Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

SKKN Sử dụng phương pháp trò chơi trong môn giáo dục công dân góp phần nâng cao hứng thú học tập cho học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Văn Trỗi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.22 KB, 78 trang )




Trang 1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH HÒA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN VĂN TRỖI




































Năm học 2013 - 2014
Người thực hiện đề tài: Lê Thị Thùy Dương.
Giáo viên Môn Giáo dục công dân.
(Có in đĩa CD kèm theo)


Trang 2
PHẦN ĐÁNH GIÁ



ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CỦA TỔ CHUYÊN MÔN:





XẾP LOẠI (A, B, C):

ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CỦA BAN CHUYÊN MÔN TRƯỜNG:






XẾP LOẠI (A, B, C):


Nha Trang, ngày 25 tháng 05 năm 2014
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Trần Duy Nhụ



Trang 3

MỤC LỤC


Trang
Đặt vấn đề 1
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng nghiên cứu 4
5. Phạm vi nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Thời gian nghiên cứu 5

Giải quyết vấn đề 6
1. Cơ sở lý luận của vấn đề 6
2. Thực trạng của vấn đề 17
3. Xây dựng một số trò chơi trong dạy học môn Giáo dục
công dân lớp 12 34
4. Thực nghiệm sư phạm 53
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 61
Kết luận và kiến nghị 63
Tài liệu thao khảo 66
Phụ lục 67
Phụ lục 1: Phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên giảng dạy
môn Giáo dục công dân lớp 12 67
Phụ lục 2: Phiếu thăm dò ý kiến của học sinh lớp 12 72
Phụ lục 3: Phiếu dự giờ 75
Phụ lục 4: Đề kiểm tra 1 tiết lần 1 năm học 2013 – 2014
của lớp 12C1 và 12C15 (trước tác động) 76
Phụ lục 5: Đề kiểm tra học kỳ 1 năm học 2013 – 2014


Trang 4
của lớp 12C1 và 12C15 (sau tác động) 78
Phụ lục 6: Bảng điểm kiểm tra 1 tiết lần 1 năm học
2013 – 2014 của lớp 12C1 và 12C15 (trước tác động) 85
Phụ lục 7: Bảng điểm kiểm tra học kỳ 1 năm học
2013 – 2014 của lớp 12C1 và 12C15 (trước tác động) 89




Trang 5

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, công tác phổ biến giáo dục pháp luật luôn có vai trò
hết sức quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam – một Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai
trò, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đến công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật dưới rất
nhiều hình thức. Tại Điều 31 – Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước tạo điều
kiện để Công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, ”
Để cụ thể hóa quy định trên, đồng thời khẳng định sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước đối với công tác phổ biến giáo dục trong nhà trường, ngày 07 tháng 01
năm 1998, Thủ Tướng chính phủ ra chỉ thị số 02/1998/CT – TTg nhấn mạnh tầm
quan trọng của môn học pháp luật trong việc góp phần hình thành nhân cách học
sinh, sinh viên – những chủ nhân tương lai của đất nước. Chỉ thị đã nêu:
“Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp đẩy mạnh công
tác giảng dạy pháp luật trong các trường học. Sớm nghiên cứu, hoàn thiện nội
dung chương trình giáo dục pháp luật với tỷ lệ đơn vị học trình hợp lý, biên soạn
sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu môn học pháp luật cho học sinh, sinh viên trong
hệ thống giáo dục quốc dân. Cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và phương
pháp giảng dạy pháp luật cho đội ngũ giáo viên dạy pháp luật trong các trường
học. Phải xác định rõ pháp luật là môn học chính khóa trong mọi cấp học, bậc
học; phải có kiểm tra, tiến tới thi hết môn. Kết quả học tập môn này được xem là
một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá về việc rèn luyện tư cách, đạo đức
của học sinh, sinh viên”
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, với chủ đề: “Công dân với pháp luật” môn
Giáo dục công dân lớp 12 giữ vai trò rất quan trọng. Thông qua các bài học pháp
luật học sinh nhận thức được tầm quan trọng cũng như lợi ích thiết thực của việc
hiểu biết pháp luật, học sinh sẽ hình thành hành vi sống, làm việc theo pháp luật,
biết thế nào quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của bản thân mình chính là

giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục ý thức công dân, ý thức làm người.
Tuy nhiên, trong thực trạng hiện nay, đa số học sinh rất “ngại” học môn
Giáo dục công dân, luôn tỏ ý “né tránh” bộ môn này vì coi đây là môn “phụ”, một
môn học không phục vụ cho việc thi tốt nghiệp, Đại học và Cao đẳng. Các em chỉ
học một cách “đối phó” và “qua loa” Bên cạnh đó, việc giảng dạy môn Giáo
dục công dân ở lớp 12 là rất khác biệt so với các lớp khối 10, khối 11 vì về mặt
kiến thức đa số giáo viên đều cho rằng môn Giáo dục công dân lớp 12 rất “khô
khan” và “khó truyền đạt”, bản thân giáo viên cũng không “am hiểu” nhiều về
pháp luật để có thể giải thích cặn kẽ cho học sinh hiểu sâu mọi vấn đề liên quan


Trang 6
đến pháp luật vì giáo viên không phải là một “luật sư”, có chăng chỉ là những
kiến thức xã hội mà giáo viên đã “từng trải” qua bằng kinh nghiệm bản thân của
mình. Do đó, học sinh lớp 12 rất dễ nhàm chán và ngại học tập bộ môn này
Qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi, tôi thấy rằng: Để đem lại hiệu quả cao
trong giảng dạy các điều luật, nâng cao hứng thú học tập cho học sinh lớp 12
trong việc học tập, tìm hiểu về pháp luật thì việc sử dụng “Phương pháp trò chơi”
là một trong những phương pháp mang lại hiệu quả thiết thực nhất, gây sự chú ý
cho học sinh và đem lại một tiết học hết sức sinh động, lý thú.
Và như chúng ta đã biết, “Phương pháp trò chơi” là sự lựa chọn của rất
nhiều thầy cô trước áp lực thay đổi phương pháp dạy học hiện nay nhằm thu hút
học sinh và đạt mục tiêu bài giảng. Nó là chiếc cầu nối đắc lực, hữu hiệu và tự
nhiên giữa giáo viên và học sinh. Thông qua trò chơi, ý nghĩa của nội dung bài
học được truyền tải đến người nghe một cách nhẹ nhàng nhưng đầy “sâu sắc, dễ
hiểu và dễ nhớ”.
Thông thường con người chỉ nhớ: 10% những gì họ đọc, 20% những gì họ
nghe, 30% những gì họ thấy, 50% những gì họ nghe và thấy, 80% những gì họ
nói, 90% những gì họ nói và làm, tức là khi họ tự khám phá. Vì vậy, nếu người
giáo viên tạo được cảm xúc, sự ham thích thì động cơ và thay đổi của học sinh sẽ

được kích thích, thúc đẩy. Trò chơi không những giúp học sinh gần gũi, cởi mở
với nhau hơn, tăng tính đoàn kết của tập thể mà còn tạo ra sự chú ý của học sinh
đối với nội dung bài giảng, khuyến khích học sinh tiếp thu bài một cách tự nhiên,
không gượng ép và khô cứng. Từ đó, nó thúc đẩy học sinh hành động, áp dụng bài
học vào thực tiễn, giúp học sinh hiểu điều nào nên làm và điều nào không nên làm
trong cuộc sống để góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Từ những kết quả ban đầu, bản thân tôi đã nghiên cứu, chiêm nghiệm về
cách thiết kế và tổ chức trò chơi trong quá trình giảng dạy bộ môn Giáo dục công
dân. Qua các lần ứng dụng phương pháp trò chơi, tôi thấy học sinh rất hứng khởi,
tham gia nhiệt tình, giờ học trở nên nhẹ nhàng, sinh động, học sinh được làm việc
nhiều, được các đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường đánh giá cao, chất lượng
học tập bộ môn cũng không ngừng được nâng lên.
Chính vì điều đó, tôi đã chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp trò chơi trong
môn Giáo dục công dân góp phần nâng cao hứng thú học tập cho học sinh lớp 12
Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi” để nghiên cứu và báo cáo với Hội đồng khoa
học của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Khánh Hòa trong năm học 2013 – 2014 này.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng việc học tập môn Giáo dục công dân của học sinh
lớp 12 tại trường Trung học phổ thông. Thông qua đó, nâng cao hiệu quả phổ biến
giáo dục pháp luật trong việc dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 bằng việc sử
dụng phương pháp trò chơi phù hợp với nội dung của từng bài nhằm làm cho tiết



Trang 7
học bớt khô khan, nặng nề mà trở nên nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn và hiệu quả.
Ngoài ra, còn góp phần rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản của bộ môn
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thiết kế và tổ chức các trò chơi lồng ghép vào nội dung chương trình Giáo
dục công dân lớp 12. Từ đó, sử dụng các trò chơi cho phù hợp trong từng tiết học.

4. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các lớp 12 mà tôi được phân công trực tiếp giảng dạy năm học
2013 – 2014: Lớp 12C1, 12C3, 12C5, 12C7, 12C8, 12C9, 12C10, 12C11, 12C13,
12C15, 12C17 – Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi. Cách thiết kế và tổ chức trò
chơi trong dạy học bộ môn Giáo dục công dân nói riêng và các bộ môn khác nói
chung trong chương trình THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình Sách giáo khoa Giáo dục công dân 12 (Nhà xuất bản Giáo dục,
năm 2011). Sách báo, tạp chí, sách pháp luật, mạng Internet, bài tập tình huống
môn Giáo dục công dân 12, Các bộ câu hỏi trắc nghiệm môn Giáo dục công dân
12, Bài tập tình huống Giáo dục công dân 12, .v.v
6. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa nguồn tài liệu có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 thông qua dự
giờ, thăm lớp năm học 2013 – 2014 để thu thập thông tin liên quan đến việc sử
dụng trò chơi trong dạy và học.
Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket
Xây dựng hai loại Phiếu điều tra dùng cho giáo viên và học sinh để thu thập
thông tin về thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn
Thông qua phỏng vấn giáo viên, học sinh về việc xây dựng, sử dụng trò chơi
trong dạy học; thông quan nhận xét của giáo viên và học sinh về các trò chơi dạy
học trong đề tài đưa ra.
Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm kết quả nghiên cứu, so sánh, đối chiếu với thực trạng, đồng
thời quan sát, điều tra, phỏng vấn học sinh và giáo viên về hiệu quả của việc ứng



Trang 8
dụng các trò chơi dạy học trong môn Giáo dục công dân lớp 12.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Căn cứ vào các sản phẩm nghiên cứu của các tác giả khác, các trò chơi đã
được sử dụng ở các môn học khác và các tài liệu khác để xây dựng các trò chơi dạy
học phù hợp.
Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để xử lý kết quả thu thập được. Phục vụ cho việc
phân tích, đánh giá trong quá trình nghiên cứu.
7. Thời gian nghiên cứu Từ 8/2013 đến tháng 5/2014.



Trang 9
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
a. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở nước ngoài
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, một số nhà khoa học giáo dục Nga như:
P.A.Bexonova, OP.Seina, V.I.Đalia, E.A.Pokrovxki đã đánh giá rất cao vai trò
giáo dục, đặc biệt là tính hấp dẫn của trò chơi dân gian trong việc dạy học.
Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ thống
trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho
khuynh hướng sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn diện cho
trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người Tiệp Khắc I.A.Komenxki (1592 –
1670). Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp với bản chất và
khuynh hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt động trí tuệ nghiêm túc,
là nơi mọi khả năng của trẻ em được phát triển, mở rộng phong phú thêm vốn hiểu

biết. Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là phương tiện phát
triển toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn phải chú ý đến trò chơi
dạy học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn cho trẻ chơi.
Trong nền giáo dục cổ điển, I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện
dạy học. Theo ông, nếu trong một tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp,
biện pháp chơi hoặc tiến hành tiết học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu
cầu, phù hợp với đặc điểm của người học. Và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn
rất nhiều. Ông đã đưa ra hệ thống trò chơi học tập dùng lời như: trò chơi gọi tên,
trò chơi phát triển kỹ năng khái quát tên gọi của cá thể, trò chơi đoán từ trái nghĩa,
điền những từ còn thiếu, .v.v Theo ông, những trò chơi này mang lại cho người
học niềm vui và phát triển năng lực trí tuệ của người học.
Ở trong nước
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò chơi
dạy học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau. Tiêu biểu là các tác giả như
Phan Huỳnh Hoa, Vũ Minh Hồng, Trương Kim Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích
Ngọc đã để tâm nghiên cứu biên soạn một số trò chơi trong học tập. Những hệ
thống trò chơi trong học tập được các tác giả đề cập đến chủ yếu nhằm củng cố
kiến thức phục vụ một số môn học như: hình thành biểu tượng toán sơ đẳng, làm
quen với môi trường xung quanh, rèn các giác quan chú ý, ghi nhớ, phát triển tư
duy và ngôn ngữ cho học sinh… Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát
triển của trò chơi trong học tập, không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển
các chức năng tâm lý chung của người học. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này
cũng chưa đi sâu nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho
quá trình nhận thức của người học.


Trang 10
Tóm lại, điểm qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy từ trước đến nay tuy
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về trò chơi trong dạy và học. Song chưa có
một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy

học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong dạy học nói chung và
đặc biệt là dạy học trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 12 nói riêng.
Mặt khác, qua các lần dự giờ đồng nghiệp tôi thấy nhiều giáo viên có trình
độ chuyên môn giỏi nhưng kĩ năng sư phạm thì chưa được tốt. Môn giáo dục công
dân thường liên quan rất nhiều đến cuộc sống thường ngày, đặc biệt nói đến pháp
luật là nói đến rất nhiều chính sách, chỉ thị, điều luật, .v.v… Nếu giáo viên không
có phương pháp sư phạm tốt thì giờ học sẽ trở nên quá tải, nặng nề, lan man, học
sinh ít được tham gia vào hoạt động học tập. Xuất phát từ thực thế trên, tôi đã
không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Và tôi thấy việc thiết kế và tổ chức trò
chơi trong giảng dạy môn Giáo dục công dân khối 12 có những hiệu quả bước đầu
rất đáng mừng, giúp cho học sinh rất hứng thú trong quá trình học tập, làm cho tiết
học vô cùng sôi động. Đây chính là những cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài: “Sử
dụng phương pháp trò chơi trong môn giáo dục công dân góp phần nâng cao hứng
thú học tập cho học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Văn Trỗi”.
b. Các khái niệm cơ bản
Trò chơi
 Chơi và hoạt động chơi
Chơi là một trong những hoạt động của con người, có mặt trong đời sống
con người ở mọi lứa tuổi, mặc dù hình thức chơi thay đổi khi một người lớn lên,
già đi. Khi chơi, cả người lớn lẫn trẻ em đều say mê, vui vẻ, thoải mái. Đối với
người lớn, hoạt động chơi chiếm một vị trí nhất định trong cuộc sống của họ. Còn
đối với trẻ mẫu giáo, hoạt động chơi là nội dung chính của cuộc sống là hoạt động
chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “chơi”, có thể điểm qua một vài
định nghĩa về “chơi” như sau:
+ “Chơi là hoạt động chỉ nhằm cho vui mà thôi, không có mục đích gì khác”.
+ “Chơi là hoạt động giải trí hoặc nghỉ ngơi”
+ “Chơi là một hoạt động vô tư, người chơi không chú tâm vào một lợi ích thiết
thực nào cả, trong khi chơi các mối quan hệ của con người với tự nhiên với xã hội
được mô phỏng lại, nó mang đến cho người chơi một trạng thái tinh thần vui vẻ,

thoải mái, dễ chịu”
+ “Chơi là kiểu hành vi hoặc hoạt động tự nhiên, tự nguyện, có động cơ thúc đẩy là
những yếu tố bên trong quá trình chơi và chủ thể không nhất thiết theo đuổi những
mục tiêu và lợi ích thực dụng một cách tự giác trong quá trình đó. Bản thân quá
trình chơi có sức cuốn hút tự thân và các yếu tố tâm lý của con người trong khi
chơi nói chung mang tính chất vui đùa, ngẫu hứng, tự do, cởi mở, thư giản, có



Trang 11
khuynh hướng thể nghiệm những tâm trạng hoặc tạo ra sự khuây khỏa cho mình”.
Rõ ràng khó có thể đưa ra một khái niệm chung cho một hiện tượng “chơi”
trong toàn bộ phạm vi hoạt động rộng lớn của con người vì hình thức thể hiện của
hoạt động chơi vô cùng đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức.
Hoạt động chơi là hình thái đặc biệt của sự chơi và chỉ có ở con người. Quá
trình chơi diễn ra ở 2 cấp độ: cấp độ hành vi và cấp độ hoạt động. Với tư cách là
hoạt động, sự chơi diễn ra theo nhu cầu của chủ thể, được điều khiển bởi động cơ
bên trong quá trình chơi. Yếu tố động cơ là căn cứ phân biệt rõ hoạt động chơi với
những dạng hoạt động khác. Hoạt động chơi là dạng chơi có ý thức, cả nội dung
văn hóa xã hội, dựa trên các chức năng tâm lý cấp cao và chỉ có ở người, không có
ở động vật. “Loại hoạt động nào có cấu trúc động cơ nằm trong chính quá trình
hoạt động, đó chính là hoạt động chơi”.
Tóm lại, hoạt động chơi của trẻ em và người lớn đều có cùng bản chất tự
nhiên, ngây thơ, vô tư vì nó là một trường hợp của chơi nhưng đây là dạng chơi ở
người có ý thức, có động cơ xã hội và văn hóa, có nội dung nhận thức, tình cảm,
đạo đức, thẩm mỹ… Hoạt động chơi đương nhiên là chơi nhưng không phải mọi
hiện tượng chơi nào cũng là hoạt động chơi – có nhiều hiện tượng chơi chỉ là hành
vi hay động thái biểu hiện những khả năng và nhu cầu bản năng của cá thể sinh vật
hoặc người.
 Trò chơi

Một số nhà tâm lý – giáo dục học theo trường phái sinh học như K.Gross,
S.Hall, V.Stern cho rằng: Trò chơi là do bản năng quy định, chơi chính là sự giải
tỏa năng lượng dư thừa. Còn G.Piagie cho rằng, trò chơi là hoạt động trí tuệ thuần
túy là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ. Trên quan điểm Macxit,
các nhà khoa học Xô Viết đã khẳng định rằng, trò chơi có nguồn gốc từ lao động
và mang bản chất xã hội. Trò chơi được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác
chủ yếu bằng con đường giáo dục. Còn tác giả Đặng Thành Hưng thì trò chơi là
một thuật ngữ có hai nghĩa khác nhau tương đối xa:
+ Một là, kiểu loại phổ biến của chơi. Nó chính là chơi có luật (tập hợp quy tắc
định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu hành động); có tính cạnh tranh hoặc tính
thách thức đối với người tham gia.
+ Hai là, những thứ công việc được tổ chức và tiến hành dưới hình thức chơi, như:
học bằng chơi, giao tiếp bằng chơi, rèn luyện thân thể dưới hình thức chơi,
Các trò chơi đều có luật lệ, quy tắc, nhiệm vụ, yêu cầu tức là có tổ chức và
thiết kế, nếu không có những thứ đó thì không có trò chơi mà chỉ có sự chơi đơn
giản. Như vậy, trò chơi là tập hợp các yếu tố chơi, có hệ thống và có tổ chức, vì thế
luật hay quy tắc chính là phương tiện tổ chức tập hợp đó.
Tóm lại, trò chơi chính là sự chơi có luật, những hành vi chơi tùy tiện, bất


Trang 12
giác không được gọi là trò chơi.
Trò chơi trong dạy học (gọi tắt là trò chơi dạy học)
Có những quan niệm khác nhau về trò chơi dạy học. Trong lý luận dạy học,
tất cả những trò chơi gắn với việc dạy học như là phương pháp, hình thức tổ chức
và luyện tập, .v.v không tính đến nội dung và tính chất của trò chơi thì đều được
gọi là trò chơi dạy học.
Do những lợi thế của trò chơi có luật được quy định rõ ràng, trò chơi dạy
học còn được hiểu là loại trò chơi có luật, có định hướng đối với sự phát triển trí
tuệ của người học, thường do giáo viên nghĩ ra và dùng nó vào mục đích giáo dục

và dạy học.
Trò chơi dạy học có nguồn gốc trong nền giáo dục dân gian, trong những trò
chơi đầu tiên của mẹ với con, trong các trò vui và những bài hát khôi hài làm cho
đứa trẻ chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó và dùng hình thức đó
để dạy con, những trò chơi đó có chứa đựng các yếu tố dạy học.
Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng, những trò chơi giáo dục được lựa chọn
và sử dụng trực tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các nguyên tắc và
phương pháp dạy học, có chức năng tổ chức, hướng dẫn và động viên học sinh tìm
kiếm và lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện kỹ năng, tích lũy và phát triển các
phương thức hoạt động và hành vi ứng xử xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ, pháp
luật, khoa học, ngôn ngữ, cải thiện và phát triển thể chất, tức là tổ chức và hướng
dẫn quá trình học tập của học sinh khi các em tham gia trò chơi gọi là trò chơi dạy
học.
Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các quan hệ trong trò chơi dạy học được
tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ dạy và học, được định
hướng vào mục tiêu, nội dung học tập.
Trò chơi dạy học được sáng tạo ra và được sử dụng bởi các nhà giáo và
người lớn dựa trên những khuyến nghị của lý luận dạy học, đặc biệt là của lý luận
dạy học các môn học cụ thể. Chúng phản ánh lý thuyết, ý tưởng, mục tiêu của nhà
giáo, là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài bản cứng nhắc
như những giờ học.
Phân loại trò chơi dạy học
Lâu nay chưa có sự nhất quán trong phân loại trò chơi, cũng không rõ
nguyên tắc phân loại. Nếu căn cứ vào ba chức năng nhận thức, biểu cảm hay thái
độ và vận động, trò chơi dạy học có 3 nhóm sau:
 Nhóm 1: Trò chơi phát triển nhận thức
Đó là loại trò chơi đòi hỏi người tham gia phải sử dụng các chức năng nhận
thức, nỗ lực hoạt động nhận thức, thực hiện các hành vi và hành động nhận thức để
tiến hành các nhiệm vụ chơi, hoàn thành các luật và quy tắc chơi, tuân thủ những
yêu cầu và mục đích chơi, nhờ vậy mà cải thiện và phát triển được khả năng nhận




Trang 13
thức, quá trình và kết quả nhận thức của mình. Trò chơi phát triển nhận thức lại
được phân thành một số nhóm nhỏ:
+ Các trò chơi phát triển cảm giác và tri giác: Ví dụ các trò chơi thi xếp hình, ghép
hình theo hình dạng, theo màu sắc; trò chơi nhận dạng các đồ vật, con vật và đối
chiếu các sự vật với mẫu, với vật thật, với mô hình, trò chơi phân biệt các sắc thái
của màu, phân biệt các bộ phận đồng nhất và khác nhau giữa các sự vật; trò chơi
nghe và nhận dạng âm thanh, .v.v
+ Các trò chơi phát triển và rèn luyện trí nhớ: Ví dụ trò chơi kể và tiếp nối các từ
đồng nghĩa, các đồ vật, các con vật, các chữ cái: Trò chơi nhắc lại các âm, các nốt
nhạc, trò chơi nhận dạng lại các hình sau khi quan sát, nhớ lại dãy số, nhớ lại số
lượng hay kích thước của vật, .v.v
+ Các trò chơi phát triển tưởng tượng và tư duy: Ví dụ các môn cờ khác nhau, các
trò chơi xây dựng, lắp ghép mô hình, các trò chơi có vai (phóng tác), phân vai
(theo chủ đề) và đóng kịch ; các trò chơi thi giải đố, thi tính toán, thi với các thực
nghiệm khoa học; các trò chơi thực hiện những thuật toán như xếp đội hình, giải
các bài tập theo chương trình; các trò chơi khoa học vui, .v.v
 Nhóm 2: Trò chơi phát triển các giá trị
Đó là những trò chơi có nội dung văn hóa, xã hội, trong đó các quan hệ chơi
phóng tác hoặc lý tưởng hóa các quan hệ đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, gia đình, xã
hội, chính trị, pháp luật, quân sự hiện thực và các quy luật hay quy tắc chơi được
định hướng vào việc kích thích, khai thác các thái độ, tình cảm tích cực, động viên
ý chí và nhu cầu xã hội, khuyến khích sự phát triển các phẩm chất cá nhân của
người tham gia. Ví dụ: Các trò chơi phân vai theo các chủ đề, các trò chơi đóng
kịch, các trò chơi dân gian có tính chất lễ hội, các trò chơi tập thể có tính chất liên
hoan: Thi nấu cơm, thi kéo co, thi nhảy múa, thi đọc thơ, thi làm thơ; các trò chơi
phóng tác những nghề nghiệp hay quan hệ xã hội Chúng là môi trường giao tiếp

và chia sẻ kinh nghiệm sống, giúp học sinh học và rèn luyện những kỹ năng xã hội,
kỹ năng cộng tác…
Một số trò chơi đòi hỏi khả năng đánh giá sự vật hay hành vi, hành động,
tính cách con người, khả năng giải đáp những tình huống khác nhau.
 Nhóm thứ 3: Trò chơi phát triển vận động
+ Hầu hết các trò chơi thể thao như chơi bóng, đá cầu, mang vác, leo trèo, chạy
nhảy, nhảy dây, đuổi bắt, xếp hình bằng đội ngũ, .v.v
+ Các trò chơi phóng tác có nội dung quân sự, lao động, dịch vụ đòi hỏi phải vận
động thể chất và di chuyển cơ thể.
Các trò chơi phát triển vận động là loại trò chơi được chơi hơi khác những
trò chơi vận động, nó có vi phạm rộng hơn. Trò chơi vận động trực tiếp đòi hỏi các
vận động phải tuân theo luật hay quy tắc, và nội dung chơi chủ yếu là vận động.


Trang 14
Nó đương nhiên có chức năng phát triển vận động. Còn trò chơi phát triển vận
động vừa gồm các trò chơi vận động vừa gồm những trò chơi khác.
Chức năng dạy học của trò chơi
Xây dựng đội chơi: Đó là những trò chơi được sử dụng để cải thiện mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể. Các thành viên sẽ họp
lại thành nhóm và làm việc theo nhóm.
Cải thiện khả năng giao tiếp: Loại trò chơi này được thiết kế và sử dụng để
người chơi thấy được cái họ cần cải thiện trong khả năng giao tiếp. Khi một
chương trình về kỹ năng giao tiếp người chơi cần phải đảm bảo tất cả những gì
mình đưa ra là đúng và những bản nhận xét là một phần quan trọng của trò chơi.
Lời nhận xét phải cụ thể và hướng tới những cách cư xử của từng cá nhân khi giải
quyết vấn đề.
Phát triển kỹ năng thuyết trình: Bao gồm những trò chơi có mục đích giúp
người chơi phát triển khả năng đứng trước đám đông hay kỹ năng thuyết trình.
Trong khi sử dụng các trò chơi để tăng cường kỹ năng thuyết trình, học sinh cần

chớp thời cơ bằng việc thể hiện cá tính của mỗi cá nhân trong nhóm bất cứ khi nào
có thể. Điều này sẽ phát triển các kỹ năng thuyết trình, quan trọng là người thuyết
trình phải đảm bảo những cá nhân đó được để ý và được báo cáo lại bởi các thành
viên khác còn lại trong nhóm. Bằng cách quan sát đơn giản các thành viên trong
đội sẽ nhận ra những điều mà họ cần. Học sinh càng nhìn thấy nhiều phong cách
thuyết trình càng tốt.
Rèn luyện trí nhớ: Các hoạt động đòi hỏi phải tái hiện trong thời gian ngắn
hoặc dài những kinh nghiệm tri giác, thị giác hoặc thính giác. Trí nhớ được trắc
định bằng các trò đố, trong đó phải huy động tri thức từ quá khứ để giải đáp những
câu hỏi đánh đố. Bởi vì trò chơi đố có thể được xây dựng cho tất cả những lĩnh vực
học tập trong nhà trường, nên có thể sử dụng chúng như những biện pháp để giúp
học sinh tập dượt tri thức đã học trước đây và bằng cách đó nâng cao hiệu suất trí
nhớ của các em.
Rèn luyện tính sáng tạo: Hiểu theo nghĩa phát kiến ra một biến thể mới của
hoạt động. Rõ ràng là các kiểu trò chơi khác biệt nhau ở mức độ độc đáo mà nó
khuyến khích hoặc hạn chế. Những phương án khác của trò chơi thích hợp nhất
cho việc kích thích tính sáng tạo là giải trí bằng đồ họa, vẽ tranh, viết truyện, làm
thơ, nghĩ ra các trò đùa, câu đố, mô tả những phát kiến tưởng tượng
Học những kỹ năng phán đoán: Chỉ một loại năng lực lường trước những
dữ liệu của các hành động có thể xảy ra trong tương lai ở trong một tình huống, và
đánh giá những nhân tố nào quyết định xác suất lớn nhất xảy ra điều gì đó.
Học kỹ năng đánh lừa: Chỉ một loại năng lực đánh lạc hướng người khác
bằng cách tỏ ra dự định một hành động này nhưng thực tế lai thực hiện một hành
động khác. Năng lực này là sự mở rộng của năng lực dự đoán các sự kiện, nó đòi
hỏi phải ước định được mình có thể dùng những cử chỉ biểu đạt nào để đánh loại



Trang 15
được các đối thủ, khiến cho họ phán đoán những sai lầm về những hoạt động sau

đó của mình.
Học và rèn luyện hành vi có luật: Có nghĩa là cá nhân hiểu các luật lệ, quy
tắc chi phối hoạt động, tuân theo luật, tôn trọng những thỏa thuận đã nhất trí với
nhau để tránh vi phạm luật và làm theo những gì đã nhất trí. Mọi trò chơi có thể
kích thích những tiến bộ hướng tới những mục tiêu này nhất là trò chơi dạy học.
Học cách làm chủ thái độ đối với thành công và thất bại: Có nghĩa là cá
nhân tán thành những phản ứng được chấp nhận về mặt xã hội trước sự thắng và
bại. Bất cứ hoạt động nào hễ có mục đích vươn tới hoặc có đối thủ để chiến thắng,
đều tạo ra những cơ hội tốt để bồi dưỡng thái độ này.
Cải thiện kỹ năng tự quản: Thông qua các trò chơi cho phép người tham
gia biết được họ có thể cải thiện kỹ thuật tự đánh giá bản thân ở chỗ nào. Ở đây
chúng ta chỉ quan tâm đến việc cải thiện khả năng tổ chức của người tham gia.
Quy tắc sử dụng trò chơi trong dạy học
Xác định rõ mục tiêu dạy học – giáo dục của mỗi trò chơi: cần làm rõ những
gì là nhiệm vụ, quan hệ, nội dung, tình huống chơi và bên cạnh đó những gì là
nhiệm vụ, quan hệ, nội dung, tình huống dạy học – giáo dục.
Trò chơi phóng tác chủ yếu giúp người học nâng cao nhận thức, hiểu sâu
hơn bản chất của vấn đề và cách giải quyết vấn đề mà trong những tình huống
chính thức người học khó hoặc không thể tiếp cận được.
Trò chơi sáng tạo chủ yếu dạy người học cách suy nghĩ, rèn luyện tính năng
động của hành vi, động cơ xã hội trong học tập, tạo ra môi trường áp dụng những
tri thức và tư tưởng.
Trò chơi cần được xem như môi trường hoạt động của người học, để học
chính nội dung của bài học thông qua ứng xử, xử lý, thực hiện, hành động với các
đối tượng, quá trình, quan hệ và tình huống chơi.
Trò chơi phải có quan hệ chặt chẽ với nội dung học tập và nội dung cần
phù hợp với thực tế tổ chức trò chơi.
Chỉ lựa chọn những yếu tố, vấn đề quan trọng, cần thết và thích hợp với
phương thức chơi để đưa vào trò chơi với phán đoán rằng trò chơi sẽ mang lại
hiệu quả cao hơn so với giờ học bài bản.

Trong trò chơi, các vai chơi và các vai trò của người chơi cần được xác định
rõ ràng. Đặc biệt phải tránh làm cho người chơi lẫn lộn vai chơi trong các trò chơi
phân vai đóng kịch và một số trò chơi phóng tác với vai trò hoạt động của họ trong
việc thực hiện nhiệm vụ học tập, vai trò trách nhiệm đối với công việc trong quá
trình chơi.
Khi đề ra các giải pháp hay kết luận về những vấn đề, tình huống phóng tác,


Trang 16
cần tránh tuyệt đối hóa hoàn cảnh chơi mà phải tìm cách đưa ra những liên hệ, biến
cố dữ liệu của đời sống thực tế vào nhằm tạo ra sự gần gũi giữa tình huống chơi và
tình huống thật.
Trong quá trình chơi, chỉ cho phép một số học sinh tham gia hành động,
nhập vai chơi, còn số học sinh kia quan sát học tập, sau đó đảo lại vai trò. Không
thể đưa tất cả học sinh vào tình huống chơi và biến trò chơi thành trò giải trí đơn
thuần.
Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo để có khả năng giải đáp những thắc mắc của
học sinh, hướng dẫn và điều chỉnh quá trình chơi, tổ chức tổng thể trò chơi theo
đúng thể loại đặc thù của nó.
Các quy luật và quy tắc chơi cần tự nhiên đến mức cao nhất, tránh gò bó và
được người học hiểu rõ, chấp nhận trước khi tiến hành trò chơi. Cần có sự thảo
luận và tổng kết sau trò chơi về 2 điều: nội dung và mục tiêu học tập đạt đến đâu,
người học học được cái gì bổ ích theo yêu cầu dạy học và ngoài yêu cầu dạy học;
xử lí tương tác nhóm và rút kinh nghiệm về tổ chức, trách nhiệm cá nhân của
người học trong hoạt động.
Thảo luận sau trò chơi cần được kết hợp với giao bài tập, nhiện vụ về nhà và
bước chuẩn bị cho việc học tập tiếp sau. Trong lúc giao bài tập về nhà, giáo viên
nên đặt ra những câu hỏi về hoạt động của học sinh, kết quả và nguyên nhân dẫn
các em đến kết quả đó, những ý tưởng và sáng kiến của học sinh trong quá trình
chơi.

Giáo viên cần sử dụng một số biện pháp và hình thức đánh giá kết quả và
hành vi học tập của học sinh trong các điều kiện của trò chơi và những hoạt động
khác nhau dưới hình thức chơi. Điều đó giúp giáo viên thu được thông tin ngược
cả cho việc dạy học nói chung lẫn cho việc tổ chức hướng dẫn các trò chơi sau này
hiệu quả hơn.
c. Tác dụng của việc sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học
Tổ chức trò chơi trong giờ học giúp cho tiết học nhẹ nhàng, không khô khan,
nhàm chán mà trở nên khá lý thú. Học tập của học sinh không chỉ là quá trình tiếp
thu kiến thức, nó liên quan đến thực hành, hợp tác, làm việc tập thể theo tổ nhóm
hơn là ganh đua cá nhân. Qua đó, giúp các em học sinh khắc sâu kiến thức đã học;
bày tỏ được thái độ của mình; biết noi theo những tấm gương tốt, thực hiện tốt đạo
đức và tuân theo pháp luật; rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử và xử lý
tình huống trong thực tế cuộc sống.
Trò chơi được sử dụng hợp lý sẽ giúp cho học sinh lĩnh hội tri thức trong tất
cả các khâu của quá trình dạy học, gây hứng thú học tập đối với môn Giáo dục
công dân, làm cho những kiến thức học sinh tự chiếm lĩnh ngày càng sâu sắc hơn.
Đăc biệt thông qua trò chơi học sinh có thể tự tìm tòi, nghiên cứu, rèn luyện tri
thức trong quá trình học tập ngoài giờ lên lớp. Nếu nhóm học sinh nào đó quen với
không khí trầm, các em có thể ít hào hứng, hoặc tỏ ra miễn cưỡng lúc đầu. Nhưng



Trang 17
trò chơi bao giờ cũng mang bản chất lôi cuốn hấp dẫn với mọi đối tượng, nó
khuyến khích mức độ tập trung công việc thực sự cũng như kích thích niềm ham
mê đối với bài học.
Trò chơi có tác dụng hòa đồng sâu rộng và thu hút mức độ tập trung của học
sinh. Hơn thế nữa, mối quan tâm và hoạt động của học sinh thể hiện qua các tiết
học có trò chơi làm nảy sinh tình cảm của các em đối với môn học. Do vậy chúng
ta hãy mạnh dạn và cố gắng áp dụng trò chơi trong dạy học nói chung và trong quá

trình dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 nói riêng.
2. Thực trạng
a. Sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học Giáo dục công dân lớp
12 có cần thiết hay không?
Như chúng ta đã biết, hiện nay, xu hướng những kẻ phạm tội ở tuổi vị thành
niên ngày càng nhiều. Điều này làm dấy lên những lo lắng trong dư luận xã hội.
Chính những nhận thức, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, mơ hồ đã dẫn đến ý
thức chấp hành pháp luật chưa tốt, thậm chí có những hành vi coi thường pháp
luật. Chỉ đến khi bị các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý thì mọi sự đã muộn,
những hậu quả đáng tiếc đã xảy ra, những kẻ phạm tội ở tuổi vị thành niên phải
lao vào vòng lao lý để trả giá cho những hành vi sai trái của mình
Ở bậc học trung học phổ thông, tâm – sinh lý của học sinh đã có nhiều thay
đổi, quan niệm của người xưa về lứa tuổi này cho rằng “tuổi mười bảy là tuổi bẻ
gãy sừng trâu”, tức là ở lứa tuổi này, với tâm lý muốn thể hiện, khẳng định mình
đã là “người lớn” nên các em rất dễ có những hành động bộc phát, nông nổi. Việc
trang bị những kiến thức, hiểu biết pháp luật cho học sinh ở bậc học này vì thế rất
là cần thiết.
Tuy nhiên, trên thực tế, công tác giáo dục pháp luật cho học sinh ở bậc
THPT vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn. Mặc dù nhiều kiến thức
pháp luật quan trọng, gần gũi với cuộc sống đã được đưa vào chương trình môn
Giáo dục công dân lớp 12 để học sinh học tập, nhưng trong suy nghĩ của không ít
học sinh hiện nay thì môn Giáo dục công dân “chẳng là gì cả”, “học chỉ thêm
mệt”, Bên cạnh đó, môn Giáo dục công dân lại là môn không thi tốt nghiệp và thi
đại học nên học sinh thường xem đây là một môn “phụ”, thường không mấy quan
tâm, không bao giờ đọc sách giáo khoa, thường xuyên không học bài cũ, Đây là
những tình trạng này hết sức phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay.
Những kiến thức về pháp luật vốn trừu tượng, có tính khái quát cao nên cần
những hình thức tuyên truyền sinh động, linh hoạt để người học dễ tiếp thu. Tuy
nhiên, một số giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân chưa thật sự đầu tư cho
môn học này, tình trạng thầy đọc, trò chép – một cách học truyền thống vẫn còn

tiếp diễn hàng ngày, học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Chính vì thế,
tiết học trở nên nặng nề, kém hiệu quả.


Trang 18
Do không tiếp thu được những kiến thức cần thiết, cơ bản về pháp luật,
nhiều hành vi vi phạm của học sinh, nhất là ở những học sinh lớp cuối cấp của bậc
trung học phổ thông vẫn diễn ra “như cơm bữa”. Tình trạng học sinh vi phạm luật
lệ giao thông luôn có chiều hướng tăng. Tại các cổng trường vào thời điểm trước
và sau mỗi buổi học, không khó để nhìn thấy cảnh tượng học sinh tụ tập đông đúc
gây ách tắc, cản trở giao thông. Nhiều học sinh còn đi xe đạp dàn hàng ba, hàng
bốn, hàng năm khi đi trên đường; nhiều học sinh còn đi xe máy đến trường khi
trong người không có giấy phép lái xe hoặc không đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên
xe máy; tình trạng học sinh bỏ học, trốn tiết, la cà tụ tập chơi game bạo lực từ đó
dẫn đến trộm cắp, đánh nhau, .v.v vẫn thường xuyên xuất hiện. Có không ít học
sinh đã phải bỏ dở chuyện học hành, thậm chí bị xử lý trước pháp luật bởi những
hành vi bộc phát, nông nổi bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật.
Từ thực trạng trên cho thấy công tác phổ biến giáo dục pháp luật chưa được
chú trọng. Vì vậy, cần phải có những hình thức truyền đạt sinh động, dễ tiếp thu
như việc sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học, tuyên truyền pháp luật thì
học sinh mới hứng thú trong quá trình học tập, từ đó giúp các em hiểu rõ hơn và
chấp hành đúng các quy định của pháp luật, trở thành những người có ích cho xã
hội và cho bản thân.
b. Thực trạng sử dụng trò chơi trong giảng dạy môn Giáo dục công dân
lớp 12 tại trường THPT Nguyễn Văn Trỗi
Để khảo sát thực trạng sử dụng trò chơi trong dạy học môn Giáo dục công
dân lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Văn Trỗi, tôi đã tiến hành khảo sát với các đối
tượng khảo sát là: 4 giáo viên đang giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 12 và
200 học sinh khối 12. Mục đích: xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các trò
chơi và biện pháp khi sử dụng trò chơi trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp

12 ở trường THPT Nguyễn Văn Trỗi.
Nội dung khảo sát:
+ Nhận thức của học sinh về việc xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy học môn
Giáo dục công dân lớp 12.
+ Nhận thức của giáo viên về vai trò, tác dụng của việc sử dụng trò chơi trong dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 12.
+ Thực trạng xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Giáo dục công dân
lớp 12 của giáo viên.
+ Những thuận lợi và khó khăn khi xây dựng trò chơi trong dạy học môn Giáo dục
công dân lớp 12.
Phương pháp khảo sát: Bằng phương pháp quan sát (thông qua dự giờ, thăm
lớp), điều tra bằng phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp giáo viên, học sinh; tổng kết
kinh nghiệm của giáo viên để thu thập thông tin về thực trạng nghiên cứu, thống kê
toán học (dùng để xử lý số liệu thu thập được)…



Trang 19
Chọn mẫu khảo sát: 4 giáo viên đang giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp
12 và 200 học sinh khối 12.
Thời gian khảo sát: tháng 9 và tháng 10 năm 2013.
Kết quả khảo sát:
 Thứ nhất, về nhận thức của học sinh về việc xây dựng và sử dụng trò
chơi trong dạy học môn Giáo dục công dân.
Qua 11 câu hỏi đóng và 3 câu hỏi mở (phụ lục 2), kết quả hỏi ý kiến 200 học
sinh cho thấy: 50% số học sinh cho rằng giáo viên không bao giờ sử dụng trò chơi
trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12, 35% ý kiến học sinh cho là ít khi
giáo viên sử dụng trò chơi, còn lại 15% học sinh cho là bình thường (câu hỏi 2).
85% số học sinh khẳng định việc xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy học môn
giáo dục công dân là cần thiết, 13% cho là rất cần thiết, chỉ có 2% là không cần

thiết (câu hỏi 4).
Về hứng thú của học sinh đối với các hình thức và phương pháp dạy học
môn Giáo dục công dân lớp 12 của giáo viên (câu hỏi 1). Kết quả khảo sát như sau:

Phương pháp và hình thức
Số lượng (học sinh)

Tỷ lệ
Thuyết trình (không đặt câu hỏi) 0 0
Đàm thoại (đặt câu hỏi để học sinh trả lời) 45 22.5
Thảo luận nhóm và báo cáo kết quả 45 22.5
Kết hợp vừa dạy thuyết trình vừa đặt câu hỏi 150 75
Sử dụng trò chơi trong dạy học 178 89
Hình thức khác 0 0
Bảng 1 – Nhận thức của học sinh về hình thức và phương pháp dạy học môn
Giáo dục công dân lớp 12 của giáo viên










Trang 20
Hình 1 – Hứng thú của học sinh đối với phương pháp và hình thức
trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 của giáo viên
Với câu hỏi 9 (phụ lục 2) về hứng thú của học sinh đối với các loại trò chơi

dạy học trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 được học sinh cho ý kiến thể
hiện qua bảng 2.
Loại trò chơi Số lượng (Học sinh)

Tỷ lệ (%)

Trò chơi phát triển nhận thức

96

48

Trò chơi phát triển các giá trị

24

12

Trò chơi phát triển vận động
0

0

Ý kiến khác
100
Giáo viên chưa tổ chức

50

Bảng 2 – Hứng thú của học sinh với các loại trò chơi trong

dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12.
Nhìn vào kết quả khảo sát chúng ta thấy có 96 học sinh đạt tỷ lệ 48% ý kiến
cho rằng các em thích giáo viên xây dựng theo kiểu trò chơi phát triển nhận thức
để rèn luyện trí nhớ, phát triển tư duy và tưởng tượng. 12% ý kiến học sinh cho
rằng giáo viên nên xây dựng kiểu trò chơi phát triển các giá trị về thái độ, cảm xúc,
tình cảm, ý chí. Không có ý kiến nào thích giáo viên xây dựng trò chơi phát triển
vận động. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta thấy có đến 50% ý kiến khác vì cho rằng
giáo viên chưa tổ chức trò chơi nên các em chưa thể khẳng định mình sẽ có hứng
thú với loại trò chơi nào.
 Thứ hai, về nhận thức của giáo viên về vai trò, tác dụng của trò chơi
trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12
Qua phân tích số liệu thu được từ ý kiến trả lời 11 câu hỏi dành cho giáo
viên (phụ lục 2), tôi thấy rằng: 100% giáo viên khẳng định sử dụng trò chơi trong
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 là cần thiết (câu hỏi 1).
Về tác dụng của việc sử dụng câu hỏi trên lớp với 5 mức độ đánh giá quy
ước là: 1. Hoàn toàn không có tác dụng; 2. Không tác dụng lắm; 3. Bình thường; 4.
Tác dụng; 5. Rất có tác dụng (câu hỏi 2), ý kiến của giáo viên thể hiện trên bảng 3.
Giáo viên dạy GDCD lớp 12
Các tác dụng
5 (%)

4 (%)

3 (%)

2 (%)

1 (%)

Tập trung sự chú ý của học sinh 25 75 0 0 0

Hình thành không khí vui vẻ,
hứng khởi trong học tập
75 25 0 0 0
Học sinh hiểu và nắm kiến thức 25 50 25 0 0



Trang 21

sâu hơn
Hình thành cảm xúc, động cơ,
hứng thú học tập
50 50 0 0 0
Rèn kỹ năng tương tác, phối
hợp giải quyết nhiệm vụ học
tập giữa học sinh với học sinh
0 75 25 0 0
Nâng cao tương tác giáo viên –
học sinh trong dạy học
25 50 25 0 0
Rèn luyện cho học sinh kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng ứng xử
trong học tập

25
75 0 0 0
Phát triển tư duy sáng tạo, tìm
cái mới của học sinh
0 50 50 0 0
Bảng 3 – Giáo viên nhận định về tác dụng của việc sử dụng trò chơi.

Nhìn vào bảng kết quả cho chúng ta thấy có
3
/
4
(chiếm 75%) ý kiến giáo
viên cho rằng trò chơi rất có tác dụng hình thành không khí vui vẻ, hứng khởi
trong học tập cho học sinh và 25% ý kiến giáo viên cũng cho rằng rất có tác dụng
trong việc tập trung sự chú ý của học sinh, giúp học sinh hiểu và nắm kiến thức sâu
hơn, nâng cao sự tương tác giữa giáo viên và học sinh trong dạy học đồng thời rèn
luyện cho học sinh kỹ năng làm việc nhóm và rèn trí nhớ cho học sinh ở câu hỏi
tập trung sự chú ý của học sinh, rèn kỹ năng tương tác, phối hợp giải quyết nhiệm
vụ giữa học sinh với học sinh và rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm việc nhóm, có
3
/
4
giáo viên (chiếm 75%) ý kiến cho rằng có tác dụng và cũng có 50% ý kiến giáo
viên cho rằng có tác dụng giúp học sinh hiểu và nắm kiến thức sâu hơn, hình thành
động cơ hứng thú học tập, nâng cao tương tác giữa giáo viên – học sinh trong dạy
học và phát triển tư duy sáng tạo, tìm tòi cái mới của học sinh. Tuy nhiên, số lượng
ý kiến lựa chọn tác dụng “bình thường” của trò chơi đối với việc giúp học sinh
hiểu và nắm kiến thức sâu hơn, rèn kỹ năng tương tác phối hợp giải quyết nhiệm
vụ giữa học sinh với học sinh nâng cao tương tác giữa giáo viên và học sinh trong
dạy học cũng chiếm tỷ lệ là 25%.
Đặc biệt có 50% ý kiến giáo viên cho rằng trò chơi chỉ có tác dụng bình thường đối
với việc rèn luyện trí nhớ của học sinh và phát triển tư duy sáng tạo, tìm cái mới
của học sinh. Không có ý kiến giáo viên cho rằng việc sử dụng trò chơi trong dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 12 là không có tác dụng lắm và hoàn toàn không
có tác dụng.
Qua đây, tôi cho rằng: nhận thức của giáo viên về tác dụng của việc sử dụng
trò chơi đối với quá trình dạy học là rất phù hợp.

 Thứ ba, về thực trạng xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học trong dạy


Trang 22
học môn Giáo dục công dân.
Về căn cứ để giáo viên xây dựng và sử dụng trò chơi (câu hỏi 8) kết quả
điều tra thu được:
+ 100% giáo viên căn cứ vào nội dung học tập, mục đích sử dụng trò chơi chủ yếu
hướng vào việc giúp học sinh lĩnh hội nội dung mới là hoàn toàn hợp lý. Có 75% ý
kiến căn cứ vào số lượng của học sinh, căn cứ vào trình độ hiểu biết của học sinh
để tổ chức trò chơi.
+ 50% số học sinh căn cứ vào diễn biến không khí học tập, vào các khâu của quá
trình lên lớp. Điều đó cho thấy họ phải xây dựng các trò chơi một cách linh hoạt
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên, các
căn cứ này cũng dễ gây cho giáo viên những hạn chế nhất định vì số lượng học
sinh tương đối đông.
+ Có 25% ý kiến giáo viên cho rằng căn cứ vào hình thức và phương pháp học tập.
Ý kiến giáo viên
Các căn cứ
Số lượng (Học sinh) Tỷ lệ (%)

Căn cứ vào các khâu của quá trình dạy học 1 25
Căn cứ vào nội dung học 4 100
Căn cứ vào hình thức và phương pháp học tập 1 25
Căn cứ vào số lượng của học sinh 1 lớp 2 50
Căn cứ vào không khí học tập của lớp học 3 75
Căn cứ vào trình độ hiểu biết của học sinh 2 50
Căn cứ vào diễn biến trong quá trình dạy học 2 50
Bảng 4 – Căn cứ xây dựng và sử dụng trò chơi của giáo viên.
+ Đánh giá của học sinh về tần số sử dụng trò chơi của giáo viên trong dạy học

môn Giáo dục công dân lớp 12(câu hỏi 10), kết quả điều tra thể hiện trên hình 2.




Trang 23
Hình 2 – Tần số sử dụng trò chơi của giáo viên theo đánh giá của học sinh.


60% số học sinh cho rằng giáo viên không bao giờ sử dụng trò chơi trong
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12, còn 20% ý kiến học sinh cho rằng việc sử
dụng trò chơi của giáo viên là quá ít, và 8% là ít, bên cạnh đó có 10% học sinh cho
là vừa phải, hợp lý. Tuy nhiên, cũng có tỷ lệ học sinh cho là giáo viên sử dụng trò
chơi quá nhiều và nhiều là 1%, phần nào phản ánh sự không đồng đều về mức độ
sử dụng trò chơi của các giáo viên, nó cũng phản ánh cả tính tích cực hay thụ động
của học sinh trong quá trình học tập.
+ Kiến nghị của học sinh về mức độ trò chơi mà giáo viên nên sử dụng trong dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 12: Qua ý kiến trả lời câu hỏi số 11 (phụ lục 2)
của học sinh, tình hình thực tế thể hiện trên bảng 5.

Mức độ Số lượng (học sinh)

Tỷ lệ(%)
Không sử dụng
1

0.5

1 tiết / 2 tiết
0


0

Cả 2 tiết
0

0

Linh động theo nội dung dạy học
199

99.5

Ý kiến khác
0

0

Bảng 5 – Mức độ sử dụng trò chơi hợp lý trong giờ học môn
Giáo dục công dân theo ý kiến của học sinh.
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy có 99.5% ý kiến học sinh cho rằng giáo
viên nên tổ chức trò chơi linh động theo nội dung dạy học, chỉ có 0.5% học sinh
cho rằng không cần sử dụng trò chơi và không có học sinh nào yêu cầu giáo viên tổ
chức 1 đến 2 tiết hoặc cả 2 tiết chỉ sử dụng một trò chơi duy nhất.

 Thứ tư, về nhận thức của giáo viên về mức độ sử dụng trò chơi trong
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12
+ Về tần số sử dụng trò chơi (câu hỏi 4, phụ lục 1) giáo viên tự nhận xét lựa chọn 2
phương án là thỉnh thoảng và ít khi như nhau (50%).
+ Về mức độ phân bổ thời gian sử dụng trò chơi trong dạy học môn Giáo dục công

dân lớp 12(câu hỏi 5, phụ lục 1) nhận xét của giáo viên thể hiện bảng 6.
Giáo viên
Mức độ
Số lượng (Học sinh)

Tỷ lệ (%)



Trang 24
Không sử dụng
0

0

1 đến 2 tiết
0

0

Cả 2 tiết
0

0

Linh động theo nội dung dạy học
4

100


Bảng 6 – Mức độ phân bổ thời gian sử dụng trò chơi trong dạy học môn Giáo
dục công dân lớp 12 do giáo viên nhận xét.
100% ý kiến giáo viên đều cho rằng giáo viên nên sử dụng trò chơi linh
động theo nội dung dạy học không có ý kiến giáo viên nào cho rằng không sử
dụng, hay sử dụng 1 đến 2 tiết hoặc cả 2 tiết.
+ Về mức độ sử dụng các loại trò chơi trong dạy học môn Giáo dục công
dân lớp 12 theo đánh giá của giáo viên: Với câu hỏi 7 (phụ lục 1) có 50% ý kiến
giáo viên cho rằng họ thường xuyên tổ chức các trò chơi phát triển nhận thức và
25% ý kiến giáo viên tổ chức trò chơi phát triển các giá trị. Bên cạnh đó, cũng có 2
giáo viên chiếm tỷ lệ 50% cho rằng ít khi giáo viên tổ chức các loại trò chơi phát
triển nhận thức và 75% ý kiến cho rằng ít khi giáo viên tổ chức trò chơi phát triển
các giá trị. 100% giáo viên chưa tổ chức trò chơi phát triển vận động cho học sinh
tham gia.
 Thứ năm, về thực trạng tiếp nhận và giải quyết trò chơi trong dạy học
môn Giáo dục công dân lớp 12 trên lớp của học sinh.
+ Đánh giá của học sinh: Học sinh tự nhận định thái độ của mình khi tiếp nhận trò
chơi của giáo viên (câu hỏi 5, phụ lục 2) như trên bảng 7. Thái độ tiếp nhận trò
chơi của học sinh phản ánh tác dụng tích cực hóa của trò chơi trong quá trình dạy
học khác nhau đối với những học sinh khác nhau.

Thái độ Số lượng (Học sinh) Tỷ lệ (%)

Rất thích
80

40

Thích
5


2.5

Bình thường
10

5

Căng thẳng, mệt mỏi, sợ bị gọi

4

2

Uể oải, chán nản
1

0.5

Không quan tâm
0 0
Ý kiến khác
100
Giáo viên chưa tổ chức
50
Bảng 7 – Thái độ của học sinh khi tham gia trò chơi.



Trang 25
Thái độ tích cực của học sinh khi tham gia trò chơi rất thích chiếm tỷ lệ

40%, 2.5% ý kiến học sinh cho rằng thích và 5% cho là bình thường khi tham gia
trò chơi. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng sợ bị
gọi là 2% và uể oải chán nản là 0.5%. Đặc biệt hơn có 50% ý kiến học sinh cho
rằng giáo viên chưa tổ chức trò chơi nên họ không bày tỏ được thái độ của mình
khi tiếp nhận trò chơi của giáo viên.
+ Cách xử sự của học sinh khi tiếp nhận trò chơi của giáo viên (câu hỏi 6, phụ
lục 2) thể hiện ở bảng 8.
Hoạt động của Học sinh
Số lượng (Học sinh)

Tỷ lệ (%)

Suy nghĩ và thực hiện theo yêu cầu
94

47

Suy nghĩ vấn đề nhưng không tự giác tham gia

5

2.5

Không quan tâm, không tham gia
1

0.5

Ý kiến khác
100

Giáo viên chưa tổ chức

50
Bảng 8 – Học sinh ứng xử với trò chơi khi giáo viên tổ chức
Khi tiếp nhận trò chơi của giáo viên, có 94 học sinh (chiếm 47%) ý kiến cho
rằng phải suy nghĩ và thực hiện theo yêu cầu, 2.5% ý kiến cho rằng suy nghĩ vấn
đề nhưng không tự giác tham gia và không quan tâm, không tham gia chiếm tỷ lệ
0.5%. Bên cạnh đó, có 50% học sinh cho rằng giáo viên chưa tổ chức nên tôi chưa
thu được hết tín hiệu ngược từ phía học sinh khi giáo viên tổ chức trò chơi dạy học.
Như vậy, chúng ta vẫn còn có học sinh khi giáo viên tổ chức trò chơi cho
các em vẫn có suy nghĩ nhưng rất e ngại tham gia vì các em mắc phải tâm lý e dè,
sợ hãi và ngại ngùng lẫn nhau. Đây là những học sinh học tập rất thụ động và luôn
tìm cách “đối phó” với các yêu cầu của giáo viên. Đối với những học sinh này
trong quá trình dạy học, giáo viên phải chú ý nhiều hơn, phải động viên, khuyến
khích các em tham gia vào hoạt động của tập thể.
Thái độ tiếp nhận và giải quyết trò chơi của học sinh một phần phụ thuộc
vào cách tổ chức trò chơi của giáo viên. Để khảo sát vấn đề này, tôi tiến hành dự
giờ, phỏng vấn và sử dụng câu hỏi 8 (câu hỏi 8, phụ lục 2). Kết quả thu được như
trên hình 4. Đánh giá của học sinh về mức độ khó trong các trò chơi đã được giáo
viên xây dựng và sử dụng.

×