ sau can thiệp 68
Bảng 3.25. Thực hành nuôi con ăn bổ sung sai của bà mẹ ở 2 nhóm 69
Bảng 3.26. NCT cải thiện niềm tin của bà mẹ với trưởng thôn, già làng 71
Bảng 3.27. NĐC cải thiện niềm tin của bà mẹ với trưởng thôn, già làng 71
Bảng 3.28. Cải thiện niềm tin của bà mẹ với trưởng thôn, già làng SCT 72
Bảng 3.29. Niềm tin bà mẹ với lãnh đạo xã ở 2 nhóm 72
Bảng 3.30. NCT cải thiện niềm tin của bà mẹ với người có uy tín địa phương 73
Bảng 3.31. NĐC cải thiện niềm tin của bà mẹ với người có uy tín địa
phương 73
Bảng 3.32. Cải thiện niềm tin của bà mẹ với người có uy tín địa phương 73
Bảng 3.33. NCT cải thiện nhiễm khuẩn hô hấp cấp so với trước can thiệp 74
Bảng 3.34. NĐC cải thiện nhiễm khuẩn hô hấp cấp so với ban đầu 74
Bảng 3.35. Cải thiện nhiễm khuẩn hô hấp cấp trẻ em sau can thiệp 74
Bảng 3.36. Nhóm can thiệp cải thiện trẻ nhẹ cân so với trước can thiệp 75
Bảng 3.37. Nhóm đối chứng cải thiện trẻ nhẹ cân so với ban đầu 76
Bảng 3.38. Cải thiện suy dinh dưỡng thể nhẹ cân trẻ em sau can thiệp 76
Bảng 3.39. Sự lên kênh suy dinh dưỡng thể nhẹ cân sau can thiệp 76
Bảng 3.40. Nhóm can thiệp cải thiện trẻ thấp còi so với trước can thiệp 77
Bảng 3.41. Nhóm đối chứng cải thiện trẻ thấp còi so với ban đầu 77
Bảng 3.42. Cải thiện suy dinh dưỡng thể thấp còi trẻ em sau can thiệp 77
Bảng 3.43. Sự lên kênh suy dinh dưỡng thể thấp còi sau can thiệp 78
Bảng 3.44. Suy dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ ở 2 nhóm 78
Bảng 3.45. Cải thiện cân nặng trung bình của trẻ ở 2 nhóm 79
Bảng 3.46. Cải thiện chiều cao trung bình của trẻ của 2 nhóm 79
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân bố tình trạng dinh dưỡng thể thấp còi theo giới 53
Biểu đồ 3.2. Liên quan giữa nhiễm khuẩn hô hấp cấp với trẻ nhẹ cân 55
Biểu đồ 3.3. Liên quan giữa niềm tin bà mẹ về NCUT với trẻ nhẹ cân 58
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ trẻ ăn bổ sung thiếu thực phẩm sẵn có giàu đạm hàng
ngày ở 2 nhóm 69
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ trẻ ăn bổ sung thiếu thực phẩm sẵn có giàu chất béo
hàng ngày 70
Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ bà mẹ có niềm tin hội phụ nữ ở 2 nhóm 72
Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ thiếu máu lâm sàng trẻ em ở 2 nhóm 75
Biểu đồ 3.10. Tỷ lệ trẻ thấp còi theo nhóm tuổi trước và sau can thiệp 78
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Khung lý thuyết nghiên cứu dựa vào mô hình chẩn đoán hành vi16
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ thiết kế các bước tiến hành nghiên cứu 29
Sơ đồ 3.1. Tổ chức mạng lưới hoạt động can thiệp 61
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng trẻ em là tình trạng bệnh lý mang tính cộng đồng ở
nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Phân bố suy dinh dưỡng
trẻ em khác biệt rõ nét giữa các châu lục, các vùng miền trên thế giới. Theo
số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tập
trung chủ yếu ở châu Á và châu Phi. Các vùng Nam Trung Á, Đông Nam Á,
Đông Phi, Tây Phi và Trung Phi có trẻ em suy dinh dưỡng luôn cao, nhất là
Ấn Độ, Bangladesk, Đông Timor, Lào, Niger, Somalia, Burnika [140].
Ở
nước ta trong những năm qua nhờ triển khai Chương trình quốc
gia phòng chống suy dinh dưỡng đạt hiệu quả, tình trạng suy dinh dưỡng
chung ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể, từ 43,9% năm 1995 [2] còn
16,8% năm 2012 [69]. Tuy nhiên, mức độ giảm xuống không đồng đều
giữa các vùng, khu vực, suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn cao và
rất cao ở vùng miền núi cao, đồng bào dân tộc thiểu số [29], [59]. Các khu
vực Tây Nguyên, Tây Bắc,
Đông Bắc, Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ là
những nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cao hơn so với các
vùng khác trên cả nước [22], [31], [69].
Suy dinh dưỡng không chỉ làm chậm phát triển thể chất, trí tuệ, là
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong trẻ em dưới 5 tuổi [70], mà còn gây
nên hậu quả lâu dài lên tầm vóc người trưởng thành, giảm khả năng lao
động và ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân [4].
Có nhiều yếu tố
liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ,
không như nhau ở mỗi địa phương, cần tìm hiểu trong từng cộng đồng cụ
thể. Quảng Nam là một tỉnh ven biển miền Trung, với 8 huyện miền núi
cao, trong đó Bắc Trà My là huyện mà tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi cao nhất tỉnh (32,2%) và điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn
so với các huyện, thị thành khác của tỉ
nh [66].
2
Bắc Trà My có 12 xã, 1 thị trấn, trong đó có 9 xã thuộc Chương trình
135 của Chính phủ với 90 % đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống [47]. Kết
quả khảo sát năm 2009 tại các xã Chương trình 135 huyện Bắc Trà My thấy
tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số dưới 5 tuổi thể nhẹ cân 36,7%,
thể thấp còi 63,3%, thiếu máu lâm sàng 57,1%, nhiễm khuẩn hô hấp 47,8%
[9]. Địa phương chưa quan tâm bổ sung cho trẻ ở vùng đặ
c biệt khó khăn
các vi chất dinh dưỡng như sắt, axit folic [2], kẽm [81], [105] và chưa xổ
giun định kỳ cho trẻ theo khuyến cáo của Bộ Y tế [2]. Đặc biệt có rất nhiều
trẻ em hàng ngày ăn thiếu thực phẩm sẵn có giàu dinh dưỡng, như thiếu
chất đạm 74,4%, thiếu chất béo 76,8% [9]. Mặt khác, các bà mẹ gặp nhiều
rào cản trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ như: 21,3% mù chữ, 29,5%
tiểu học, 62,8% hộ nghèo và nhi
ều tập tục lạc hậu như không dám cho con
ăn “chất tanh”, kiêng khem khi con bị ốm. Nhưng kết quả khảo sát cho thấy
các bà mẹ rất tin tưởng vào những người có uy tín tại địa phương [9].
Từ thực trạng trên, nhằm tìm ra mô hình phù hợp huy động nguồn
lực cộng đồng phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số dưới 5
tuổi dựa vào vai trò người có uy tín và bối cảnh đặc thù của nhóm đích, cả
i
thiện hành vi nuôi con của bà mẹ, qua đó cải thiện tình trạng suy dinh
dưỡng và bệnh tật trẻ em, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu thực
trạng và kết quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi người dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam”, với
các mục tiêu sau:
1. Mô tả tình trạng suy dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở trẻ dưới
5 tuổi người dân tộ
c thiểu số huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam.
2. Đánh giá kết quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em
dưới 5 tuổi người dân tộc thiểu số tại địa bàn nghiên cứu.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. THỰC TRẠNG SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI
1.1.1. Tình hình thiếu dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
1.1.1.1. Tình hình thiếu dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới
Theo kết quả điều tra suy dinh dưỡng trẻ em (SDDTE) dưới 5 tuổi tại
79 nước đang phát triển giai đoạn từ 1980-1992 của Onis M. và cộng sự thấy
có 192,5 triệu trẻ nhẹ cân (35,8%); 229,9 triệu thấp còi (42,7%) và 49,5 triệu
gầy còm (9,2%). Các nước có tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng (SDD) cao và rất
cao như Bangladesh có 65,8% nhẹ cân, 64,6% thấp còi và 15,5% gầy còm;
Ấn Độ có 63,9% nhẹ cân, 62,1% thấp còi và 19,2% gầy còm; Guatemala với
33,5% nhẹ cân và 57,9% thấp còi [111]. Tại hội nghị thượng đỉnh về dinh
dưỡng tổ chức tại Roma tháng 12/1992, các chuyên gia đã đưa ra chương
trình hành động, có sự cam kết của các quốc gia nhằm làm giảm SDDTE
xuống còn một nửa vào năm 2000 so với năm 1990 [88].
Theo số liệu của Tổ chứ
c Y tế thế giới (WHO) cho thấy các nước
thuộc châu Á, châu Phi từ trước cho đến nay vẫn có tỷ lệ SDDTE cao so
với các châu lục khác [133], [141]. Báo cáo của WHO năm 1995 trên toàn
cầu có 169,5 triệu trẻ nhẹ cân (27,8%); 213,1 triệu thấp còi (34,9%) và 50,2
triệu gầy còm (8,4%). Trong đó, các nước đang phát triển chiếm đại đa số
với 98,2% (166,5 triệu) nhẹ cân; 86,0% (204,6 triệu) thấp còi và 81,0%
(6,8 triệu) gầy còm. Ở châu Á (35,0% nhẹ cân, 41,0% thấp còi và 10,3%
gầy còm), các vùng có tỷ lệ SDDTE rất cao là Nam Trung Á (49,3% nhẹ
cân, 49,6% thấp còi và 15,2% gầy còm) và Đông Nam Á (33,5% nhẹ cân,
39,7% thấp còi và 9,4% gầy còm). Tiếp đến, ở châu Phi (28,4% nhẹ cân,
38,6% thấp còi và 7,1% gầy còm), các vùng chiếm tỷ lệ cao là Đông Phi
4
(49,3% nhẹ cân, 49,6% thấp còi và 15,2% gầy còm) và Tây Phi (49,3% nhẹ
cân, 49,6% thấp còi và 15,2% gầy còm) [135].
Trong vòng 15 năm trở lại đây, SDDTE có xu hướng giảm trên phạm
vi toàn cầu. Thống kê của Qũy Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF), WHO
và Ngân hàng thế giới năm 2011 về SDDTE dưới 5 tuổi thấy châu Á vẫn là
châu lục đứng đầu về tỷ lệ 19,3% nhẹ cân (69,1 triệu) và tỷ lệ 10,1% gầy
còm (36,1 triệu). Riêng trẻ thấp còi, châu Phi trở thành châu lục chiếm tỷ l
ệ
cao nhất với 35,6% (56,3 triệu); tiếp theo là châu Á: 26,8% (98,4 triệu).
Hai châu lục này chiếm trên 90% trẻ thấp còi trên toàn cầu [130].
Hiện nay, theo kết quả nghiên cứu trẻ em dưới 5 tuổi của tổ chức Cứu
trợ trẻ em Mỹ năm 2012, trên thế giới còn hơn 100 triệu (15,7%) nhẹ cân,
171,0 triệu (27,0%) thấp còi và hơn 60 triệu (10,0%) gầy còm [120]. Các
khu vực Nam Á, cận hoang mạc Sahara có tỷ lệ SDDTE cao nhất [120].
Những quốc gia còn tỷ lệ SDDTE cao và rất cao c
ả 3 thể nhẹ cân, thấp còi,
gầy còm tương ứng như Timor Leste năm 2010 (44,7%, 58,1%, 18,6%);
Niger năm 2011 (38,5%, 51,0%, 12,3%); Pakistan năm 2011 (31,5%, 43,7%,
15,1%); Bangladesh năm 2011 (36,4%, 41,3%, 15,6%) [128].
Các số liệu SDDTE trên toàn cầu chủ yếu phân theo các châu lục,
vùng lãnh thổ và theo từng quốc gia; chưa chú trọng đúng mức việc xác
định SDDTE theo từng từng chủng tộc, tộc người trong các báo cáo thường
niên của WHO và UNICEF [126], [140]. Nghiên cứu của Larrea C. và
Freire W. tại các nước Nam Mỹ cho thấy tỷ lệ trẻ em thấ
p còi năm 1999 ở
các tộc người bản xứ liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh tế đói nghèo và
cao hơn cách biệt so với trẻ em không thuộc tộc người bản xứ, như ở
Ecuador (58,2% so với 24,2%); ở Peru (47,0%/22,5%) và Bolivia
(50,5%/23,7%) tương ứng [103]. Tổ chức xã hội học Hoa Kỳ đã tiến hành
nghiên cứu về mối liên quan giữa tình trạng sức khỏe với các yếu tố chủng
5
tộc, dân tộc tại chính quốc năm 2005 thấy có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong
trẻ em ở năm đầu đời của người Mỹ gốc Phi cao gấp 2 lần trẻ em da trắng.
Trẻ em Mỹ gốc Nhật có tỷ lệ tử vong thấp hơn 8,2 lần so với tộc người
Hawaiians [77]. Tác giả Alessandra M. và cộng sự khảo sát tại Guatemala
năm 2003 thấy trẻ em tộc ng
ười bản xứ có tỷ lệ thấp còi (57,6%) và nhẹ
cân (27,8%) cao hơn tỷ lệ chung (44,2% và 22,3%) tương ứng; trong đó,
tộc người Mam (65,3% và 39,4%); người Mayan (62,5% và 31,9%) tương
ứng [75]. Nghiên cứu của Spencer N. về các tộc người châu Âu năm 2003
thấy trẻ em các tộc người bản xứ ở Trung và Đông Âu có tỷ lệ SDDTE, tỷ
lệ mắc bệnh và tử vong cao hơn nhiều lần trẻ em không thuộc tộc người
bản xứ [121].
Điều tra của Hatlekk M. năm 2012 thấy tỷ lệ thấp còi trẻ em
khác nhau giữa các tộc người vùng Nam Á: Tộc người Bà la môn
(Brahmin) 45,1%; Hill Dalits 56,1%; Yadav (70,7%); Newar 72,3% và Hồi
giáo (Muslim) 72,8% [92]. Nghiên cứu của UNICEF năm 2011 khu vực
châu Á-Thái Bình Dương cũng thấy sự chênh lệch lớn giữa các tộc người.
Tỷ lệ trẻ 18-23 tháng ở Campuchia bị thấp còi 50,0% và trẻ nhẹ cân 45,0%
chủ yếu ở trẻ em dân tộc thiểu số. Tương tự, tỷ lệ t
ương ứng ở Lào là
40,0% và 37,0%. Ở Phillippines, trẻ nhẹ cân sống vùng thủ đô 15,7%, thấp
hơn nhiều so với 36,1% trẻ sống ở vùng khó khăn Bitol [129].
Bên cạnh tình trạng thiếu dinh dưỡng protein-năng lượng, việc thiếu
hụt vi chất dinh dưỡng ảnh hưởng hơn hai tỷ người, khoảng một phần ba dân
số thế giới hiện nay. Bất cập về thiếu vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là s
ắt, kẽm
đã được báo cáo ở nhiều nước đang phát triển [116], [122]. Thiếu vi chất dinh
dưỡng là một vấn đề toàn cầu lớn hơn nhiều so với nạn đói và gây phí tổn rất
lớn về xã hội, bệnh tật làm giảm năng suất lao động, chất lượng cuộc sống
kém; tạo ra vòng luẩn quẩn của suy dinh dưỡng, kém phát triển và nghèo đói.
WHO khảo sát giai đoạn 1990-1995, tỷ lệ
thiếu máu trẻ em dưới 5 tuổi ở các
6
nước đang phát triển là 39,0% và ở các nước phát triển 20,1% [136]. Số liệu
WHO giai đoạn 1993-2005 có 47,4% (293,1 triệu) trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn
cầu bị thiếu máu. Châu Phi có 67,6% trẻ thiếu máu, cao nhất các châu lục.
Đông Nam Á có 65,5% trẻ thiếu máu. Nhiều nước có tỷ lệ trẻ thiếu máu rất
cao như Burnica Faso 91,5% (2003); Sudan 84,6% (1995); Cộng hòa Trung
Phi 84,2% (1999); Ấn Độ 74,3% (2000), Tanzania 71,8% (2005) [139]. Theo
ước tính của các chuyên gia, khoảng 1/3 dân số thế giới thiếu kẽm, đặc biệt là
trẻ em ở các nước đang phát triển, là nguyên nhân dẫn đến 450.000 trẻ em tử
vong hàng năm [129]. Thực trạng thiếu kẽm cao nhất ở khu vực phía nam
Châu Á, châu Phi cận Sahara, Trung Mỹ và Nam Mỹ [81].
1.1.1.2. Tình hình thiếu dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam
Nước ta là một trong những nước có tỷ lệ SDDTE dưới 5 tuổi thể nhẹ
cân giảm liên tục từ mức rất cao 51,5% năm 1985 xuống 44,9% năm 1995,
mỗi năm giảm trung bình 0,66% [2]. Từ năm 1995 bắt đầu thực hiện kế
hoạch quốc gia về dinh dưỡng, SDDTE thể nhẹ cân giảm trung bình mỗi
năm 1,5%, được các tổ chức quốc tế thừa nhận và đánh giá cao: năm 2000
(33,1%) [4], đến năm 2012 còn 16,2% [69], là mức trung bình theo phân loại
của WHO-1997 [136]. Tỷ lệ trẻ thấp còi cũng đã giảm từ 59,7% năm 1985
[31] xuống 29,3% năm 2010, bình quân giảm 1,3% mỗi năm [4] và đến năm
2012 còn mức trung bình 26,7% [69]. Tỷ lệ trẻ gầy còm hiện nay là 6,7%
[69]. SDD nhẹ cân hiện nay ở nước ta chủ yếu là mức độ vừa (14,5%), còn
thể thấp còi có mức độ vừa (15,5%) và mức độ nặng (11,2%) [69].
SDDTE ở nhiều nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt theo giới
tính [9], [10], [32], nhưng lại liên quan chặt chẽ đến nhóm tuổi của trẻ. Một
vài nghiên cứu cho rằng nhóm tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất là 6-24 tháng
[29], [62]. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu lại cho thấy khuynh hướng SDDTE
tăng dần theo nhóm tuổi [13], [16], [24]. Chênh lệch rõ rệt về SDDTE theo
7
vùng sinh thái: miền núi thường cao hơn đồng bằng [7], [27]; nông thôn
cao hơn thành thị [28], [40]. Những vùng có tỷ lệ trẻ nhẹ cân cao cũng là
những vùng có tỷ lệ trẻ thấp còi và gầy còm cao hơn tương ứng như Tây
Nguyên (25%, 36,8%, 8,1%); vùng miền núi phía Bắc (20,9%, 31,9%, 7,4%)
[69]. Ở các thành phố, SDDTE thấp hơn nhiều so với trung bình chung cả
nước, như tỷ lệ nhẹ cân, thấp còi và gầy còm tương ứng ở thành phố Hồ Chí
Minh (5,3%, 7,6%, 3,5%); Hà Nội (8,1%, 16,9%, 3,3%) [69]. Đến nay, các
tỉnh thuộc vùng khó khăn có tỷ lệ trẻ nhẹ cân, thấp còi và gầy còm cao tương
ứng như Kon Tum (26,3%, 40,6%, 9,2%); Hà Giang (23,1%, 35,0%, 7,9%)
[69]. Vùng miền núi cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, SDDTE luôn cao
hơn hẳn các vùng khác [19], [37]. Lê Danh Tuyên và cộng sự khảo sát năm
2011 tại huyện miền núi Tuyên Hóa, Quảng Bình thấy cả 3 thể đều rất cao:
nhẹ cân 57,7%, thấp còi 43,7% và gầy còm 19,2% [62]. Điều tra của
Nguyễn Hoàng Linh Chi năm 2011 ở trẻ em 12-36 tháng đồng bào dân tộc
Pakoh và Vân Kiều tại Quảng Trị thấy tỷ lệ SDD rất cao ở 3 thể: nhẹ cân
53,9%; thấp còi 67,1% và gầy còm 14,5% [5]. Khu vực duyên hải miền
Trung là một trong những vùng có tỷ lệ trẻ nhẹ cân, thấp còi và gầy còm
tương ứng còn trung bình và cao (19,5%, 31,2%, 7,5%), trong đó có Quảng
Nam (16,0%, 30,1%, 6,8%) [69]. Phân bố SDD ở Quảng Nam cũng không
đồng đều giữa các vùng: trẻ nhẹ cân (2007) ở Hội An 10,1%, Tam Kỳ 12,4
%; Nam Trà My 31,0% và Bắc Trà My cao nhất tỉnh 32,2% [66].
UNICEF khảo sát năm 2011 thấy sự thiếu hụt chăm sóc sức khỏe ở
người Kinh 31,6%; Mường 46,5%; Thái 77,6% [129]. Báo cáo năm 2011của
Tổng cục Thống kê cho thấy tỷ lệ trẻ nhẹ cân, thấp còi, gầy còm của nhóm
đồng bào Kinh và Hoa (10,0%, 19,6%, 3,8%), thấp hơn hẳn so với tỷ lệ
tương ứng của trẻ em dân tộc thiểu số (22,0%, 40,9%, 5,7%) [89].
8
Sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng là một vấn đề có ý nghĩa sức khỏe
cộng đồng ở trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi [45], [109]. Nghiên cứu của
Nguyễn Văn Nhiên và cộng sự năm 2008 ở trẻ em nông thôn Việt Nam
trước tuổi đến trường thấy có 55,6% thiếu máu và 86,9% thiếu kẽm [109].
Khảo sát của Nguyễn Xuân Ninh và cộng sự năm 2008, tỷ lệ thiếu máu ở
trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc là 29,2%; thấp nhất vùng Đông Nam Bộ
(22,8%); cao nhất vùng miền núi Tây Bắc (43,0%); tỉnh Hải Dương có tỷ lệ
thấp nhất (8,7%); các tỉnh có tỷ lệ rất cao là Tây Ninh (52,7%); Lai Châu
(62,0%) và cao nhất là Quảng Nam (67,3%) [45]. Tình trạng thiếu máu
thiếu sắt thường kèm theo thiếu axit folic [4], [68]. Axit folic cần thiết cho
sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật và cần thiết
cho sự hình thành của tế bào máu, đặc biệt trong cấu tạo và phát triển hệ
thống thần kinh của thai nhi. Mỗi năm trên thế giới có tới 400.000 trẻ sinh
ra có dị tật ống thần kinh. Nguyên nhân cụ thể gây ra dị tật này có liên quan
đến cả yếu tố di truyền và môi trường, đồng thời liên quan với vấn đề thiếu
hụt axit folic. Thiếu axit folic là nguyên nhân làm của khoảng 3000-4000
trẻ em Việt Nam sinh ra mắc các dị tật bẩm sinh ống thần kinh rất nghiêm
trọng như nứt đốt sống, não ủng thủy, thai vô sọ [68].
1.1.2. Nguyên nhân và hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em
1.1.2.1. Nguyên nhân suy dinh dưỡng trẻ em
- Thiếu dinh dưỡng
Thiếu dinh dưỡng là nguyên nhân chiếm 60% SDDTE. Thiếu dinh
dưỡng có thể xảy ra do giảm cung cấp chất dinh dưỡng, tăng tiêu thụ dưỡng
chất hoặc cả hai. Giảm cung cấp chủ yếu là do chế độ ăn của trẻ không đủ cả
về số lượ
ng lẫn chất lượng, thiếu năng lượng, protein cùng các VCDD, trong
đó có sắt, axit folic, kẽm; trẻ biếng ăn, ăn không đủ nhu cầu và thức ăn chế
biến không phù hợp, năng lượng thấp. Tăng tiêu thụ khi trẻ ốm, thất thoát
9
chất dinh dưỡng do bệnh lý. Trong đa số trường hợp, SDD xảy ra do sự kết
hợp của cả 2 cơ chế, vừa giảm năng lượng ăn vào, vừa tăng năng lượng tiêu
hao [64], [88], [124]. Trong thời kỳ 6 tháng đầu, trẻ em không được bú sữa
mẹ hay sữa mẹ bị thiếu, cho trẻ ăn bổ sung quá sớm, bộ máy tiêu hóa trẻ
chưa thể hấp thu tốt được. Thời k
ỳ khi được 6 tháng tuổi trở đi, trẻ ăn bổ
sung với chế độ ăn không đảm bảo đủ năng lượng, protein. Ăn quá kiêng
khem trong thời gian trẻ bị bệnh, nhất là khi bị ỉa chảy. Nguyên nhân sâu xa
là do bà mẹ thiếu kiến thức và hạn chế về thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc
trẻ [1], [9], [99]. Nghiên cứu của Lê Thị Hợp, Hà Huy Khôi thấy khi thiếu ăn
tạm thời cơ thể t
ăng trưởng chậm lại nhưng tình trạng đó có thể được phục
hồi khi ăn đầy đủ. Tuy nhiên trong trường hợp dinh dưỡng không hợp lý kéo
dài có thể cản trở quá trình phục hồi đó. Vì thế cần quan tâm đặc biệt đến
dinh dưỡng trẻ em [22]. Theo UNICEF, khác biệt về sự phát triển của trẻ em
đến năm tuổi có nhiều ảnh hưởng bởi dinh dưỡng, cách nuôi dưỡng, môi
trường và chăm sóc sứ
c khỏe hơn so với yếu tố di truyền hoặc dân tộc [126].
- Nhiễm trùng
Từ lâu, người ta đã thừa nhận các bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDDTE, đặc biệt là tiêu chảy, nhiễm giun,
nhiễm khuẩn hô hấp cấp là các bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ. Nhiều tác giả đã
mô tả mối tác động qua lại giữa nhiễm trùng và SDD như một vòng xoắn
b
ịnh lý [85], [86]. Khi các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể, với sức
đề kháng còn yếu, trẻ em dễ bị SDD do nhiễm trùng làm mất các chất dinh
dưỡng và tác động gián tiếp làm trẻ em chán ăn. Mặt khác, trẻ SDD có hệ
thống miễn dịch bị giảm sút, dễ mắc bệnh nhiễm trùng và hậu quả SDD ngày
một nặng thêm [133]. SDD làm tăng khả năng nhiễm khuẩn hô hấp, tiêu
chảy và kéo dài thời gian tiêu chảy ở trẻ em [72], [136]. Nghiên cứ
u của
Caulfield L. E.và cộng sự năm 2004 cho thấy SDDTE liên quan đến 1 triệu
10
ca viêm phổi, 8 trăm nghìn ca tiêu chảy hàng năm ở các nước đang phát triển
[83]. Tình hình nhiễm giun cũng là vấn đề sức khỏe cộng đồng nổi cộm với
khoảng 2 tỷ người bị nhiễm các loại giun truyền qua đất (giun đũa, giun
móc, giun tóc, giun kim), trong đó trẻ em dưới 5 tuổi chiếm từ 10-20% theo
nghiên cứu của Albonico M. và cộng sự năm 2008 [73]. Nhiễm giun truyền
qua đất là nhiễm trùng mạn tính ảnh hưởng đến phát triển thể chất, tinh thần,
thiếu máu thiếu sắt [112] và giảm đáp ứng miễn dịch ở trẻ em bị nhiễm bệnh
[33]
. Ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun chung dao động rất lớn từ 17,0-97,0%,
tùy theo lứa tuổi và vùng sinh thái, trong đó tỷ lệ nhiễm giun ở phụ nữ và trẻ
em vùng cư dân nông nghiệp rất cao [33
]. Nghiên cứu của Phạm Trung
Kiên, Hoàng Tân Dân ở trẻ em 3-60 tháng tuổi tại xã Hoàng Tây, Kim Bảng,
Hà Nam năm 1994 thấy tỷ lệ trẻ nhiễm giun chung 93,4%; nhiễm giun đũa
85,3% và giun tóc 69,5% [33]. Điều tra của Nguyễn Hoàng Linh Chi ở
huyện Dakrong, Quảng Trị năm 2011 thấy tỷ lệ trẻ nhiễm giun chung
31,6%; nhiễm giun đũa 24,6%; giun móc 6,5% và giun tóc 6,2% [5].
- Các nguyên nhân khác
Trẻ bị dị tật bẩm sinh như sứt môi, hở hàm ếch, hẹp phì đạ
i môn vị,
tim bẩm sinh, Langdon down, SDD bào thai, đẻ non [64]. Theo số liệu
thống kê của WHO năm 2009, nhiều nước ở khu vực châu Phi và châu Á
có tỷ lệ sơ sinh thấp cân rất cao như: Mauritania 34,0%, Yemen 32%,
Pakistan 32,0%, India 28,0%, Niger 27,0%, Haiti 25,0%, Comoros 25,0%
[141]. Tại Việt Nam, tỷ lệ sơ sinh thấp cân năm 2006 là 7% [126], cao hơn
khu vực Đông Nam Á (6%), nhưng thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung của
thế giới (15%) [126]. Nghiên cứu của Nguyễn Đỗ Huy và cộng sự [26],
Trương Đứ
c Tú [59] đều thấy ở nhóm trẻ có tình trạng dinh dưỡng tốt có
cân nặng sơ sinh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm trẻ SDD.
11
- Các yếu tố liên quan suy dinh dưỡng trẻ em
Nhờ các nghiên cứu dịch tễ học dinh dưỡng, người ta đã tìm ra hàng
loạt yếu tố liên quan đến tình trạng SDDTE ở các nước đang phát triển,
trong đó có nước ta. Đó là các yếu tố về sinh học, di truyền (chủng tộc, dân
tộc, tình trạng sức khỏe bệnh tật mẹ khi mang thai) [124]; yếu tố về hành
vi, lối sống mà ở đây chủ yế
u liên quan trực tiếp đến hành vi nuôi con của
các bà mẹ như cho trẻ bú mẹ; ăn bổ sung; chăm sóc trẻ chưa đúng cách do
rào cản của các tập quán lạc hậu, đặc biệt khi trẻ bị ốm, bà mẹ thường
kiêng khem như kiêng nước, kiêng ăn lúc trẻ bị sởi [8]; cúng bái khi trẻ ốm
[9]. Các yếu tố liên quan khác như: điều kiện kinh tế xã hội thấp, đầu tư
cho y tế còn hạn chế
[4]; dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh [88]; sự quan tâm
của lãnh đạo địa phương và năng lực hoạt động của các cấp, các ngành hạn
chế [4]; chất lượng dịch vụ y tế kém hiệu quả [18], [29].
+ Nuôi con bằng sữa mẹ
UNICEF coi nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp hàng đầu bảo vệ sức
khoẻ trẻ em, do sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ [127]. Theo khuyến cáo
của chuyên gia dinh dưỡng, đứa tr
ẻ cần được bú mẹ trong vòng giờ đầu sau
sinh và giúp làm giảm nguy cơ SDD [64], [134]. Thống kê năm 2009 của
WHO thấy có sự khác nhau rõ rệt giữa các nước về tỷ lệ trẻ bú mẹ trong
vòng giờ đầu sau sinh: Cuba 70,0%, Mozambique 63,1%, Việt Nam 57,8%,
Bangladesh 35,6%, Lào 29,8%, Yemen 29,6%, Cameroon 19,6% [141].
Trong 6 tháng đầu, trẻ cần được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ mà
không cần thêm thức ăn nào khác [4]. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong
6 tháng đầu theo WHO công bố năm 2009, có sự khác biệt rất lớn ở nhiề
u
nước trên thế giới như Rwanda 88%, Srilanka 76%, Peru 73,0%, Triều Tiên
65%, Bolivia 60,0%; nhưng Belarus chỉ 9,0%, Nam Phi 7,0%, Thái Lan
5,0%, Djibouti 1,0%, Bỉ 1,0% [141] và ở Việt Nam, tỷ lệ này là 19,6% [4].
12
Với trẻ dưới 12 tháng tuổi, sữa mẹ là thức ăn quí giá nhất mà không
một thức ăn nhân tạo nào có thể so sánh được [2]. Nhiều nghiên cứu chỉ rõ tỉ
lệ SDD và mắc các bệnh nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy cao hơn một cách có
ý nghĩa ở nhóm trẻ mẹ bị thiếu sữa mẹ [38], [98], [121]. Nhiều nghiên cứu
có nhận định là ở vùng nông thôn tình hình nuôi con bằng sữa mẹ luôn có xu
hướng tích cực hơn so vớ
i ở thành thị [29], [118], [133], nhất là vùng nông
thôn ở các nước đang phát triển [133]. Trẻ cần được bú mẹ thường xuyên,
nên bú kéo dài từ 18 đến 24 tháng tuổi và không nên quá 24 tháng [64]. Tỷ
lệ bà mẹ cho trẻ bú mẹ đến 2 tuổi theo UNICEF khảo sát năm 2009 có sự
khác biệt giữa các nước rất rõ: Nepal 95,0%, Benin 92,0%, Bangladesh
91,0%, Ethiopia 88,0%, Myanmar 67,0%, nhưng Jordan chỉ 11,0%, Bosnia
6,0% [126]. Việt Nam có đến 93% bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ [4]. Tỷ lệ bà
mẹ Việt Nam cho con bú từ 18-24 tháng rất cao trong những năm g
ần đây
[1], [8], [36] cho thấy công tác truyền thông giáo dục sức khỏe cùng với thực
tiễn về lợi ích của sữa mẹ đã thay đổi căn bản thực hành nuôi con bằng sữa
mẹ ở nhiều vùng miền trên cả nước.
+ Nuôi con ăn bổ sung
Thời gian bắt đầu ăn bổ sung theo khuyến cáo chung là khi trẻ tròn 6
tháng tuổi [4]. Trong một bữa ăn bổ sung hợp lý cho trẻ, cần có sự phối hợ
p
đầy đủ giữa 4 nhóm thực phẩm theo một tỷ lệ cân đối: Protein/Lipit/Gluxit
=1/1/4-5 cùng rau, củ, quả và tập cho trẻ thích nghi dần với từng loại thức ăn
mới theo nguyên tắc từ ít đến nhiều; từ lỏng đến đặc [64]. Chất lượng bữa ăn có
vai trò rất quan trọng đối với phát triển thể chất trẻ em [19], [36].
Nghiên cứu của WHO cho thấy những đứa trẻ bắt đầu
ăn bổ sung
thêm sữa hộp ngay trong tuần đầu, có nguy cơ bị tiêu chảy cao gấp 3 lần và
nguy cơ nhập viện cao gấp 5 lần so với trẻ chỉ bú sữa mẹ; đối với trẻ cai
sữa trong tuần đầu sau đẻ có nguy cơ bị tiêu chảy cao gấp 5 lần và nguy cơ
13
phải vào viện do tiêu chảy cao gấp 12 lần so với trẻ bình thường [133].
Nguyễn Thị Hải Anh, Lê Thị Hợp và cộng sự thấy trẻ ăn bổ sung không
hợp lý có nguy cơ SDD tăng 2,7-4 lần [1]. Lê Phán nghiên cứu thấy có đến
68,8% trẻ ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi bị SDD và 59,8% trẻ SDD do ăn
không đủ 4 nhóm thực phẩm hàng ngày [46]. Nhiều nghiên cứu khác đều
khẳng định hậu quả của ăn bổ
sung sớm đến tình trạng SDD, bệnh tật trẻ
em [24], [57], [62]. Bà mẹ cho con ăn bổ sung sớm là hiện trạng chung của
nước ta [9], [13], [37].
+ Cách chăm sóc trẻ
Nếu như việc cung cấp chất dinh dưỡng đóng vai trò quyết định trong
việc phát triển thể chất trẻ em, thì cách chăm sóc trẻ quyết định sự phát triển
tinh thần và góp phần rất quan trọng vào việc đảm bảo phát triển thể chất trẻ
em toàn diện. Trẻ em cần được chăm sóc chu đáo về vệ sinh; tiêm chủng mở
rộng; theo dõi tăng trưởng; tình thương yêu; học hành và được chăm sóc dinh
dưỡng đúng khi ốm như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp [19], [23].
1.1.2.2. Hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em
Suy dinh dưỡng trẻ em mà chủ yếu suy dinh dưỡng protein năng
lượng đang còn là vấn đề thời sự ở các nước nghèo và đang phát triển [31],
[74]. SDDTE dưới 5 tuổi chi
ếm 54% trong số 11,6 triệu trẻ tử vong trên
toàn cầu hàng năm giai đoạn 1980-1995 [136] và là nguyên nhân sâu xa
của hơn 2,6 triệu trẻ em tử vong mỗi năm hiện nay [120]. Thể nhẹ cân, thấp
còi và gầy còm liên quan đến tử vong trẻ em dưới 5 tuổi lần lượt là 19%,
14,5% và 4,4% [120]. Thiếu vi chất dinh dưỡng liên quan với 10% tất cả
trường hợp tử vong trẻ em, hay khoảng một phần ba số trẻ em tử vong do
SDD [120]. Suy dinh duỡng làm cho trẻ em dễ b
ị cảm nhiễm với các bệnh
nhiễm trùng, nhất là các bệnh đường hô hấp, đường ruột và khi mắc thì
14
diễn biến xấu hơn, gia tăng tỉ lệ tử vong. SDD là điều kiện thuận lợi để các
bệnh lý này xảy ra và kéo dài, làm cho trẻ em ăn uống kém, nhu cầu năng
lượng gia tăng nên SDD ngày càng trở nên nặng nề hơn. SDD làm trẻ em
kém phát triển về thể chất. Mức độ chậm phát triển tăng song song với thời
gian kéo dài của bệnh và nhóm tuổi của trẻ. Các bằng chứng khoa học
đã
cho thấy, giai đoạn đầu tiên của cuộc đời từ trong bụng mẹ đến 2 tuổi, nếu
trẻ em bị SDD có thể để lại những hậu quả về thể chất và tinh thần không
phục hồi được và kéo sang thế hệ sau. Nếu tình trạng SDD kéo dài đến thời
gian dậy thì, chiều cao của trẻ em sẽ càng bị ảnh hưởng trầm trọng hơn
[23]. SDD làm trẻ em chậm phát tri
ển tâm thần, nhất là ảnh hưởng đến sự
phát triển bình thường của não bộ trong giai đoạn trẻ em dưới 6 tuổi. Trí
thông minh dễ dàng bị ảnh hưởng nếu trẻ bị SDD bào thai và dưới 12 tháng
tuổi [31]. Tác hại của SDD càng nặng, nếu bệnh xuất hiện lúc cơ quan chưa
trưởng thành. Ngoài ra, SDD tác động tiêu cực về mặt xã hội: Tầm vóc của
dân tộc sẽ chậm tăng trưởng nếu tình tr
ạng SDD không được cải thiện qua
nhiều thế hệ. Khả năng lao động về thể lực cũng như về trí lực của những
người SDD trong quá khứ hay trong hiện tại đều không thể đạt đến mức tối
ưu, là một sự lãng phí vô cùng lớn đối với các nước đang phát triển. Nguồn
nhân lực trong tương lai cũng sẽ bị ảnh hưởng vì tầm vóc và thể lực c
ủa các
lớp thanh thiếu niên liên quan đến sức khỏe sinh sản [18]. Như vậy, SDD
vừa ảnh hưởng trước mắt, trực tiếp đến phát triển của trẻ; vừa dẫn đến các
hậu quả không khắc phục được như tầm vóc người trưởng thành thấp bé,
kết quả học tập kém, giảm khả năng lao động người lớn và ảnh hưởng tới
thu nhập quốc dân [4]. M
ặt khác, điều trị SDD phức tạp, tốn kém, trong khi
việc phát hiện sớm và dự phòng SDD có thể thực hiện được nhờ các biện
pháp chăm sóc sức khoẻ ban đầu [22].