PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hiện nay các nước trên thế giới nói chung và các nước láng giềng nói riêng đã
và đang thực hiện quá trình hội nhập kinh tế, mở của kinh kinh với bên ngoài
trên thế giới để nhằm tăng cường phát triển kinh tế trong nước. Nước
CHDCND Lào cũng là một nước đang thực hiện việc hội nhập và mở cưa
kinh tế (ước tính là cuối năm 2008 này Lào sẽ vào WTO ). Muốn được nhưng
vậy cần phải phát triển thương mại trong nước cho thật tốt thay vì việc đuổi
theo các nước đã phát triển, phải phát hiện những vấn đề còn tồn tại và và xây
dựng biện pháp khác phục nhưng tồn tại đó, khai thác và phát triển những thế
mạnh của mình để nâng cao hiệu quả việc hội nhập.
Theo nghị định của Đại hội Đảng lần thứ VIII của nước CHDCND Lào đã
quy định là nước CHDCND Lào sẽ tăng cường vấn đề xoá đói giảm nghèo,
đến năm 2015 thu nhập bình quân đầu người phải đạt 800 USD/người, xây
dựng đất nước để đạt được nước công nghiệp hoá hiện đại hoá trong năm
2020 . Vậy Thương mại là rất quan trọng trong việc góp phần xây dựng đất
nước trong thời kỳ đổi mới. Cho nên việc thực hiện tốt chiến lược phát triển
thương mại sẽ mang lại hiệu quả tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội…
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
* Làm rõ các cơ sở lý luận, phương pháp luận về thực hiện chiến lược phát
triển thương mại của Lào trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
* Phân tích , đánh giá thực trạng việc thực hiện chiến lược phát triển thương
mại của Lào trong giai đoạn 2001 - 2007.
* Kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược phát
triển của nước CHDCND Lào trong giai đoạn 2008-2010
1
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng: Nghiên cứu tình hình thực hiện chiến lược thương mại của nước
CHDCND Lào
* Phạm vi
- Theo thời gian : Nghiên cứu thương mại của nước CHDCND Lào từ năm
2001 đến nay và nghiên cứu chiến lược thương mại từ nay đến năm 2010
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sẽ được nghiên cứu theo phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp
thống kê, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp chuyên gia, điều tra
phân tích thông tin…
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI
- Về mặt lý luận: Tiếp cận khảo cứu và trình bày những vấn đề lý luận về phát
triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân.
- Về mặt thực tiễn: Phân tích và đưa ra những đánh giá tổng hợp về hiện trạng
của hoạt động thương mại của CHDCND Lào.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển thương
mại của Lào từ nay đến 2010.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Gồm có 3 chương
Chương I: Chiến lược phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân và sự
cần thiết phân tích tình hình thực hiện chiến lược.
Chương II: Phân tích thực trạng thực hiện chiến lược phát triển thương mại
của nước CHDCND Lào 2001 - 2007
Chương III: Giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển thương
mại của nước CHDCND Lào giai đoạn 2008 đến 2010
2
CHƯƠNG I
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
1.1 Khái quát về chiến lược phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc
dân.
1.1.1 Quan niệm về chiến lược phát triển thương mại.
Khái niệm chiến lược được sử dụng khá phổ biến trong hầu hết các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế cả tầm vĩ mô và tầm vi mô: Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển dân số, chiến lược phát triển khoa học
công nghệ, chiến lược phát triển ngành, chiến lược phát triển vùng kinh tế
trọng điểm, chiến lược bảo vệ môi trường, chiến lược kinh doanh, chiến lược
tiêu thụ sản phẩm, chiến lược cạnh tranh, chiến lược Marketing…
- Alfred Chandler (thuộc Đại học Harvard) cho rằng: Chiến lược phát
triển bao hàm việc ấn định các mục tiêu cơ bản dài hạn của một tổ chức, một
ngành, một lĩnh vực nhất định đồng thời lựa chọn cách thức hoặc tiến
trình hành động và phân bố các nguồn lực thiết yếu để thực hiện các mục tiêu
đó trong khoảng thời gian nhất định. Đây là một khái niệm được dùng phổ
biến nhất hiện nay.
- Theo ông James. B. Quin (thuộc Đại học Dartmouth) : Chiến lược là
một dạng thức hoạc một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính
sách và các trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau. Chiến
lược là nghệ thuật phối hợp các hành động và điều khiển chúng nhằm đạt
được mục tiêu dài hạn.
- Theo quan niểm của Alain Thretart thì chiến lược được xem như một
nghệ thuật mà người ta dùng để chống lại cạnh tranh giành thắng lợi, một
nghệ thuật tạo lập các lợi thế cạnh tranh.
3
- A.C.Martinet quan niệm rằng : Chiến lược là nhằm phác hoạ những quỹ
đạo tiến triển đủ vững chắc và lâu dài, chung quanh quỹ đạo đó có thể sắp đặt
những hành động chính xác để đạt tới mục tiêu.
- D.Bizzell và nhóm tác giả cho rằng: Chiến lược như là kế hoạch tổng
quát dẫn dắt và hướng một tổ chức, một doanh nghiệp, một ngành, một lĩnh
vực đi đến mục tiêu mong muốn. Nó là cơ sở cho việc định ra các chính sách
và các thủ pháp tác nghiệp.
- M.Porter cho rằng: Chiến lược là nghệ thuật xây dựng các lợi thế cạnh
tranh vững chắc để phòng thủ.
- Trong giáo trình nổi tiếng của Willam.J.Glueck (Búiness Policy and
Stratergic Management- New York: Mc Graw- Hill, 1980) thì chiến lược được
coi như một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp,
được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu căn bản của một tổ chức được
thực hiện.
- Giao trình Quản trịdoanh nghiệp thương mại do PGS.TS. NGUYỄN
THỪA LỘC chủ biên: “Chiến lược kinh doanh là định hướng hoạt động có
mục tiêu của doanh nghiệp cho một thời kỳ dài và hệ thống các chính sách,
biện pháp điều kiện để thực hiện các mục tiêu đề ra”
Tuy có nhều quan điểm khác nhau về chiến lược, nhưng các nhà nghiên cứu
đều thống nhất với nhau ở những đặc điểm và nội dung của chiến lược nói
chung. Đó là định hướng hoạt động cho một ngành, một lĩnh vực nào đó trong
thời kỳ dài hạn, với hệ thống các chương trình mục tiêu và hệ thống các giải
pháp chiến lược, nhằm huy động có hiệu quả mọi nguồn lực để thực hiện các
mục tiêu đã đề ra.
Từ những tư tương trên, chung ta có thể rút ra được quan điểm về chiến lược
như sau:
Chiến lược phát triển của một ngành, một lĩnh vực nhất định được hiểu là
kết quả của một quá trình nghiên cứu các môi trường hiện tại cũng như tương
4
lai, nhằm hoạch định hướng đi, nhằm phát triển của ngành của lĩnh vực trong
một khoảng thời gian khá dài, với mục tiêu, giải pháp chiến lược và các
phương án cần đạt tới cũng như các điều kiện cần thiết để có thể tổ chức thực
hiện được các phương án hiệu quả nhất trong điều kiện hiện nay cũng như
tương lai.
Giữa chiến lược phát triển với kế hoạch và chính sách phát triển có sự khác
nhau cần phân biệt:
Môt là: Chién lược được phát triển biểu hiện tầm nhìn dài hạn về quan điểm,
mục tiêu, định hướng và giải pháp. Chiến lược định hướng cho kế hoạch.
Hai là: Đứng về mặt thời gian, chiến lược phát triển phải đi trước một bước
so với kế hoạch, chiến lược là cơ sở cho kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Kế
hoạch được xây dựng và tổ chức thực hiện trên cơ sở các mục tiêu của chiến
lược.
Ba là: So với chính sách thì chiến lược phát triển có phạm vi rộng hơn, chính
sách là một công cụ để thực hiện chiến lược nhằm đạt tới mục tiêu của chiến
lược phát triển.
Chiến lược phát triển có những đặc trưng sau đây cần phải tính đến trong quá
trình xây dựng:
- Chiến lược phát triển không phải là một bản thuyết trình chung chung, mà
nó được thể hiện bằng những quan điểm mục tiêu phát triển cụ thể và giải
pháp mang tính chiến lược.
- Chiến lược phát triển phải bảo đảm các nguyên tắc: định hướng, lựa chọn,
khoa học và thực tiễn.
- Chiến lược phát triển không vạch ra một cách cụ thể làm thế nào để đạt được
mục tiêu mà chỉ ra hướng phát triển của ngành, của đơn vị với những giải
pháp chiến lược cho một khoảng thời gian dài hoặc tương đối dài (thường là
10 năm trở lên).
5
1.1.2 Hệ thống chiến lược phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc
dân.
Là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát
triển thương mại mang đầy đủ những đặc tính chung của một chiến lược như:
tính định hướng, tính lựa chọn, tính khoa học và tính thực tiễn. Song hoạt
động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, chiến lược phát triển thương mại
trước hết là chiến lược cấp ngành, định hướng cho sự phát triển của thương
mại.
Thương mại hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên
thị trường, đó là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích thu được lợi nhuận, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá.
Thương mại ra đời do sự phân công lao động xã hội và gắn liền với quá trình
tái sản xuất xã hội. Ngành thương mại là ngành độc lập có vị trí đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thương mại có những chức năng nhiệm vụ
như sau: Tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá dịch vụ trong nước với nước
ngoài, tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông, thực hiện giá trị của
hàng hoá - dịch vụ, đồng thời đáp ứng tốt mọi nhu cầu của sản xuất kinh
doanh và đời sống. Do đó chiến lược phát triển thương mại có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá - dịch vụ của một quốc
gia trong một khoảng thời gian tương đối dài. Để có hướng đi và bước đi
thích hợp cho sự phát triển của thương mại, thì bất kể trong phạm vi toàn nền
kinh tế quốc dân hay phạm vi một doanh nghiệp, chiến lược phát triển thương
mại cũng phải thể hiện được các mục tiêu của mình. Bên cạnh hệ thống mục
tiêu phải có, thì điều quan trọng hơn của chiến lược chính là các giải pháp,
biện pháp nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu phát
triển. Qua những phân tích trên cho thấy rõ bản chất của chiến lược phát triển
thương mại:
6
Chiến lược phát triển thương mại là định hướng cho sự phát triển của thương
mại trong một thời kỳ dài hoặc tương đối dài với các quan điẻm, mục tiêu và
các giải pháp chủ yếu nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, nhằm đẩy mạnh phát triển thương mại với nhịp độ ngày càng cao.
Theo quy mô và phạm vi hoạt động thương mại khác nhau, hình thành các
loại chiến lược phát triển thương mại khác nhau trong nền kinh tế quốc dân
như:
- Chiến lược phát triển thương mại chung cả nước.
Chiến lược này do Bộ Thương Mại xây dựng và do Chính phủ phê duyệt, thể
hiện những quan điểm phát triển chung của các ngành thương mại, những
mục tiêu tổng quát và các giải pháp chiến lược ở các cấp vĩ mô. Chiến lược
phát triển chung ở tầm quốc gia bao gồm chiến lược phát triển thương mại nội
địa và chiến lược phát triển xuất nhập khẩu.
- Chiến lược phát triển thương mại vùng lãnh thổ.
Đây là bộ phận rất quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế vùng lãnh
thổ do Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ Thương mại và các địa phương thuộc vùng
lãnh thổ phối hợp nghiên cứu xây dựng. Chiến lược này dựa vào định hướng
chung về phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ và chiến lược phát triển
thương mại của cả nước trên cơ sở khai thác những lợi thế của vùng để xây
dựng.
- chiến lược phát triển thương mại của tỉnh, thành phố.
Chiến lược phát triển của Tỉnh, Thành phố là do Sở Thương mại của Tỉnh,
Thành phố đó nghiên cứu, xây dựng và được chủ tịch Tỉnh phê duyệt. Chiến
lược này là bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh,
thành phố.
- Chiến lược phát triển thương mại của doanh nghiệp.
Chiến lược này do chính doanh nghiệp xây dựng và tổ chức thực hiện. Nó
xác định rõ mục đích, hướng đi của doanh nghiệp, mặt khác nó cũng bao gồm
7
các giải pháp cơ bản để đạt được mục tiêu chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.1.3 Vai trò và những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển thương
mại trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.3.1 Vai trò của chiến lược phát triển thương mại.
A: Vai trò của thương mại trong nền kinh tế quốc dân:
Thương mại có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế trong thời kỳ hội
nhập:
- Tạo điều kiện cơ bản cần thiết cho sản xuất và thúc đẩy hoạt động sản xuất
của vùng lãnh thổ.
Hoạt động thương mại cung cấp dịch vụ và các yếu tố đầu vào của sản xuất,
đảm bảo cho các quá trình sản xuất và tái sản xuất có thể diễn ra thường
xuyên, liên tục. Như việc cung cấp vật tư, phân bón, giống cho sản xuất nông
– lâm nghiệp hoặc nguyên liệu, phương tiện và thiết bị công nghệ - kỹ thuật
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của vùng lãnh thổ.
Đảm bảo đầu ra của sản xuất kinh doanh như bảo quản cất giữ, vận chuyển và
tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của vùng. Đồng thời phục vụ cho các hoạt động
giao lưu, trao đổi hàng hoá nói chung.
Sự tác động tổng hợp và đồng bộ của hoạt động thương mại trong việc cung
cấp dịch vụ đầu vào, đầu ra của sản xuất không chỉ đảm bảo hoạt động sản
xuất kinh doanh trong vùng diễn ra một cách thuận lợi và không bị ách tắc mà
còn dẫn tới sự tăng cường và mở rộng của hoạt động sản xuất kinh doanh với
quy mô, năng suất và hiệu quả cao hơn.
Trong điều kiện công nghiệp hoá và cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thì
vai trò của thương mại trong vùng lãnh thổ cũng trở nên quan trọng hợn.
Chúng vừa là tiền đề vừa là cầu nối cho việc triển khai các thành tựu khoa học
- kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Điều đó không những làm tăng năng suất lao
động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng mà còn dẫn tới những thay đổi
8
trong cơ cấu, tính chất và trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội ở vùng
lãnh thổ.
- Tác động mạnh mẽ và tích cực đến quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất và
chuyển dich cơ cấu kinh tế - xã hội.
Thông qua việc đảm bảo các điều kiện cơ bản cần thiết cho sản xuất và thúc
đẩy sản xuất phát triển thì thương mại cũng đồng thời tác động mạnh mẽ đến
quá trình làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế - xã hội của vùng.
Trước hết việc mở rộng hoạt động thương mại, không chỉ tạo điều kiện cho
việc thâm canh mở rộng diện tích và tăng năng suất sản lượng cây trồng mà
còn dẫn tới quá trình đa dạng hoá nền nông nghiệp, với những thay đổi rất lớn
về cơ cấu sử dụng đất đai, mùa vụ, cơ cấu các loại cây trồng cũng như cơ cấu
lao động và sự phân bố các nguồn lực khác trong nông nghiệp của vùng.
Ở phần lớn các nước nông nghiệp lạc hậu hoặc trong dai đoạn đầu quá độ
nông, công nghiệp. Trong điều kiện có sự tác động của thị trường nói chung
các loại cây trồng và vật nuôi có giá trị cao hơn đã thay thế cho các loại có giá
trị thấp hơn. Đây cũng là thực tế đang diễn ra trên nhiều vùng lãnh thổ ở nước
CHDCND Lào hiện nay.
Hai là thương mại tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác (ngoài nông nghiệp) như công nghiệp, tiêu thụ công
nghiệp, khai thác, chế biến, vận tải. Hoạt động thương mại tạo điều kiện cho
thị trường đầu vào và đầu ra của các lĩnh vực hoạt động trên được bảo đảm tốt
hơn. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu cho phép nhiều cơ sở sản xuất,
dịch vụ đổi mới công nghệ kỹ thuật, mở rộng qui mô và nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Do vậy nguồn vốn, vật tư, lao động đầu tư vào lĩnh vực
phi công nghiệp cũng như thu nhập từ các hoạt động này ngày càng gia tăng.
Mặt khác trong quá trình hoạt động kết cấu hạ tầng cơ sở kinh doanh cũng đòi
hỏi phải đầu tư ngày càng nhiều để đảm bảo cho hoạt động thương mại được
thông suất. Tất cả những tác động đó dẫn tới sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu
9
kinh tế của vùng. Trong đó sự dịch chuyển theo xu hướng công nghiệp hoá
thể hiện khá rõ nét và phổ biến.
- Tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường vùng, thúc đẩy sản xuất và lưu
thông hàng hoá phát triển.
Trong khi cung cấp các yếu tố đầu vào và tổ chức tốt đầu ra cho sản xuất
trong vùng thì thương mại cũng đồng thời làm quan hệ giao lưu, trao đổi
trong vùng được mở rộng.
Sự phát triển của hệ thống chợ, trung tâm thương mại và mạng lưới thương
nghiệp làm cho khả năng trao đổi thực tế của hàng hoá tăng lên. Một mặt sản
phẩm từ các cơ sở sản xuất của vùng có thể nhanh chóng đưa ra thị trường.
Mặt khác các loại vật tư, nguyên liệu, hàng công nghiệp, hàng tiêu dùng ở các
vùng khác nhau có điều kiện thuận lợi hơn sẽ vươn tới làm thay đổi tập quán
và nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong vùng.
Tóm lại vai trò thương mại trong hệ thống kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ
nói riêng và của cả nước nói chung là hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn
đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội. Vai
trò của chúng cũng thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn trong điều kiện công nghiệp
hoá, chuyển nền kinh tế sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hoá và kinh tế thị
trường.
B. Vai trò của chiến lược phát triển thương mại:
- Giúp cho tỉnh, thành phố thấy được mục tiêu hướng đi của lĩnh vực thương
mại trên địa bàn trong khoảng thời gian dài. Thông qua chiến lược phát triển
thương mại các cấp, các ngành, cũng như các doanh nghiệp thương mại nắm
vững được mình cần phải làm gì để thành công và khi nào thì đạt được mục
tiêu đã định. Như vậy chiến lược phát triển thương mại được ví như con
đường, những ngọn hải đăng dẫn dắt các chủ thể quản lý và các nhà kinh
doanh thương mại không bị lạc hướng trong hoạt động của mình trong một
phạm vi tương đối rộng với một khoảng thời gian tương đối dài.
10
- Chiến lược thương mại sẽ loại trừ được ở mức độ nào đó những bất trắc,
những thay đổi lớn, những mạo hiểm cao trong lĩnh vực thương mại.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, môi trường thương mại luôn luôn
biến đổi một cách nhanh chóng do tác động của nhiều yếu tố như: Kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán cho đến điều kiện tự nhiên…
Điều đó dẫn đến hai xu hướng khác nhau, một là có thể tạo ra những cơ hội
quý báu cho các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng và có hiệu quả, mặt
khác cũng có thể tạo ra nguy cơ phá sản cho các doanh nghiệp hoặc thiệt hại
to lớn cho quá trình phát triển thương mại. Chiến lược thương mại một khi
mang tính khoa học và thực tiễn cao sẽ giúp cho chúng ta tận dụng được tối
đa khi cơ hội xuất hiện và giảm bớt đến mức tối thiểu những tổn thất rủi ro
cho sự phát triển của thương mại. Thực tế nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy ở đâu xây dựng được chiến lực đúng đắn thì ở đó thường đạt được kết
quả tốt hơn nhiều so với khi không có chiến lược. Nhờ có chiến lược mà vấn
đề cơ cấu lại sản xuất, đầu tư và phân bố nguồn lực ít bị rủi ro hơn và nguy cơ
phá sản cũng được giảm bớt. Do chuẩn bị tốt các điều kiện từ trước, nên một
khi cơ hội xuất hiện thì khả năng cạnh tranh sẽ tốt hơn so với khi chưa có
chuẩn bị. Đồng thời khi xây dựng và thực hiện chiến lược, người ta có thể chủ
động tạo ra các điều kiện để thời cơ xuất hiện và sử dụng chúng để đạt được
mục tiêu.
- Giúp cho các nhà quản lý thương mại chủ động thích nghi được với môi
trường kinh doanh.
Trong kinh tế thị trường, môi trường trong và ngoài nước thường xuyên biến
động. Những thay đổi nhanh chóng của thị trường sẽ tạo ra các cơ hội và
nguy cơ cho hoạt động thương mại. Chiến lược phát triển thương mại giúp
cho các nhà quản lý vĩ mô chủ động nhận biết trước các thách thức và cơ hội.
Mặt khác cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện chiến lược phát
11
triển thương mại sẽ giúp cho các tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp gắn
được các quyết định của mình với các điều kiện môi trường có liên quan.
Thực tế chứng minh rằng, sự biến động và tính đa dạng phức tạp của môi
trường kinh doanh thương mại ngày càng gia tăng theo sự phát triển của nền
kinh tế. Điều đó hơn bao giờ hết đòi hỏi phải có được một chiến lược phát
triển thương mại tối ưu để chủ động đưa ra các quyết định đối phó với từng
môi trường kinh doanh, làm chủ diễn biến tình hình, nâng cao hiệu quả và
quản lý kinh doanh thương mại.
- Tạo điều kiện để mọi nguồn tiềm ẩn được sử dụng và phát huy trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước.
Những nguồn lực bên trong và bên ngoài của các vùng cũng như bên trọng
và bên ngoài ngành thương mại được khai thác tận dụng có hiệu quả hơn. Vì
chiến lược sẽ chỉ rõ khi nào sẽ tập trung các nguồn lực, tích luỹ các nguồn lực
ra sao và phân bổ như thế nào là hợp lý. Sự cân đối giữa nhu cầu và khả năng
nguồn lực trong một khoảng thời gian tương đối dài sẽ cho phép chủ động sử
dụng hoặc đầu tư tạo nguồn lực mới trong tương lai.
- Là một trong những căn cứu khoa học để xây dựng và thực hiện các chính
sách, biện pháp quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh, thành phố và
của cả nước:
Những điều kiện về môi trường thường xuyên thay đổi sẽ đưa đến những
diễn biến phức tạp của hoạt động thương trong tương lai, thông qua chiến
lược các cơ quan quản lý vĩ mô về thương mại có thể chủ động được với các
quyết sách của mình. Những chủ trương, chính sách, biện pháp được chủ
động dựa trên những dự báo dài hạn sẽ làm cho thay đổi các điều kiện để thực
hiện các mục tiêu đề ra. Đồng thời nhờ dự báo chiến lược, các nhà quản lý và
hoạch định chính sách thương mại sẽ tìm ra được các phương án lựa chọn của
mình bằng cách tránh những bất lợi rủi ro đã dự báo trước và chuẩn bị tốt hơn
12
để tận dụng được cơ hội tiềm tàng khi xuất hiện. Những dụ báo và định
hướng dài hạn trong chiến lược phát triển thương mại là cơ sở khoa học cho
các chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển thương mại.
- Tạo điều kiện làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá, năng động, có hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội:
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên đây, trong quá trình xây dựng và
thực thi chiến lược cũng cần phải chú ý đến những hạn chế của chiến lược
để có biện pháp khác phục.
+ Một trong những hạn chế chủ yếu là để xây dựng chiến lược cần phải có
nhiều thời gian và kinh phí. Tuy nhiên khi đã có kinh nghiệm về quá trình
xây dựng chiến lược thì thời gian sẽ được giảm bớt, chi phí sẽ được tiết
kiệm hơn. Do đó khâu chuẩn bị cho hoạch định chiến lược có vai trò đặc
biệt quan trọng.
+ Chiến lược sau khi được xây dựng, được phê duyệt nếu không có sự sửa
đổi cho phù hợp với tình hình mới sẽ trở thành vật cản cho sự phát triển
của thương mại. Thật vậy, coi chiến lược như một sự bất di, bất dịch với
những chỉ tiêu cứng nhắc là một sai lầm nghiêm trọng. Bởi vì chiến lược
không thể bất di, bất dịch khi điều kiện môi trường thường xuyên biến đổi
và tình thế bắt buộc phải điều chỉnh mục tiêu hoặc xây dựng mục tiêu mới.
Coi chiến lược là bất biến mà không tính đến thực tế khi triển khai chiến
lược sẽ là giáo điều và dẫn tới những hậu quả tai hại.
+ Hạn chế thứ ba là khả năng sai sót trong dự báo dài hạn đôi khi có thể rất
lớn. Những cơ sở cho dự báo có khi không chính xác; hoặc sử dụng những
biện pháp dự báo thiếu khoa học, không đúng đắn; trình độ và năng lực
của những người làm chiến lược còn bị hạn chế.
1.1.3.2 Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển thương mại.
13
1.1.3.2.1. Hệ thống quan điểm trong chiến lược thương mại:
Quan điểm phát triển thương mại có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn vì đó là cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng và hành động, chi phối
cả mục tiêu, định hướng và giải pháp chiến lược. Chính nhờ hệ thống quan
điểm trong chiến lược phát triển thương mại đã tạo ra cơ sở cho sự thống nhất
về ý chí và hành động của mọi ngành mọi cấp, mọi đơn vị kinh tế trong nước.
Các quan điểm phát triển thương mại đúng đắn sẽ là phương châm cho việc
xây dựng các chính sách, các giải pháp, biện pháp phát triển thương mại. Qua
đó tập trung mọi nỗ lực theo một hướng xác định nhằm đạt được mục tiêu
trong xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển thương mại của cả nước.
1.1.3.2.2. Các mục tiêu chiến lược phát triển thương mại:
Mục tiêu phát triển thương mại là sự cụ thể hoá mục đích, hướng đi,
hướng phát triển cho cả nước trong một thời gian dài, nó thể hiện kỳ vọng
mà chiến lược phát triển thương mại muốn đạt được trong tương lai cũng
như phản ánh trạng thái mong đợi có thể thực hiện và cần phải thực hiện tại
một thời điểm hoặc sau một thời kỳ nhất định. Hệ thống mục tiêu chiến lược
phát triển thương mại được xác định một cách đúng đắn và hợp lý, sẽ là căn
cứ và định hướng cho các nội dung khác của chiến lược. Chính vì vậy bước
xác định mục tiêu chiến lược là rất quan trọng. Hơn nữa các mục tiêu chiến
lược còn là căn cứ để đánh giá và điều chỉnh chiến lược.
Trong phạm vi cả nước cũng như trong tỉnh, thành phố hệ thống mục tiêu
chiến lược phát triển thương mại có vai trò quan trọng trên các mặt sau đây:
- Định hướng sự phát triển của tỉnh, thành phố trong khoảng thời gian dài
(10 hoặc 20 năm).
- Dựa trên thị trường mục tiêu để tiến hành phân bổ các nguồn lực thực
hiện.
- Căn cứ để xác định và lựa chọn các phương án phát triển thương mại của
quốc gia hoặc tỉnh, thành phố.
14
- Căn cứ để xây dựng và thực hiện các chiến lược về đầu tư phát triển, đào
tạo và sử dụng nguồn nhân lực, huy động và sử dụng nguồn vốn…
Các mục tiêu chiến lược tác động đến chiến lược tuỳ theo mục đích và ý đồ
mong muốn đạt được. Mục đích khác nhau sẽ dẫn tới mục tiêu khác nhau và
sự tác động đến hoạt động thương mại cũng khác nhau.
Cần có sụ phân biệt giữa mục tiêu chiến lược với dự đoán chiến lược trong
chiến lược phát triển thương mại của tỉnh, thành phố. Dự đoán chiến lược
được xem như sự chỉ dẫn những nội dung có thể đạt được trong quá trình phát
triển thương mại trong tương lai có tính đến sự phát triển trong quá khứ.
Chúng dựa trên sự tính toán nhất định và biểu hiện một xu hướng nào đó.
Trong khi đó mục tiêu chiến lược thể hiện ý chí chủ quan muốn vươn lên của
tỉnh, thành phố trong quá trình phát triển thương mại, thể hiện cái cần phải đạt
được trong lĩnh vực thương mại. Mục tiêu chiến lược buộc các cấp các đơn vị
quản lý và kinh doanh phải đi đến chỗ năng động hơn, tự nguyện hơn và có tổ
chức hơn.
Tuỳ theo phạm vi bao quát, các mục tiêu chiến lược phát triển thương mại
thường được sắp xếp thành mục tiêu tổng quát (mục tiêu chung) và các mục
tiêu cụ thể. Mục tiêu tổng quát có ảnh hưởng sâu sắc đến hướng phát triển cơ
bản về thương mại của nước hoặc vùng và tỉnh, thành phố đó. Mục tiêu cụ thể
phản ánh các mặt khác nhau của quá trình phát triển thương mại như: Mục
tiêu hiệu quả thương mại tổng hợp ( tốc độ tăng trưởng trong thương mại,
hiệu quả kinh doanh trong thương mại…), mục tiêu về nguồn lực (nguồn vật
tư hàng hoá, nguồn nhân lực, nguồn tài chính…). Thông qua hệ thống kế
hoạch dài hạn và ngăn hạn các mục tiêu chiến lược về hậu quả hoặc nguồn lực
lại được cụ thể hoá một lần nữa. Nói cách khác, các mục tiêu riêng biệt theo
chức năng và lĩnh vực được dùng để thiết lập các kế hoạch thực thi chiến lược
ở các lĩnh vực riêng biệt. Mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể có quan hệ
15
chặt chẽ với nhau, kết nối với nhau làm kết dính các bộ phận chiến lược trong
một tổng thể chiến lược phát triển chung về thương mại.
Theo phạm vi thời gian thực hiện chiến lược phát triển thương mại có thể
chia thành ba nhóm lớn:
- Mục tiêu dài hạn: Là những mục tiêu đòi hỏi phải thực hiện trong một
quảng thời gian tương đối dài, thường từ 10 đến 20 năm, quyết định
hướng đi, hướng phát triển của ngành thương mại trong tương lai.
- Mục tiêu trung hạn: là những mục tiêu nằm trong khoảng thời gian ngắn
hơn, thường là từ 3-5 năm.
- Mục tiêu ngắn hạn: là những mục tiêu hàng năm, chúng thường gắn liền
với các quyết định chiến thuật và tác nghiệp, nên thường rất cụ thể và
mang tính định lượng cao.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển thương mại,
cũng có thể phân loại các mục tiêu chiến lược thành mục tiêu định tính và
mục tiêu định lượng.
- Mục tiêu định tính là những mục tiêu biểu hiện dưới dạng xu hướng, tính
chất, không lượng hoá được bằng các con số cụ thể. Chúng thường gắn
liền với những vấn đề có tính chất phức tạp, khó có thể định lượng được.
- Mục tiêu định lượng là những mục tiêu được biểu hiện bằng các con số
cụ thể, có thể đo lường được bằng các công cụ khác nhau.
Giữa mục tiêu định tính và mục tiêu định lượng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, bổ xung cho nhau để phản ánh đầy đủ sự phát triển của thương mại
trong thời kỳ chiến lược.
1.1.3.2.3 Các phương án chiến lược phát triển thương mại.
Phương án chiến lược phát triển thương mại có thể hiểu là tập hợp ý đồ,
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển thương mại với các giải pháp để thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ đó trong một khoảng thời gian nhất định nhằm phát
triển thương mại của cả nước đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
16
Ý đồ thương mại thể hiện tư tượng, chỉ đạo trọng chiến lược, thể hiện sự
mong muốn phát triển thương mại thông qua việc tổ chức các quá trình
sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Thông thường ý đồ
ít khi biểu hiện bằng lời trong phương án, nhưng chúng có vai trò chủ
đạo đối với việc xác định nội dung của phương án. Ý đồ phát triển
thương mại nẩy sinh nhờ: truyền thống phát triển thương mại, sự giao
dịch, tiếp xúc với thị trường và quá trình tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo…
Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển thương mại là sự cụ thể hoá ý đồ phát triển
thương mại, phản ánh thông qua các chỉ tiêu của phương án phát triển
thương mại. Biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển thương
mại được hình thành thông qua quá trình phân tích, xác định, lựa chọn
phương án. Yếu tố thời gian trong phương án kinh doanh chủ yếu phụ
thuộc vào yêu cầu của thị trường cũng như vào sự biến đổi của các yếu tố
ảnh hưởng ở bên trong hoặc bên ngoài.
Phương án phát triển thương mại và chiến lược phát triển thương mại có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Chiến lược phát triển phác thảo một tầm nhìn
trong sự phát triển thương mại, còn phương án phát triển đưa ra cụ thể
các vẫn đề về mục tiêu, nhiệm vụ, bước đi và giải pháp. Phương án phát
triển thương mại còn có liên quan chặt chẽ với những dự án đầu tư phát
triển thương mại. Trên cơ sở của những phương án phát triển thương mại
tiến hành xây dựng các dự án đầu tư về lĩnh vực thương mại.
1.1.3.2.4 Các kế hoạch hỗ trợ để thực hiện chiến lược phát triển thương
mại.
Cùng với những nội dung khác, trong chiến lược phát triển thương mại còn
có một hệ thống các kế hoạch hỗ trợ (kế hoạch điều kiện) để thực hiện mục
tiêu chiến lược. Các kế hoạch hỗ trợ được lập ra trên cơ sở các mục tiêu và
chỉ tiêu của chiến lược phát triển thương mại. Hệ thống các chương trình,
các kế hoạch hỗ trợ phản ánh việc huy động và sử dụng các nguồn lực về vật
17
tư, lao động và tiền vốn phục vụ cho quá trình phát triển thương mại. Do đó
việc xây dựng các kế hoạch nó đòi hỏi phải sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, muốn vậy các kế hoạch hỗ trợ phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
1. Phải lấy mục tiêu chiến lược phát triển thương mại làm căn cứ xác định,
tạo mọi điều kiện về vật chất để thực hiện được các chiến lược phát triển
thương mại.
2. Phải được xác định trên cơ sở khai thác mọi khả năng, tiềm năng; sử
dụng có hiệu quả các nguồn vật tư, lao động, tiền vốn; nghiên cứu ứng
dụng những thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới và trong
nước phù hợp với điều kiện cụ thể, thực tế trong nước.
3. Các kế hoạch hỗ trợ phải đảm bảo sự cân đối giữa các yếu tố, cân đối
trong nội bộ từng yếu tố nhằm tạo tiền đề cho việc sử dụng hợp lý có
hiệu quả các nguồn lực.
4. Khi xây dựng các kế hoạch hỗ trợ, không chỉ chú trọng tới các chỉ tiêu số
lượng mà còn phải chú trọng đến các chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu thời
gian và chỉ tiêu đồng bộ.
Các kế hoạch hỗ trợ được lập ra phản ánh những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Phản ánh toàn bộ nhu cầu vật tư, lao động, tiền vốn cần phải có để thực
hiện các hoạt động thương mại trong thời kỳ chiến lược. Nhu cầu về nguồn
lực nói trên được xác định trên cơ sở khối lượng hoạt động thương mại cần
phải thực thi và định mức tiêu hao để thực hiện một khối lượng công việc
hoạt động thương mại. Việc phản ánh chính xác nội dung này có ý nghĩa đặc
biệt, quan trọng trong quá trình bảo đảm những yếu tố vật chất để thực hiện
các chỉ tiêu chiến lược phát triển thương mại.
+ Phản ánh toàn bộ các nguồn về vật tư, lao động tiền vốn và việc sử dụng
các nguồn lực đó để thoả mãn các nhu cầu nói trên. Nhằm động viên đầy đủ,
kịp thời mọi nguồn lực cho thực hiện chiến lược phát triển thương mại, cần
18
khai thác tối đa nguồn lực của mình, khả năng của mình trên mọi phương
diện để có thể biến những mục tiêu của chiến lược trở thành hiện thực.
1.1.3.2.5 Các giải pháp nhằm thực hiện chiến lược.
Những giải pháp phát triển thương mại có thể xem như một hệ thống các
phương pháp, cách thức sử dụng công cụ thích hợp mà nước đó sẽ áp dụng
tốt nhất các nguồn lực nhằm điều chỉnh các hoạt động thương mại và đạt
được những mục tiêu đề ra trong chiến lược.
Những giải pháp phát triển thương mại được coi như một trong các yếu tố
cấu thành của chiến lược phát triển thương mại, chúng có tác dụng to lớn
trong việc mở rộng, giao lưu hàng hoá trong nước với nhau và với nước
ngoài thông qua việc xuất-nhập khẩu. Mặt khác, về mặt nội dung chúng có
thể thay đổi qua các thời kỳ, song đều có mục đích chung là đẩy mạnh hoạt
động thương mại theo hướng phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, xây dựng nền thương mại phát triển lành
mạnh trong trật tự kỷ cương kinh doanh theo đúng pháp luật.
Hoạt động thương mại là hoạt động mang tính liên ngành và có tính xã hội
hoá cao, liên quan đến nhiều vẫn đề, nhiều lĩnh vực; do đó cần phải xây
dựng và hình thành một hệ thống các giải pháp phát triển thương mại mang
tính đồng bộ và mang tính thống nhất như: Giải pháp về phát triển và mở
rộng thị trường hàng hoá, giải pháp huy động và phát triển nguồn nhân lực,
nguồn vốn cho hoạt động thương mại, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành thương mại.
1.2 Phương pháp phân tích tình hình thực hiện chiến lược phát triển
thương mại.
Chất lượng của chiến lược phát triển thương mại phụ thuộc rất nhiều vào quá
trình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động thương mại.
Bởi vậy, phương pháp phân tích có vai trò đặc biệt quan trọng và thường
19
xuyên được sử dụng trong quá trình xây dựng thực hiện chiến lược phát triển
thương mại ở mọi cấp quản lý chiến lược.
Phân tích quá trình hoạt động thương mại ở góc độ chung nhất được hiểu là
việc phân chia các nhân tố, các hiện tượng, các quá trình và các kết quả kinh
doanh thương mại thành nhiều bộ phận cấu thành, để trên cơ sở đó bằng các
phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu, tổng hợp… nhằm rút ra tính quy luật
và xu hướng vận động phát triển của hoạt động thương mại. Những kết luận
rút ra qua phân tích sẽ là cơ sở khoa học cho xây dựng các chỉ tiêu, các giải
pháp của chiến lược phát triển thương mại.
Những nội dung cần phân tích trên đây được xem xét cả ở góc độ định tính
và định lượng bằng các phương pháp phân tích chủ yếu như sau:
1.2.1 Phân tích chi tiết.
Mọi hoạt động thương mại đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hướng
khác nhau. Thông thường trong phân tích có thể chi tiết theo từng nhân tố, chi
tiết theo từng bộ phận cấu thành các chỉ tiêu, chi tiết theo thời gian, chi tiết
theo địa điểm… Sự chi tiết như vậy sẽ giúp ích rất nhiều cho việc đánh giá
chính xác đối tượng cần nghiên cứu trên mọi kía cạnh.
1.2.2 Phân tích so sánh.
So sánh cũng là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để biết
được giữa những kết quả thực hiện chiến lược so với kế hoạch đã đặt ra. Để
so sánh cần phải sác định mốc so sánh, điều kiện so sánh và mục tiêu so sánh.
So sánh về thời gian và không gian thường được sử dụng trong phân tích, tuy
nhiên để so sánh được, cần phải bảo đảm tính thống nhất về nội dung kinh tế
và về phương pháp tính toán.
1.2.3 Phân tích tổng hợp.
Quá trình phân tích không chỉ dừng ở việc phân tích từng yếu tố riêng lẻ mà
phải phân tích một cách có hệ thống trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ của
các yếu tố môi trường với nhau. Trong thực tế, mọi kết quả hoạt động thương
20
mại đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận do đó để
thực hiện các mối liên hệ, như vậy cần phải sử dụng các phương pháp tổng
hợp, nhằm chỉ ra kết quả chung nhất của việc thực hiện chiến lược phát triển
thương mại trong dai đoạn qua.
1.3Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chiến lược phát
triển thương mại.
Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến xây dựng và thực hiện chiến lược
phát triển thương mại không phải buộc chúng phải theo ý muốn chủ quan của
các nhà hoạch định chiến lược mà nhằm tạo ra khả năng thích ứng một cách
tốt nhất. Vậy cần phải phân tích có hệ thống những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động thương mại. Mỗi nhân tố tác động đến hoạt động thương mại ở mức độ
và chiều hướng khác nhau. Để hiểu rõ các yếu tố tác động, người ta có thể
phân chia chúng theo nhiều tiêu thức khác nhau chẳng hạn như theo thời gian
sẽ có các yếu tố tác động ngắn hạn và dài hạn, theo phạm vi sẽ có yếu tố vĩ
mô và vi mô, yếu tố trong và ngoài nước, yếu tố bên trong và bên ngoài lĩnh
vực hoạt động thương mại.
1.3.1 Các yếu tố thuộc về môi trường quốc tế.
Trên thực tế không có một quốc gia nào không có sự tham gia hoạt động
thương mại với các nước bên ngoài cũng như các tổ chức quốc tê, do đó cần
sự phân tích những ảnh hưởng của các yếu tố môi trường thế giới đến hoạt
động phát triển thương mại của mình. Những yếu tố thuộc về môi trường
quốc tế bao gồm:
- Ảnh hưởng của nền chính trị thế giới.
Những vấn đề chính trị, ngoại giao, chiến sự, rủi ro trên thế giới sẽ ảnh
hưởng ít, nhiều đến nền kinh tế của các nước khác, đến ngoại thương, đến
chính sách mở cửa, đến hành vi kinh doanh của các ngành, các doanh
nghiệp…
21
Những thay đổi về quan điểm, đường lối chính trị của một quốc gia có thể
làm thay đổi bầu không khí chính trị của cả một khu vực, từ đó cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các quốc ga khác có liên quan, và ảnh
hưởng đến quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
- Luật pháp, chính sách và các điều ước thông lệ quốc tế.
Đây là loại yếu tố liên quan trực tiếp đến các hoạt động thương mại quốc tế,
đòi hỏi các quốc gia phải tính đến khi xây dựng và thực hiện chiến lược phát
triển thương mại, đặc biệt quan trọng là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta
có chủ trương mở cửa và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế.
- Các yếu tố kinh tế quốc tế.
Yếu tố này ảnh hưởng rất sâu sắc đến môi trường kinh doanh nói chung và
hoạt động thương mại nói riêng của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy những
cuộc khủng hoảng kinh tế, những bất động về quan điểm kinh tế…đã gây ra
những hậu quả thiệt hại nghiêm trọng đối với cả thế giới và khu vực cũng như
từng quốc gia. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ gần đây ở các nước Đông
Nam Á là một minh chứng điển hình về hậu quả to lớn của nó đối với sự phát
triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Theo đó, hoạt
động kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp ở các nước này cũng
không thoát khỏi ảnh hưởng nghiêm trọng này.
Xuất phát từ quan điểm kinh tế khác nhau, chính sách kinh tế khác nhau sẽ
đưa đến việc các nước sử dụng các chính sách và công cụ kinh tế theo quan
điểm riêng của mình. Chẳng hạn, một chính sách tỉ giá đồng tiền khác nhau sẽ
tạo ra thuận lợi hoặc khó khăn cho các đối tác khi tham gia hoạt động thương
mại quốc tế.
- Các yếu tố thuộc về công nghệ - kỹ thuật trên thế giới.
Sự tiến bộ về mặt khoa học công nghệ kỹ thuật trên thế giới diễn ra với nhịp
độ ngày càng nhanh chóng. Điều đó một mặt làm cho năng suất lao động tăng
lên với quy mô chưa từng thấy, song mặt khác cũng làm thay đổi các mối
22
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia vốn đã hình thành từ trước. Để tránh nguy
cơ tụt hậu đòi hỏi phải theo dõi, nắm bắt, học hỏi những tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến trên thế giới nhằm tạo ra những sản phẩm mới có sức cạnh
tranh mạnh mẽ hơn. Quan điểm đó phải được quán triệt thành mục tiêu trong
chiến lược phát triển thương mại.
- Các yếu tố thuộc về văn hoá xã hội của các nước trên thế giới.
Sự khác nhau về văn hoá của các nước trên thế giới là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố như: lịch sử, ngôn ngữ, tôn giáo, quan niệm sống, đạo đức…
Trong hoạt động thương mại quốc tế không thể bỏ qua yếu tố này vì chúng có
ảnh hưởng quyết định đến thoái quen tiêu dùng và nhu cầu trên thị trường.
Chúng ảnh hưởng không chỉ đến hành vi người tiêu dùng, mà còn cả đến hành
vi của các nhà kinh doanh, các nhà chính trị, các nhà chuyên môn…
1.3.2Các yếu tố trong nước:
Các yếu tố trong nước cũng là yếu tố quyết định đến việc tổ chức thực hiện
chiến lược phát triển thương mại, có thể nói chúng là yếu tố chủ quan và
khách quan, gồm có rất nhiều yếu tố liên quan với nhau: các yếu tố tự nhiên,
kinh tế,xã hội, văn hoá, công nghệ kỹ thuật…
1.3.2.1 Các yếu tố tự nhiên:
Đã từ lâu người ta nhận thấy rằng hoàn cảnh tự nhiên có một tác động không
nhỏ vào tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thương mại. Trong thực tế các
yếu tố tự nhiên có thể tạo ra điều kiện thuận lợi hoặc gây ra khó khăn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiêp, của một ngành kinh
doanh, thậm chí cho sự phát triển kinh tế của cả một quốc gia. Các cơ hội và
thách thức do yếu tố tự nhiên gây ra chỉ trong giới hạn thời gian và không
gian nhất định, vượt qua các giới hạn đó, các yếu tố này sẽ không còn ảnh
hưởng to lớn. Một môi trường tự nhiên thuận lợi sẽ tạo điều kiện rất nhiều cho
mở rộng và phát triển thị trường trong kinh doanh.
23
Những yếu tố tự nhiên chủ yếu ảnh hưởng đến kinh tế cũng như hoạt động
thương mại gồm có:
Một là: Vị trí địa lý.
Yếu tố này ảnh hưởng đến nhiều kía cạnh trong hoạt động thương mại, thể
hiện trên các mặt như: Khoảng cách không gian liên hệ với khách hàng mà
doanh nghiệp có khả năng chinh phục, sự thuận lợi trong vận chuyển và chi
phí vận chuyển, khoảng cách không gian với các nguồn cung cấp hàng hoá,
lao động và nguyên liệu, địa điểm thuận lợi cho hoạt động giao dịch thương
mại.
Hai là: Khí hậu, thời tiết và tính chất thời vụ.
Yếu tố này ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất, tiêu dùng sản phẩm trong khu
vực, đến nhu cầu về các loại sản phẩm được tiêu dùng của người dân. Mặt
khác, nó cũng ảnh hưởng đến yêu cầu về sự phù hợp của sản phẩm, về dự trữ
bảo quản hàng hoá, về lợi thế so sánh trong buôn bán kinh doanh thương mại.
Ba là: Các vấn đề về cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường.
Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường là một trong những mối quan hệ
phức tạp, sự tác động của thương mại đến môi trường vừa phức tạp vừa gián
tiếp thông qua những lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Những
hoạt động nghiệp vụ thương mại như: giao nhận, vận chuyển, bốc dỡ, bảo
quản hàng hoá…không tuân thủ theo quy định nghiêm ngặt sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường xung quanh. Ngược lại một môi trường không
trong sạch và độc hại sẽ ảnh hưởng đến vệ sinh công nghiệp, đến chất lượng
hàng hoá lưu thông và khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường. Nghiên
cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa thương mại và môi trường là cơ sở để
kết hợp hài hoà giữa phát triển thương mại với bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển thương mại.
24
1.3.2.2 Các yếu tố kinh tế
Trong môi trường hoạt động thương mại, các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp
độ nào cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu. Bởi lẽ, sự hình
thành hệ thống tổ chức quản lý và các thể chế của hệ thống đó có ảnh hưởng
trực tiếp và quyết định đến chiều hướng và cường độ của các hoạt động kinh
tế trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực hoạt động thương mại nói riêng.
Những yếu tố kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động thương mại bao gồm:
Một là: Tiềm năng của nền kinh tế
Đây là yếu tố tổng quát, phản ánh các nguồn lực có thể huy động được vào
trong phát triển nền kinh tế. Yếu tố này liên quan đến các định hướng lớn về
phát triển thương mại và các cơ hội kinh doanh.
Hai là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự thay đổi cơ cấu kinh tế của nền kinh
tế quốc dân.
Yếu tố này liên quan trực tiếp đến sự tăng trưởng hoặch thu hẹp quy mô phát
triển cũng như cơ cấu phát triển của ngành thương mại, thể hiện ở tổng mức
lưu chuyển và cơ cấu hàng hoá lưu chuyển trên thị trường.
Ba là: Lạm phát và khả năng kiểm chế lạm phát của nền kinh tế quốc dân.
Yếu tố này ảnh hưởng đến xu hướng đầu tư, xu hướng tiêu dùng, đến thu
nhập, tích luỹ và khả năng cân đối tiền-hàng trong thương mại, ngoài ra còn
ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Bốn là: Tỷ giá hối đoái và khả năng chuyển đổi của đồng tiền trong nước
Yếu tố này chứng tỏ sự ổn định của đồng tiền nội địa cũng như việc lựa chọn
ngoại tệ trong giao dịch thương mại sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng thực thi
của chiến lược phát triển thương mại.
Năm là: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế.
Yếu tố này tạo điều kiện phục vụ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh
thương mại trong việc khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế.
Sáu là: Khả năng nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nền kinh tế.
25