Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

SKKN Vận dụng tư vấn học đường để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm học sinh khối 10 trường THPT Nguyễn Văn Trỗi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.43 KB, 24 trang )




SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH HÒA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN TRỖI








SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG ĐỂ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
HỌC SINH LỚP 10A2 TRƯỜNG THPT
NGUYỄN VĂN TRỖI





Người thực hiện:
Phan Thị Khoa








NHA TRANG - 04/2013


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong nhà trường THPT, cùng với dạy học, giáo dục là một trong những
nhiệm vụ then chốt. Làm thế nào để học sinh ngoan hơn, ý thức tự giác cao hơn,
học tập tốt hơn, yêu thương đoàn kết với nhau hơn đó là những câu hỏi thường
trực của những thầy, cô giáo đã và đang làm công tác chủ nhiệm.
Hoà chung với sự biến đổi của giáo dục thế giới, nền giáo dục Việt Nam
đang có những sự thay đổi lớn: Rũ bỏ những quan niệm, biện pháp giáo dục lạc
hậu, thay thế vào đó là các quan niệm và biện pháp giáo dục mới, hiện đại hơn,
phù hợp với sự phát triển của xã hội, nhằm mục tiêu giáo dục nên các thế hệ học
trò không chỉ học giỏi mà còn năng động, tự giác, tự tin trong học tập cũng như
trong cuộc sống.
Trong những năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm, và đã đạt được
những kết quả khá tốt. Tuy nhiên, thực tế đã đặt ra một số vấn đề cần giải quyết
như sau:
Thứ nhất, những kết quả đó chưa bền vững, lúc giáo viên chủ nhiệm tăng
cường kiểm tra việc thực hiện nội quy thì các em rất ngoan, nhưng chỉ cần giáo
viên chủ nhiệm “thả lỏng” thì nhiều em sẽ vi phạm. Tinh thần tự quản của tập thể
lớp chưa cao. Mặt khác, trong lớp có những em rất cá tính (và nhiều khi có cả học
trò cá biệt) nếu chúng ta chỉ đơn thuần áp dụng các biện pháp như nhắc nhở hay
trách phạt thì chưa đủ.
Thứ hai, hiện nay do điều kiện kinh tế được cải thiện, mức sống của các gia
đình được nâng lên, mỗi gia đình chỉ sinh từ một đến hai con nên có điều kiện
quan tâm con cái nhiều hơn. Do được sống trong sự bao bọc của gia đình từ nhỏ
nên trong các em hình thành tính ích kỷ, cái tôi của các em quá lớn, dẫn đến việc

khó hoà nhập với tập thể và thiếu những kỹ năng cơ bản trong quan hệ, giao tiếp,
ứng xử với những người xung quanh.
Thứ ba, đại bộ phận phụ huynh mới chỉ chú ý đến việc học của con chứ chưa
chú ý đế sự phát triển về mặt tâm lý. Hơn nữa bản thân phụ huynh còn có tâm lý
ngại ngùng khi trò chuyện với con cái về các vấn đề nhạy cảm. Vì vậy đa số các
em chưa có hiểu biết đúng và đầy đủ về tình yêu, giới tính, và quan hệ với bạn
khác giới.
Thứ tư, ở tuổi các em làm đẹp trở thành một nhu cầu cấp thiết. Tuy nhiên,
các em chưa có hiểu biết đầy đủ về thẩm mỹ, dẫn tới hiện tượng chạy theo bắt
chước thần tượng của mình một cách máy móc, nhiều khi không phù hợp với văn
hoá dân tộc tạo nên sự phản cảm ở những người xung quanh, có nguy cơ đánh mất
bản sắc văn hoá dân tộc.
Thứ năm, các em mới bước chân vào trường THPT, hầu hết chưa quen với
phương pháp giảng dạy của giáo viên ở cấp 3. Thêm vào đó chương trình học hiện



nay của các em khá nặng, nên các em lúng túng chưa tìm ra phương pháp học
thích hợp cho bản thân dẫn đến kết quả học tập chưa cao.
Làm thế nào để các em không chỉ học tốt, mà còn trở thành những con người
tự giác, tự tin, năng động trong học tập cũng như trong cuộc sống. Bản thân tôi
nghĩ rằng người giáo viên chủ nhiệm cần phải cùng một lúc thực hiện nhiều biện
pháp, một trong những biện pháp quan trọng nhất là công tác tư vấn học đường.
Bởi vì tư vấn tốt sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm đạt hiệu quả cao trong giáo dục học
sinh. Mục tiêu của tư vấn chính là hỗ trợ trẻ tự nhận thức, tự giúp đỡ chính mình
và tự thay đổi bản thân. Như vậy, tư vấn là cách thức đạt đến giáo dục ở trình độ
cao: giáo dục dựa trên sự tự giác, tự giáo dục.
Đối với việc học tập của học sinh, công tác tư vấn học đường giúp các em
tìm ra được phương pháp học tập phù hợp, hiệu quả, giúp các em nhận ra rằng học
ở trình độ cao nhất là tự học, học để ngộ ra, để tự nhận thức. Học hiệu quả không

phải là ghi nhớ những điều thầy cô truyền đạt, mà học từ nhiều nguồn, qua nhiều
cách, qua trải nghiệm.
Qua công tác tư vấn học đường, giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm được tâm tư
tình cảm của các em, những khó khăn mà học sinh đang mắc phải, cùng sẻ chia,
động viên và hướng dẫn các em vượt qua khó khăn trong học tập cũng như trong
cuộc sống, giúp học sinh tự trải nghiệm để nhận ra giá trị thật của cuộc sống, tự
trang bị cho mình những kỹ năng sống cần thiết. Đồng thời công tác tư vấn học
đường còn là cơ hội để xây dựng quan hệ thầy (cô) – trò gắn bó, bạn bè mến
thương nhau, tạo cơ sở để xây dựng nên lớp học thân thiện, học sinh tích cực. Khi
làm được điều đó là chúng ta đang góp phần nâng cao hiệu quả của công tác chủ
nhiệm lớp.
Từ những lý do nêu trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Vận dụng tư vấn
học đường để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp 10A2 trường THPT
Nguyễn Văn Trỗi” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nâng cao ý thức tự giác, tự giáo dục cho học sinh.
- Giúp học sinh lựa chọn phương pháp học tập phù hợp với điều kiện thực tế
của bản thân.
- Trang bị cho học sinh những kỹ năng sống cơ bản để tự xử lý tốt các tình
huống phát sinh trong cuộc sống.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: học sinh lớp 10A2 trường THPT Nguyễn Văn
Trỗi, Nha Trang, Khánh Hoà.
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác tư vấn học đường
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác tư vấn học đường đối với học sinh.


- Khảo sát đánh giá thực trạng học sinh lớp 10A2 tại trường THPT Nguyễn
Văn Trỗi, Nha Trang, Khánh Hoà

- Đề xuất những biện pháp, tiến hành thực nghiệm, đánh giá kết quả và vận
dụng để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm học sinh lớp10A2.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: công tác tư vấn học đường
- Thời gian: từ tháng 10/2013 đến tháng 4/2014
- Không gian: Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi, Nha Trang, Khánh Hoà
- Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp10A2 trường THPT Nguyễn Văn Trỗi.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu về mặt lý luận để hiểu và chọn lọc ra được những
nội dung tư vấn học đường phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp
10.
- Tiến hành khảo sát bằng cách phát phiếu thăm dò để đánh giá thực
trạng của vấn đề đang nghiên cứu.
- Vận dụng những nội dung đã nghiên cứu về mặt lý luận vào đối tượng
nghiên cứu cụ thể.
- Khảo sát bằng phiếu thăm dò, so sánh, đối chiếu, đánh giá kết quả
trước và sau khi tiến hành thực nghiệm.
- Rút ra kết luận và đề ra hướng ứng dụng của đề tài.



B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm Tư vấn học đường
Tư vấn là từ chỉ một hoạt động chuyên môn hoặc chỉ một nghề nghiệp
chuyên giúp người khác có thể ra quyết định và giải quyết vấn đề, nâng cao năng
lực sống cá nhân bằng những phương pháp nghiệp vụ chuyên môn. Người làm
nghề này được gọi là nhà tư vấn.
Trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT, để hỗ trợ học sinh trong quá

trình phát triển, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục học sinh, người giáo viên chủ
nhiệm cũng cần có khả năng tư vấn, hỗ trợ học sinh. Một số dạng tư vấn thường
được sử dụng trong công tác chủ nhiệm, đó là tư vấn tâm lý và tư vấn giáo dục.
Tư vấn tâm lý là quá trình nhà tư vấn vận dụng những tri thức, phương pháp
và kỹ thuật tâm lý học nhằm trợ giúp đối tượng được tư vấn nhận ra chính mình, từ
đó thay đổi hành vi, thái độ, tự tái lập lại thế cân bằng tâm lý của bản thân mình.
Tư vấn giáo dục là qua trình tư vấn mà nhà tư vấn sử dụng các phương pháp
giáo dục nhằm can thiệp, phòng ngừa, hỗ trợ học sinh trong quá trình phát triển.
Tư vấn giáo dục có hai loại: tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp.
Như vậy, quá trình tư vấn là quá trình từ khi nhà tư vấn bắt đầu làm việc với
người cần tư vấn đến khi đạt được một kết quả nhất định mà cả hai chấp nhận. Kết
quả tư vấn là sự thay đổi về chất ở một mức độ nhất định ở người cần tư vấn.
Tham vấn một khái niệm còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Có nhiều cách hiểu về
tham vấn. Trong công tác chủ nhiệm, tham vấn là kỹ năng trợ giúp về mặt tâm lý
của giáo viên chủ nhiệm đối với học sinh khó khăn về tâm lý, nhằm giúp các em tự
nhận thức và đối mặt với những vấn đề của mình, có thể vượt qua những khó khăn
đó. Tham vấn có nhiều loại như: tham vấn tâm lý, tham vấn hướng nghiệp, tham vấn
học tập.
Thuật ngữ tư vấn học đường được sử dụng trong nhà trường hiện nay bao gồm
cả chức năng tư vấn và tham vấn. Đó là một lĩnh vực khoa học ứng dụng tâm lý và
giáo dục, bao gồm những cách thức hỗ trợ và tác động mang tính định hướng giáo
dục tới học sinh cần giúp đỡ. Qua tư vấn, học sinh vượt qua được những khó khăn
lựa chọn được cách giải quyết phù hợp. Giáo viên chủ nhiệm đồng thời là nhà tư
vấn, chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục con người.
2.Vai trò của Tư vấn học đường
Năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo cho các trường thực hiện
nhiệm vụ tư vấn học đường. Điều đó chứng tỏ, tư vấn học đường có vai trò quan
trọng trong nhà trường.
Tư vấn học đường tạo ra những tác động mang tính định hướng giáo dục tới
học sinh, nhằm giúp học sinh biết cách định hướng và giải quyết vấn đề của bản



thân, tạo ra sự phát triển phù hợp với yêu cầu, mong muốn của xã hội. Như vậy, tư
vấn học đường tác động vào nhận thức, giúp các em tự nhận thức, tự giải quyết vấn
đề qua đó hình thành tính tự lập, biết tự chịu trách nhiệm.
Tư vấn học đường trợ giúp và là bạn đồng hành của các em trong quá trình
học tập, rèn luyện và phát triển.
Tư vấn học đường có vai trò tham vấn giúp các em lựa chọn cách xử lý
đúng, góp phần ổn định đời sống tâm hồn, tình cảm và giúp học sinh thực hiện
được nguyện vọng của mình.
Tư vấn học đường tạo ra môi trường thuận lợi, tích cực, thân thiện cho sự
phát triển nhân cách của trẻ đúng theo định hướng, mục tiêu mà xã hội mong
muốn. Đó là hạnh phúc của mỗi các nhân dựa trên hạnh phúc của toàn xã hội.
3. Các nội dung của Tư vấn học đường
Dựa trên một số kết quả nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2005, những khó
khăn trong đời sống học đường, những “trục trặc” mà học sinh trung học có thể
gặp phải trong các mối quan hệ của mình, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định rõ
sáu nội dung của tư vấn học đường ở trường phổ thông, tập trung vào các vấn đề
sau:
- Hướng nghiệp, chọn nghề và thông tin tuyển sinh
- Tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới
- Quan hệ, giao tiếp, ứng xử với gia đình, bạn bè và giáo viên
- Phương pháp học tập
- Tham gia các hoạt động xã hội
- Thẩm mỹ
4. Đối tượng cần tư vấn học đường
Trong tư vấn học đường, một trong những vấn đề cấn xác định rõ là đối
tượng cần tư vấn. Đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm, có hai đối tượng cần
tư vấn. Thứ nhất là những học sinh gặp khó khăn chủ quan, không tìm thấy
phương hướng sống, hoặc những khó khăn mà bản thân em không tìm ra cách giải

quyết. Đó là những khó khăn trong đời sống học đường, trong các mối quan hệ của
học sinh. Đây là kiểu tư vấn trực tiếp. Thứ hai là những tác nhân gây ra khó khăn
cho các em, gây tổn thương hoặc không biết làm việc với các em. Nếu không tư
vấn, can thiệp vào nhóm đối tượng này thì vấn đề của học sinh không được giải
quyết. Vì vậy, khi làm việc với nhóm thứ hai, mục tiêu là hỗ trợ để họ hiểu, thay
đổi thái độ, cách ứng xử với học sinh cần tư vấn. Đây là kiểu tư vấn gián tiếp. Dù
là tư vấn trực tiếp hay tư vấn gián tiếp, mục tiêu cuối cùng vẫn là lợi ích của học
sinh đang được tư vấn.



5. Lực lượng tham gia tư vấn học đường
Để thực hiện những nội dung tư vấn nêu trên, đảm bảo thực hiện tốt vai trò
của tư vấn học đường nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh cần thu hút đông
đảo lực lượng tham gia công tác tư vấn, bao gồm:
Các tổ chức, cá nhân tư vấn ngoài nhà trường- đó là những người, những tổ
chức tư vấn chuyên nghiệp, như các tổ chức tư vấn trẻ em, các cơ quan bảo vệ và
chăm sóc trẻ em, các cơ quan pháp luật và các cơ quan công tác xã hội.
Các tổ chức, cá nhân tư vấn trong nhà trường. Mỗi trường có một hay một
vài bộ phận chịu trách nhiệm tư vấn cho học sinh. Các tổ chức, cá nhân này bao
gồm cả lực lượng chuyên nghiệp và không chuyên.
6. Một số yêu cầu trong công tác tư vấn học đường
Tư vấn, dù là nghề nghiệp hay chỉ là một chức năng đều phải tuân theo yêu
cầu đạo đức nghề nghiệp. Các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp giúp người tư vấn định
hướng đúng nghề nghiệp, đảm bảo cho các cuộc tư vấn đúng hướng và hiệu quả.
Mặt khác các yêu cầu đạo đức tư vấn còn tăng cường trách nhiệm nghề nghiệp,
đảm bảo người tư vấn có thể thực hiện mục đích vì lợi ích của trẻ em.
Những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cần tuân thủ khi tư vấn cho học sinh
gồm:
- Luôn đảm bảo khách quan trong tư vấn.

- Người tư vấn cần tránh các quan hệ nhiều tuyến với học sinh cần tư vấn.
- Người tư vấn cần tôn trọng học sinh cần tư vấn.
- Cần giữ bí mật thông tin trong tư vấn.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG
TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN TRỖI
1. Một số nét về công tác tư vấn học đường tại trường THPT Nguyễn Văn
Trỗi
Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi là một trong số các trường có quy mô lớn
trên địa bàn thành phố Nha Trang. Năm học 2013- 2014, trường có 49 lớp (gồm 17
lớp khối 12, 16 lớp khối 11 và 16 lớp khối 10) với quy mô hơn 2000 học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường đã có nhiều quan tâm đến vấn đề tư vấn học
đường như: Trường đã thành lập câu lạc bộ tư vấn sức khoẻ sinh sản vị thành niên
do cô Phan Hồng Vân và cô Cao Thị Nhung, giáo viên môn sinh học phụ trách. Đã
phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường như hội cha mẹ học sinh,
công an phường, công an thành phố, hàng năm tổ chức các hoạt động để phổ biến
kiến thức pháp luật cho học sinh. Phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp để tư vấn tuyển sinh cho học sinh khối 12, tư vấn nghề nghiệp cho học sinh,
giúp các em có cái nhìn đúng với các ngành nghề trong xã hội.
Ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội, Thông
qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khoá, văn nghệ, vui chơi giải trí đã góp phần
tạo điều kiện để các em được tham gia sinh hoạt tập thể, rèn luyện kỹ năng hoà
nhập với cộng đồng, vượt qua những mặc cảm tự ti về bản thân, dám thể hiện mình
trước đám đông
2. Những khó khăn và hạn chế trong công tác tư vấn học đường
Các em học sinh của trường đều ở độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi, lứa tuổi gặp
nhiều vướng mắc về tâm, sinh lý nên rất cần sự tư vấn và sự quan tâm, giúp đỡ của
những người có chuyên môn. Đặc biệt đối với học sinh lớp 10, các em gặp nhiều

khó khăn trong việc hoà nhập với môi trường mới với rất nhiều điều lạ lẫm (bạn bè
mới, môi trường học tập mới, phương pháp học tập mới, ). Tuy nhiên công tác tư
vấn học đường tại trường vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế.
Bảng thăm dò mức độ khó khăn trong việc hoà nhập với môi
trường học tập mới của học sinh
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến
Tỉ lệ
(%)
Rất khó khăn 10 22.73
Khó khăn 10 22.73
Hơi khó khăn 10 22.73
Không khó khăn 14 31.82




Nhà trường chưa có cán bộ chuyên môn phụ trách công tác tư vấn học
đường. Các lực lượng tham gia vào công tác này hiện nay đều là những lực lượng
không chuyên, không được đào tạo bài bản về công tác tư vấn. Chính vì vậy, khi tư
vấn cho học sinh các giáo viên chủ yếu tư vấn theo theo kinh nghiệm của bản thân
và đồng nghiệp. Quá trình nắm bắt tâm lý học sinh, gợi mở để các em mạnh dạn
bày tỏ những khó khăn đang mắc phải, quá trình giúp đỡ các em chưa chuyên
nghiệp dẫn đến học sinh e ngại. Khi có nhu cầu được tư vấn các em sẽ tìm kiếm sự
giúp đỡ từ bạn bè, từ những người xung quanh hoặc tự tìm cách xử lý.
Bảng thăm dò mức độ thường xuyên đến phòng tư vấn sức khoẻ
sinh sản vị thành niên của trường
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến
Tỉ lệ

(%)
Rất thường xuyên 0 0
Thường xuyên 1 2.27
Không thường xuyên 5 11.36
Chưa bao giờ 38 86.36

Câu lạc bộ tư vấn sức khoẻ sinh sản vị thành niên đã thành lập được gần 5
năm nhưng hoạt động chưa có hiệu quả. Số học sinh đến tư vấn rất ít do tâm lý xấu
hổ, rụt rè, e ngại.
Phòng tư vấn của trường chưa đảm bảo được yêu cầu của một phòng tư vấn
vì chưa đảm bảo sự kín đáo, riêng tư, tạo cho các em cảm giác an toàn.
Nhiều giáo viên kể cả giáo viên chủ nhiệm là những người gần gũi với học
sinh nhất vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của tư vấn học đường.
Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp, các tiết sinh hoạt lớp giáo viên thường
dành để phổ biến các hoạt động tuần tiếp theo, phê bình các học sinh vi phạm hoặc
có những biểu hiện không tốt trong tuần vừa qua. Nhiều giáo viên chưa quan tâm,
tìm hiểu nguyên nhân tại sao học sinh lại như vậy và nếu tìm hiểu được nguyên
nhân thì lại không biết phải tác động như thế nào, nhất là khi học sinh gặp những
vấn đề nhạy cảm về giới tính, tình bạn, tình yêu
Bảng thăm dò mức độ thường xuyên tư vấn tâm lý của giáo viên chủ nhiệm
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến
Tỉ lệ
(%)


Rất thường xuyên 0 0
Thường xuyên 0 0
Không thường xuyên 10 22.73
Chưa bao giờ 34 77.27


Các em học sinh lớp 10 bước vào một môi trường học tập mới nên gặp rất
nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. So với chương trình bậc THCS chương trình ở bậc THPT
khối lượng kiến thức nhiều hơn và khó hơn rất nhiều. Phương pháp giảng dạy của
giáo viên THPT cũng khác với bậc học trước nên nhiều em không bắt kịp được.
Tuy nhiên nhiều giáo viên không để ý đến sự khác biệt đó, nên không hướng dẫn
cho học sinh tìm ra phương pháp học tập phù hợp với bản thân.
Bảng thăm dò mức độ khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập phù hợp
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến
Tỉ lệ
(%)
Rất khó khăn 10 22.73
Khó khăn 20 45.45
Hơi khó khăn 6 13.64
Không khó khăn 8 18.18

Các em gặp rất nhiều những vướng mắc cần được hỗ trợ trong cuộc sống,
trong học tập, nhưng các em không muốn tìm đến vai trò tư vấn của giáo viên và
các tổ chức trong trường do tâm lý rụt rè, e ngại.
Ở lứa tuổi này, các em đã có ý thức làm đẹp. Nhưng vì nhận thức chưa đầy
đủ về thẩm mỹ nên các em thường bắt chước theo thần tượng của mình trên phim,
ảnh một cách vô thức dẫn đến nhiều em ăn mặc phản cảm, đánh mất bản sắc văn
hoá dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều gia đình tập trung phát triển kinh tế. Cha mẹ
có ít thời gian để gần gũi và quan tâm đến con nên không hiểu được suy nghĩ của
con mình. Hơn nữa các em học sinh cấp THPT đều bước vào độ tuổi đang lớn, tâm
sinh lý có nhiều thay đổi, nhiều bậc phụ huynh không theo sát sự phát triển của con
nên không thấy được những khó khăn các em đang mắc phải để kịp thời hỗ trợ con
mình.

Hầu hết các gia đình hiện nay chỉ quan tâm đến việc học của con chứ chưa
quan tâm đúng mức đến sự phát triển tâm sinh lý của trẻ, trong khi các em cần có



người để chia sẻ, tâm sự nhưng người lớn lại chưa biết cách gợi mở cho các em.
Gia đình phó thác vai trò giáo dục cho nhà trường.
Một số học sinh bị ảnh hưởng từ cuộc sống gia đình không hạnh phúc, ba
mẹ thường xuyên cãi cọ, ly hôn Sứt mẻ tình cảm gia đình làm các em thường cảm
thấy mặc cảm, tự ti về bản thân, một số khác rơi vào trạng thái chán nản, mất
phương hướng, muốn trả thù đời nên thường tìm cách quậy phá, chống đối. Đối
với những học sinh này, để giúp đỡ các em phải tác động từ gia đình. Đây là một
điều vô cùng khó khăn đối với nhà trường.
Bảng thăm dò vấn đề mà gia đình học sinh thường quan tâm nhất
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến
Tỉ lệ
(%)
Kết quả học tập

43 97.73
Sự phát triển tâm sinh lý

1 2.27
Không quan tâm 0 0


CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC TƯ VẤN HỌC
ĐƯỜNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM HỌC

SINH TẠI LỚP 10A2
Từ thực tế công tác tư vấn học đường tại trường THPT Nguyễn Văn Trỗi, tôi
đã thực nghiệm một số nội dung của tư vấn học đường để nâng cao hiệu quả công
tác chủ nhiệm học sinh tại lớp 10A2 như sau:
1. Tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới
- Tổ chức sinh hoạt lớp theo chuyên đề "Tình yêu, giới tính và quan hệ với
bạn khác giới”, có sự tham dự của chuyên viên tư vấn, để các em được thoải mái
bộc lộ quan điểm của mình, tạo điều kiện các em được giao lưu, trao đổi các vấn
đề còn vướng mắc của bản thân với chuyên viên tư vấn.
- Tư vấn về giới tính, tiến hành chia lớp theo giới tính để tư vấn. Mời giáo
viên nam trong trường được các em yêu mến về trò chuyện giới tính với các học
sinh nam. Còn học sinh nữ trong lớp do tôi trực tiếp tư vấn dựa trên tài liệu tham
khảo và ý kiến của chuyên viên tư vấn. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước ở nhà
một số câu hỏi về các vấn đề bản thân đang mắc phải. Thông qua các buổi tư vấn
đó, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản về giới tính của bản thân, còn
giáo viên cũng nắm được những vướng mắc mà học sinh mình đang mắc phải để
có thể hỗ trợ các em hiệu quả nhất.
- Hướng dẫn Ban cán sự lớp tổ chức trò chơi bốc thăm trả lời câu hỏi với
chủ đề “tình bạn khác giới, tình yêu tuổi học trò” vào ngày 14 tháng 2, gợi ý học
sinh đưa ra một số tình huống thường xảy ra trong độ tuổi học trò. Mỗi tình huống
như vậy, tôi khuyến khích các học sinh trong lớp phát biểu, tranh luận với nhau tạo
điều kiện để học sinh bộc lộ quan điểm của mình. Trên cơ sở đó, giáo viên hiểu
được những vấn đề học sinh đang mắc phải về tình bạn khác giới, tình yêu tuổi
học trò, từ đó có những định hướng, biện pháp tác động phù hợp với các em.
- Đối với các em đã có bạn trai ( bạn gái), luôn theo dõi sát những biểu hiện
của các em, thường xuyên gần gũi, trao đổi để nắm rõ tâm tư tình cảm của học sinh
từ đó có những định hướng kịp thời, hiệu quả.
- Thiết lập đường dây nóng giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm để những
em có tính rụt rè, không dám hỏi trực tiếp có thể đặt câu hỏi về những vấn đề mình
đang mắc phải. Tôi cung cấp số điện thoại, địa chỉ mail cá nhân và địa chỉ

facebook cho học sinh để các em tiện trao đổi. Tất cả các câu hỏi của học sinh tôi
cố gắng trả lời trong ngày, những vấn đề quá rắc rối, tôi sẽ trả lời sớm nhất sau khi
tham khảo ý kiến của chuyên viên tư vấn.
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, thường xuyên trao đổi thông tin về học
sinh, nâng cao nhận thức của phụ huynh về vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi để có sự
quan tâm đúng mức đến con cái, phát hiện kịp thời những biểu hiện không bình
thường của các em để có sự hỗ trợ kịp thời. Thông qua các buổi họp phụ huynh



định kỳ và những lần gặp mặt riêng phụ huynh của một số em có những biểu hiện
không bình thường, nhấn mạnh vai trò của gia đình trong việc giáo dục con cái.
Cha mẹ phải quan tâm và thường xuyên trò chuyện với con mình như những người
bạn, lắng nghe con tâm sự để hiểu con cần giúp đỡ như thế nào, đối với những
vướng mắc từ trường lớp, bạn bè, cha mẹ báo với giáo viên chủ nhiệm để phối hợp
giúp đỡ các em giải quyết.
2. Quan hệ, giao tiếp, ứng xử với gia đình, giáo viên và bạn bè
- Tổ chức các tiết sinh hoạt lớp theo chuyên đề: “quan hệ, giao tiếp, ứng xử
với gia đình, thầy cô và bạn bè”. Trong những tiết sinh hoạt đó, giáo viên hướng
dẫn học sinh chuẩn bị trước một số tình huống (bằng câu hỏi hoặc đóng vở kịch
nhỏ) phản ánh những tình huống thường xảy ra trong qua hệ giữa các em với gia
đình, với giáo viên và giữa các em với nhau. Động viên học sinh mạnh dạn trả lời,
bày tỏ suy nghĩ của bản thân, tham gia tranh luận, bổ sung cho nhau. Trên cơ sở
hiểu được suy nghĩ của các em, để đưa ra những định hướng phù hợp.
- Hướng dẫn các học sinh nam tổ chức kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20-
10, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, tổ chức trò chơi bốc thăm tặng hoa. Bạn nam bốc
thăm trúng tên bạn nữ nào sẽ tặng hoa cho bạn đó kèm một lời chúc mừng. Bạn
nam nào có cử chỉ tặng hoa lãng mạn nhất, lời chúc mừng hay nhất sẽ nhận được
một phần thưởng rất lớn, đó là danh hiệu hot boy của năm. Thông qua các trò chơi
đó, xây dựng và củng cố mối quan hệ bạn bè tốt đẹp, gắn bó.

- Cùng học sinh tổ chức toạ đàm kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11,
mời giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Đoàn về tham dự. Hướng dẫn học
sinh đặt câu hỏi về tuổi học trò của các thầy cô, những kỷ niệm vui, buồn trong
cuộc đời làm nghề giáo, những mong muốn của thầy cô đối với học trò hôm nay
tạo không khí gần gũi, thân mật giữa thầy cô và học sinh. Tổ chức chương trình
văn nghệ “tri ân thầy cô” gồm các tiết mục của các bạn trong lớp hát về thầy cô và
mái trường. Mời một số thầy cô lên giao lưu văn nghệ với lớp. Kết thúc buổi giao
lưu - toạ đàm, lớp trưởng và bí thư chi đoàn đại diện cho lớp lên tặng hoa và chúc
mừng quý thầy cô giáo, cả lớp hát vang bài ca Bụi Phấn.
- Thường xuyên trao đổi với các em về vai trò của gia đình trong cuộc sống
của con người, phối hợp với hội phụ huynh của lớp tổ chức toạ đàm về vai trò của
gia đình để lắng nghe các em chia sẻ suy nghĩ và những mong ước của bản thân
đối với cha mẹ, đồng thời giúp các em hiểu được suy nghĩ, mong ước của cha mẹ
và thông cảm với cha mẹ mình. Qua đó góp phần xây dựng quan hệ gắn bó, cởi
mở, gần gũi giữa cha mẹ và con cái.
- Trong lớp có một trường hợp học sinh bố mẹ ly hôn, tôi thường xuyên gần
gũi, trò chuyện an ủi và động viên em cố gắng vươn lên trong học tập và cuộc
sống. Tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để em có thể theo học và hoà nhập
với các bạn. Biết hoàn cảnh của em có nhiều khó khăn khi em chỉ ở với mẹ, tôi chủ
động gặp mẹ em hướng dẫn làm đơn xin miễn giảm tiền học thêm gửi cho giáo
viên bộ môn, xin phép nhà trường cho em được lùi thời hạn nộp các khoản đầu
năm, miễn tất cả các khoản tiền quỹ lớp nhằm tạo điều kiện cho em được đi học.


Đồng thời, nắm bắt tâm tư suy nghĩ của em phản ánh đến phụ huynh để giúp cha
mẹ hiểu những mong ước của em, để gia đình có những cố gắng bù đắp cho thiệt
thòi của em.
- Trong quá trình học tập, xảy ra những va chạm giữa các em với nhau, giữa
học sinh với giáo viên. Mỗi trường hợp như vậy, tôi chủ động gặp học sinh ngay
sau đó, lắng nghe suy nghĩ của các em để hiểu rõ nguyên nhân, phân tích để các

em thấy được cái đúng cái sai của bản thân, hỗ trợ các em tìm cách giải quyết vấn
đề.
- Trong lớp 10A2, ban cán sự có trách nhiệm quản lý và báo cáo tình hình
lớp, tổ cho giáo viên chủ nhiệm, đặc biệt là báo cáo những trường hợp vi phạm nên
thường bị một số em trong lớp tỏ thái độ khó chịu, không hợp tác. Để khắc phục
tình trạng đó, tôi đã phát động cuộc thi: “ Nếu em là cán bộ lớp”, cho học sinh cơ
hội để thể hiện suy nghĩ của mình khi nắm các vị trí cán bộ lớp. Lựa chọn những
bài viết hay nhất để đọc trước học sinh. Qua đó giúp các em hiểu và thông cảm với
những công việc của cán bộ lớp, tạo sự gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau giữa các học sinh
trong lớp.
Với đội ngũ cán bộ lớp, tôi luôn nhắc nhở các em bằng câu nói mà mẹ Lê –
Nin đã dạy Người: “khi con làm việc đúng thì con chẳng phải sợ ai cả”. Những
việc các em đang làm đều có mục đích tốt đẹp là vì sự tiến bộ của lớp, tuy nhiên
phải cư xử khéo léo, tế nhị hơn để các bạn không bị mắc cỡ, ví dụ như thay vì nhắc
nhở trước lớp, chúng ta có thể nhắc nhở riêng, nếu nhiều lần tái phạm thì mới đưa
ra nhắc nhở trước lớp
3. Phương pháp học tập
- Các em mới bước chân vào trường THPT, nhiều em chưa bắt kịp với
phương pháp dạy của thầy cô giáo, đặc biệt ở các bộ môn như : Văn, Toán, Vật lý,
Hoá học, Ngoại ngữ vì vậy mặc dù đã cố gắng nhưng kết quả học tập chưa cao.
Nắm bắt được điều đó, tôi đã phối hợp với giáo viên bộ môn tổ chức hội nghị học
tốt tại lớp. Tại đây, học sinh đã được nghe những chia sẻ của các thầy cô giáo, giúp
các em tìm ra được những phương pháp phù hợp với bản thân nhằm nâng cao kết
quả học tập.
- Lựa chọn những em học tốt nhất ở các môn làm cán sự bộ môn. Đội ngũ
cán sự bộ môn sẽ hoạt động đều đặn theo lịch, cụ thể thứ hai trả lời các thắc mắc
của các bạn về môn Văn, thứ ba môn Toán, thứ tư môn Hoá, thứ năm môn lý, thứ
sáu môn Anh, thứ bảy để giải đáp những thắc mắc các môn còn lại. Nhiệm vụ của
cả lớp là chuẩn bị bài trước ở nhà, phát hiện những vấn đề chưa hiểu để được giải
đáp. Cán sự bộ môn cũng thường xuyên chia sẻ với các bạn trong lớp về phương

pháp học của mình, hỗ trợ các bạn học yếu để tìm ra phương pháp học hiệu quả
nhất.
- Theo dõi sát sao kết quả học tập của học sinh qua các tuần, tháng thông
qua kết quả theo dõi của tổ trưởng và sổ đầu bài, lắng nghe các em chia sẻ về
phương pháp học của mình, từ đó có những góp ý kịp thời đối với những học sinh



chưa tiến bộ trong học tập để các em có sự điều chỉnh hợp lý về phương pháp học
tập.
- Phối hợp với nhà trường tổ chức hội thảo học tốt cấp trường để học sinh
được nghe các bạn có kết quả học tốt nhất trường chia sẻ về phương pháp học tập
từ đó các em sẽ tìm cho mình phương pháp học tập phù hợp với bản thân để có kết
quả học tập tốt hơn.
4. Kỹ năng sống
- Phối hợp với cán bộ lớp tổ chức các tiết sinh hoạt lớp theo chuyên đề kỹ
năng sống. Giáo viên cho mỗi tổ lựa chọn một vấn đề các em thường mắc phải,
các tổ thảo luận và cử một bạn rụt rè nhất tổ đứng dậy trình bày. Các tổ khác lắng
nghe và góp ý kiến.Thông qua các tiết sinh hoạt này, rèn luyện cho học sinh kỹ
năng thuyết trình, mạnh dạn khi đứng trước đám đông, từng bước khắc phục tâm lý
xấu hổ, rụt rè, e ngại ở một số học sinh trong lớp.
- Kỷ niệm ngày quốc tế phụ nữ 8-3, cùng tập thể lớp tổ chức buổi trình diễn:
trang phục đẹp của phụ nữ Việt Nam thế kỷ XXI, tạo điều kiện để các em thoả sức
sáng tạo trong cách chọn trang phục. Mỗi tổ sẽ cử một bạn đại diện trình diễn và cả
tổ sẽ chuẩn bị cho thí sinh của mình. Ban giám khảo sẽ đặt ra câu hỏi cho thí sinh.
Thông qua hoạt động này không những rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm việc
nhóm mà còn định hướng cho học sinh thế nào là trang phục đẹp, tránh việc bắt
chước thần tượng một cách máy móc, ăn mặc phản cảm, đánh mất bản sắc văn hoá
dân tộc.




CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
- Xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, tương thân tương ái, học sinh tự giác hỗ
trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn trong học tập và trong cuộc sống. Trong lớp có
một số em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt đã được tập thể lớp hỗ trợ hết mình về vật
chất và tinh thần, lớp không ngừng tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức trong và
ngoài nhà trường để giúp đỡ các bạn vượt qua khó khăn tiếp tục đến trường.
Bảng đánh giá mức độ học sinh hoà nhập với môi trường học tập
Số người trả lời: 44
Rất khó khăn Khó khăn Hơi khó khăn
Không khó
khăn

Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số
Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ

(%)
Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Trước khi
ứng dụng tư
vấn học
đường
10 22.73 10 22.73 10 22.73 14 31.82

Sau khi ứng
dụng tư vấn
học đường
0 0 0 0 14 31.82 30 68.18


Bảng thăm dò đánh giá mức độ đoàn kết trong tập thể lớp
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến Tỉ lệ (%)
Rất đoàn kết

37 84.09
Đoàn kết

5 11.36
Bình thường 2 4.55
Không đoàn kết 0 0

- Trước khi thực hiện đề tài, việc thực hiện nội quy học sinh của các em
chưa tốt, nhiều học sinh thường xuyên vi phạm nội quy học sinh về các vấn đề như
trang phục, nhuộm tóc khác màu đen, đi học trễ , sử dụng tài liệu trong kiểm tra,
Sau khi thực hiện các biện pháp tư vấn học đường, số lượng học sinh vi phạm giảm
xuống đáng kể: không có học sinh vi phạm trong giờ kiểm tra, không có học sinh
mặc đồng phục sai quy định, không có học sinh nhuộm tóc khác màu đen, không
có học sinh mang thức ăn nước uống lên lầu, số học sinh đi học trễ đã giảm đáng
kể các lỗi học sinh mắc phải hầu hết đều không phải là những lỗi nằm trong quy
chế. Ý thức tự giác của các em được nâng cao rất nhiều. Từ vị thứ 8 toàn khối 10



trong bảng thi đua giữa học kỳ một, lớp vươn lên vị thứ 5 toàn khối 10 cuối học kỳ
1 và tiếp tục vươn lên vị thứ 2 toàn khối 10 giữa học kỳ 2.
Bảng thăm dò đánh giá mức độ vi phạm nội quy của học sinh trong lớp
Tổng số người trả lời: 44
Số phiếu Tỉ lệ (%)
Vi phạm nhiều

0 0
Có vi phạm

3 6.82
Ít vi phạm 7 15.91
Không vi phạm 34 77.27

- Một số học sinh học lực yếu sau khi được tư vấn đã có sự tiến bộ rõ rệt. Sơ
kết học kỳ 1, lớp 10A2 có mười em rơi vào học lực yếu, đặc biệt ở môn Ngoại ngữ,
Toán Được sự quan tâm của giáo viên, sự hỗ trợ của cán sự bộ môn, các em đã
tự tìm được phương pháp học phù hợp với bản thân, tích cực trong các giờ học tại

lớp nên kết quả học tập được nâng lên. Theo đánh giá của giáo viên bộ môn, giữa
học kỳ 2, tất cả các học sinh trên đều đạt kết quả trung bình trở lên.
Bảng đánh giá mức độ khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập phù hợp
Số người trả lời: 44
Rất khó khăn Khó khăn Hơi khó khăn
Không khó
khăn

Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số
Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ

(%)
Trước khi
ứng dụng tư
vấn học
đường
10 22.73 20 45.45 6 13.64 8 18.18

Sau khi ứng
dụng tư vấn
học đường
0 0 4 9.09 10 22.73 30 68.18


Bảng thăm dò đánh giá sự tiến bộ của học sinh về mặt kết quả học tập
Tổng số người trả lời: 44
Tổng số ý kiến Tỉ lệ (%)
Nhiều tiến bộ 38 86.36
Ít tiến bộ 4 9.09
Không tiến bộ 2 4.55



- Các em thường xuyên tâm sự với giáo viên chủ nhiệm về những vướng
mắc trong tình bạn, tình yêu để được chia sẻ và hướng dẫn. Qua đó tôi đã nắm bắt
được diễn biến tình cảm của học sinh trong lớp, từ đó có những biện pháp tác động
phù hợp, để định hướng kịp thời cho các em.
Bảng đánh giá mức độ học sinh thường xuyên chia sẻ với giáo viên về các
vấn đề tình bạn, tình yêu, các vấn đề ứng xử hàng ngày
Số người trả lời: 44
Rất thường

xuyên
Thường xuyên

Không thường
xuyên
Không bao giờ


Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số
Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ
(%)
Tổng số

Ý kiến

Tỉ lệ

(%)
Trước khi
ứng dụng tư
vấn học
đường
0 0 2 4.55 10 22.73 32 72.73

Sau khi ứng
dụng tư vấn
học đường
10 22.73 25 56.82 9 2.45 0 0

- Đã tạo ra được sự phối hợp tốt giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình học
sinh trong việc giáo dục học sinh. Khi học sinh có vấn đề vướng mắc phụ huynh đã
chủ động báo cho giáo viên chủ nhiệm. Nhờ đó đã nắm bắt được tình hình học sinh
học ở trường cũng như ở nhà và phối hợp với gia đình giải quyết tốt các vấn đề của
học sinh. Một số em được sinh ra trong những gia đình khá giả, cộng với sự chiều
chuộng quá mức của cha mẹ nên mặc nhiên cho rằng những người xung quanh
phải phục vụ cho mình, có biểu hiện thờ ơ với sự vất vả của cha mẹ. Qua nhiều lần
tâm sự với cả lớp về những nỗi vất vả của cha mẹ, những kỳ vọng mà cha mẹ gửi
gắm ở các em, nhiều em đã có sự tiến bộ. Một số phụ huynh phản ánh các em đã
biết thu xếp thời gian học tập để phụ giúp việc nhà, một số em ngoài thời gian học
còn xin đi làm thêm để có tiền phụ cha mẹ. Hầu hết các em đều ý thức được sự vất
vả của cha mẹ, biết thương và thông cảm với cha mẹ mình.
- Trước khi thực hiện đề tài, có một số giáo viên phản ánh một số em trong
lớp có thái độ chưa tốt. Đặc biệt trong lớp có một trường hợp học sinh cá biệt (là
học sinh lưu ban của năm học trước), các mối quan hệ bạn bè của em khá phức tạp
(có cả những người đang đi cải tạo), gia đình em khó khăn, cha mẹ vất vả mưu
sinh nên không có nhiều thời gian để gần gũi con. Trong điều kiện như vậy, học
sinh này đã bị nhiễm một số điều chưa tốt từ bạn bè xấu, như thiếu ý thức tổ chức

kỷ luật, khi được nhắc nhở thay vì hối lỗi thì em lại cố tỏ ra thái độ “chẳng sợ ai”.
Bạn bè nhắc nhở thì em quát lại và đe doạ khiến không bạn nào dám góp ý cho em.



Trong quá trình chủ nhiệm, tôi đã cử học sinh này làm tổ trưởng của một tổ trong
lớp để em thấy mình được tôn trọng. Luôn nhắc nhở em về vị trí tổ trưởng của
mình, em phải gương mẫu để các bạn tín nhiệm. Thường xuyên gặp riêng em để
trao đổi, tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, bạn bè của em từ đó tìm cách tác động
phù hợp. Đồng thời, đối với những vi phạm của em, tôi kiên quyết xử lý đúng quy
chế sau khi đã phân tích có tình có lý, có tình để em hiểu và rút kinh nghiệm. Sau
một thời gian được tư vấn học sinh cá biệt này đã dần thay đổi, biết kính trọng thầy
cô giáo, biết lắng nghe mọi người góp ý, sống hoà đồng với các bạn trong lớp và
được giáo viên bộ môn quan tâm giúp đỡ .
- Nhờ ứng dụng các biện pháp tư vấn học đường, tôi đã xây dựng được mối
quan hệ gắn bó giữa giáo viên bộ môn với tập thể lớp. Hầu hết giáo viên bộ môn
đều khen các em dễ thương, ngoan và có ý thức vươn lên trong học tập.
- Về cách ăn mặc, các em đã hiểu được thế nào là mặc đẹp, phù hợp với văn
hóa Việt Nam, từ đó 100% nữ sinh trong lớp tự nguyện mặc áo dài, tất cả áo dài
của các em được may theo kiểu truyền thống, vừa đẹp, vừa phù hợp với lứa tuổi.
Trong học kỳ 2 không có học sinh nào trong lớp vi phạm về trang phục khi đến
trường.
- Thông qua tư vấn học đường đã giúp cho học sinh ngày càng gần gũi hơn
với giáo viên chủ nhiệm, nhờ đó giáo viên chủ nhiệm kịp thời nắm bắt các vấn đề
khó khăn, khúc mắc của các em để có những tác động phù hợp kịp thời.


C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa Ban giám hiệu, giữa các tổ chức trong

trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói một
cách khác, giáo viên chủ nhiệm là người đại diện hai phía, một mặt đại diện cho
các lực lượng giáo dục của nhà trường, mặt khác đại diện cho tập thể học sinh. Với
tư cách là sư phạm (đại diện cho tập thể các nhà sư phạm), giáo viên chủ nhiệm có
trách nhiệm truyền đạt tới học sinh của lớp chủ nhiệm tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo
dục của nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm không phải
bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, cảm hoá, bằng sự gương mẫu của người
giáo viên chủ nhiệm, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự
giác, tự nguyện. Với kinh nghiệm sư phạm và uy tín của mình, giáo viên chủ
nhiệm có khả năng biến những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường thành
chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi học sinh.
Vận dụng các nội dung tư vấn học đường trong công tác chủ nhiệm đã giúp
cho giáo viên chủ nhiệm xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, tương thân, tương ái.
Củng cố được mối quan hệ tốt đẹp giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo
viên bộ môn, học sinh với gia đình. Giúp học sinh giải quyết được những vấn đề
khó khăn của bản thân trong quá trình học tập.
Vận dụng các nội dung tư vấn học đường đã giúp cho người giáo viên chủ
nhiệm gần gũi hơn với tập thể lớp, từ đó nắm bắt được những vấn đề phát sinh
trong lứa tuổi học sinh để có những định hướng giáo dục phù hợp đối với các em.
Mang lại hiệu quả cao cho công tác chủ nhiệm lớp.
Với thời gian công tác chưa lâu, và nội dung nghiên cứu còn có những hạn
chế nhất định. Nhưng tôi cũng đã cố gắng tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu
công tác chủ nhiệm lớp. Mong rằng còn nhiều giải pháp hay được khám phá, cùng
nhau chia sẻ và phổ biến.
Thời gian viết đề tài hạn chế, mặc dù đã cố gắng nhưng không thể tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong quý thầy cô tham gia góp ý, chỉnh sửa để đề tài này
ngày một hoàn thiện và hữu ích hơn.






MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Phạm vi nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1. Khái niệm Tư vấn học đường 5
2.Vai trò của Tư vấn học đường 5
3. Các nội dung của Tư vấn học đường 6
4. Đối tượng cần tư vấn học đường 6
5. Lực lượng tham gia tư vấn học đường 7
6. Một số yêu cầu trong công tác tư vấn học đường 7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ VẤN HỌC ĐƯỜNG TẠI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN TRỖI 8
1. Một số nét về công tác tư vấn học đường tại trường THPT Nguyễn Văn Trỗi8
2. Những khó khăn và hạn chế trong công tác tư vấn học đường 8
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC TƯ VẤN
HỌC ĐƯỜNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
HỌC SINH TẠI LỚP 10A2 12
1. Tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới 12
2. Quan hệ, giao tiếp, ứng xử với gia đình, giáo viên và bạn bè 13
3. Phương pháp học tập 14
4. Kỹ năng sống 15

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 16
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 20



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm lý – giáo dục cho học sinh
trung học, PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa chủ biên, NXB ĐHQG Hà Nội.
2. Tâm lý trẻ thơ: Từ sơ sinh đến 15, 17 tuổi, Phạm Minh Lăng, NXB Văn
hóa thông tin.
3. Tìm hiểu thế giới tâm lý của tuổi vị thành niên, J.W. Santrock, NXB Phụ
Nữ



PHIẾU THĂM DÒ
Bạn vui lòng khoanh tròn vào phương án trả lời
Câu 1: Bạn có gặp khó khăn trong việc hòa nhập với môi trường học tập mới ở trường
THPT?
A. Rất khó khăn B. Khó khăn C.Hơi khó khăn D. Không khó khăn.
Câu 2: Bạn có thường xuyên đến tư vấn tại Câu lạc bộ Sức khỏe sinh sản vị thành niên
của trường?
A. Rất thường xuyên B. Thường xuyên
C. Không thường xuyên D. Chưa bao giờ.
Câu 3: Bạn có cảm thấy ngại nếu đến Câu lạc bộ tư vấn của trường để nghe tư vấn
không?
A. Có B. Không
Lý do: ……………………………………………………………………………….
Câu 4: Giáo viên chủ nhiệm có thường xuyên tư vấn cho bạn về các vấn đền tình yêu,

tình bạn khác giới, các vấn đền giao tiếp hàng ngày không?
A. Rất thường xuyên B. Thường xuyên
C. Không thường xuyên D. Chưa bao giờ.
Câu 5: Bạn có thường xuyên chia sẻ với giáo viên chủ nhiệm những vướng mắc về tình
bạn, tình yêu, quan hệ giao tiếp hàng ngày không?
A. Rất thường xuyên B Thường xuyên
C.Không thường xuyên D. không bao giờ
Câu 6: Bạn có gặp khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập phù hợp với bản thân
không?
A. Rất khó khăn B. Khó khăn C.Hơi khó khăn D. Không khó khăn.
Câu 7: Giáo viên bộ môn trong lớp bạn có thường xuyên hướng dẫn cho bạn cách học tốt
môn học không?
A. Rất thường xuyên B. Thường xuyên
C. Không thường xuyên D. Chưa bao giờ.
Câu 8: Trong gia đình Cha mẹ bạn thường xuyên quan tâm đến bạn về:
A. Kết quả học tập B. Sự phát triển tâm sinh lý C. Không quan tâm
Câu 9: Hàng ngày, bạn lựa chọn trang phục để mặc theo cách nào?
A. Bắt chước theo thần tượng.
B. Lựa chọn trang phục theo sở thích
C. Bắt chước theo bạn bè và người xung quanh



PHIẾU THĂM DÒ
(Bạn vui lòng khoanh tròn vào phương án trả lời)
Câu 1: Bạn có gặp khó khăn trong việc hòa nhập với môi trường học tập ở trường
THPT?
A. Rất khó khăn B. Khó khăn C.Hơi khó khăn D. Không khó
khăn.
Câu 2: Bạn có thường xuyên chia sẻ với giáo viên chủ nhiệm những vướng mắc về tình

bạn, tình yêu, quan hệ giao tiếp hàng ngày không?
B. Rất thường xuyên B. Thường xuyên
C. Không thường xuyên D. Không bao giờ
Câu 3: Giáo viên chủ nhiệm có thường xuyên tư vấn cho bạn về các vấn đền tình yêu,
tình bạn khác giới, các vấn đền giao tiếp hàng ngày không?
A. Rất thường xuyên B. Thường xuyên
C. Không thường xuyên D. Chưa bao giờ.
Câu 4: Bạn có gặp khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập phù hợp với bản thân
không?
A. Rất khó khăn B. Khó khăn C. Hơi khó khăn D. Không khó khăn.
Câu 5: Giáo viên bộ môn trong lớp bạn có thường xuyên hướng dẫn cho bạn cách học tốt
môn học không?
A. Rất thường xuyên B. Thường xuyên
C. Không thường xuyên D. Chưa bao giờ.
Câu 6: Bạn có vi phạm nội quy học sinh về trang phục, sử dụng tài liệu trong thi, mang
thức ăn lên lầu, nhuộm tóc khác màu đen… không?
A. Vi phạm nhiều B. Có vi phạm
C. Ít vi phạm C. Không vi phạm
Câu 7 : Bạn đánh giá lớp 10A2 là tập thể lớp như thế nào?
A. Rất đoàn kết B. Đoàn kết C. Bình thường D. Không đoàn kết
Câu 8: theo bạn trong học kỳ II, tập thể lớp 10A2 của bạn có nhiều tiến bộ về kết quả
học tập không?
A. Nhiều tiến bộ B. Ít tiến bộ D. Không tiến bộ

×