Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT Hoàng Lệ Kha, Hà Trung - Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.55 KB, 22 trang )

sở giáo dục & đào tạo thanh hoá
trờng THPT Hoàng Lệ kha

SNG KIN KINH NGHIM
N NG CAO HIU QU GIO DC O C HC SINH
LP CH NHIM TRNG THPT HONG L KHA
H TRUNG - THANH HO

Ngi thc hin: Mai Th Liờn
Chc v: T phú chuyờn mụn
SKKN thuc lnh vc: Ch nhim
THANH HO NM 2013
****************
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở trường phổ thông nói chung, trường trung học phổ thông nói riêng, giáo
viên chủ nhiệm (GVCN) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức cho học sinh. Bởi hơn ai hết GVCN là người quản lí trực tiếp, giáo dục toàn
diện học sinh một lớp. Thầy cô giáo nào khi làm công tác chủ nhiệm cũng mong
muốn đào tạo nên những thế hệ học sinh có đủ đức, đủ tài, trở thành những con
người có ích cho xã hội. Song trên thực tế hiện nay ở nhiều nơi những người làm
công tác chủ nhiệm lớp gặp không ít khó khăn, nhất là trong bối cảnh từng ngày
từng giờ những cám dỗ, những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dội vào nhà
trường. Phải thừa nhận rằng dưới tác động của quy luật kinh tế thị trường và sự
phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, ngoài mặt tích
cực thì những ảnh hưởng tiêu cực cũng rất đáng lo ngại như hệ thống giá trị có
những thay đổi, tính phức tạp của cơ chế mở tác động không nhỏ đến quá trình
giáo dục ở nhà trường, gia đình và xã hội.
Trước những điều kiện khó khăn như vậy đòi hỏi thầy cô giáo nói chung,
các GVCN nói riêng phải thực sự tâm huyết với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ,
không ngừng trau dồi, rèn luyện, trăn trở, tìm tòi, mạnh dạn áp dụng các biện


pháp thích hợp để giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Bởi vì việc giáo
dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà trường nói
riêng, của gia đình và xã hội nói chung. Đạo đức là yếu tố chi phối hoạt động và
giao lưu của con người suốt thời gian tồn tại và phát triển của họ. Cung cấp cho
học sinh những tri thức đạo đức (hiểu biết về đạo đức, về thái độ phải có, về
nhiệm vụ, bổn phận phải làm ) là một khâu quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục
đạo đức cho học sinh. Nhận thức rõ vị trí của người GVCN, vai trò của việc đào
tạo nên những con người mới góp phần thực hiện thành công sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bản thân tôi trong những năm làm công tác chủ nhiệm đã
có nhiều cố gắng và đã đạt những kết quả nhất định trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh.
2
Vấn đề nghiên cứu tuy không phải là mới mẻ song trong quá trình thực
hiện thì mỗi người lại có những cách thức, biện pháp khác nhau thể hiện tính
chủ động, sáng tạo, tinh thần học hỏi vươn lên và nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Bằng những kết quả đã được kiểm nghiệm trong thực tế tôi xin mạnh dạn trình
bày những việc làm của mình với mong muốn góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp
giáo dục thế hệ trẻ thành những con người có đức, có tài góp phần xây dựng quê
hương, đất nước dân chủ, giàu đẹp, văn minh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận:
Từ xưa ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục
“Tiên học lễ, hậu học văn”. “Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và
phát triển tốt các tri thức, hiểu biết. Ngày nay, phương châm “Dạy người, dạy
chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo
đức.
“Giáo dục đạo đức” là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến
học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp
học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ của cá nhân
với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và

của cá nhân với chính mình.
Trong một lớp học, việc giáo dục đạo đức cho học sinh cần được đặc biệt
quan tâm, bởi vì việc giáo dục đạo đức có tác động mạnh mẽ đến chất lượng học
tập văn hoá, đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh, là nhân tố quyết
định đến hiệu quả tổ chức các phong trào hoạt động và góp phần vào sự phát
triển chung của nhà trường.
Hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh một lớp phụ thuộc rất lớn vào vai trò
của người GVCN, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin, mở cửa và hội nhập
thì việc giáo dục đạo đức là một công việc không đơn giản. Nó đòi hỏi người
GVCN chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề nghiệp, yêu
3
thương học sinh mà còn phải có năng lực thiết kế, thi công các kế hoạch hoạt
động, là một nhà hoạt động xã hội, có uy tín, có ý chí vượt khó, kiên định thực
hiện hoài bão, ước mơ, lí tưởng giáo dục thế hệ trẻ.
Ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (16 - 18), cuộc sống nội tâm của
các em dễ biến đổi do các quá trình tâm lý chưa ổn định và do tác động của xã
hội, của hoàn cảnh sống. Bởi vậy để có thể thành công trong việc giáo dục đạo
đức cho học sinh, GVCN phải thường xuyên quan tâm đến sự thay đổi của từng
học sinh để giúp học sinh có định hướng đúng và điều chỉnh kịp thời.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng:
Như chúng ta đã biết, trong những năm gần đây, cả xã hội đã và đang
gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng xuống cấp về mặt đạo đức của một
bộ phận không nhỏ học sinh. Bên cạnh những thành tích quan trọng của ngành
giáo dục và đào tạo thì ở các cấp học tỉ lệ học sinh vi phạm các chuẩn mực đạo
đức ở các mức độ khác nhau cũng ngày càng tăng. Đó là các hiện tượng bỏ giờ,
nghỉ học không có lí do thường xuyên, thiếu trung thực, vô lễ với thầy cô, gây
gổ đánh nhau, thiếu ý thức trong học tập, vi phạm an toàn giao thông, sống vô
cảm, thờ ơ, thiếu trách nhiệm, chỉ biết hưởng thụ ăn chơi, thiếu kĩ năng sống …
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi tiêu cực về đạo đức của học sinh, song

có thể chia làm 3 nhóm nguyên chính:
- Từ phía gia đình: phần lớn những học sinh chưa ngoan là con cái của các
gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như: bố mẹ đi làm ăn xa thiếu sự quan tâm quản
lí sát sao, khoán trắng cho nhà trường, hoặc điều kiện kinh tế gia đình dư dật nên
bố mẹ nuông chiều, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất mà ít quan tâm đến đời sống
tinh thần của con cái, vợ chồng sống không hạnh phúc. Bố mẹ thiếu sự hiểu biết
về tâm sinh lý lứa tuổi, thiếu kiến thức về giáo dục và chăm sóc con cái: quá thờ
ơ, phó mặc hoặc quá khắt khe…
- Từ phía nhà trường: Có những nơi Ban giám hiệu đôi lúc chưa nắm bắt
kịp thời các hiện tượng vi phạm đạo đức của học sinh để răn đe, ngăn chặn hoặc
4
nể nang trong xử lí học sinh vi phạm. Năng lực của một số giáo viên chủ nhiệm
lớp còn nhiều hạn chế, chưa thực sự quan tâm đến học sinh, thiếu biện pháp phù
hợp. Một số giáo viên bộ môn chưa chú trọng việc thông qua "dạy chữ” để “dạy
người”, nhiều lúc còn coi việc giáo dục đạo đức chỉ là việc của giáo viên chủ
nhiệm, của BGH nhà trường.
- Từ phía xã hội: Bên cạnh những thành quả của thời kì mở của thì mặt trái của
cơ chế thị trường cũng tác động không nhỏ đến quá trình giáo dục học sinh. Sự
phát triển của khoa học kĩ thuật nâng cao chất lượng cuộc sống song cũng gây ra
những biến động về giá trị đạo đức.
Ngoài ra nguyên nhân chủ quan từ phía học sinh: Lứa tuổi học sinh trung
học phổ thông đang có những biến động về tâm lý, tình cảm chưa bền vững
chưa ổn định, bản lĩnh đề kháng với những cám dỗ, những ảnh hưởng tiêu cực
đang diễn ra xung quanh còn yếu.
Khi tìm hiểu các nguyên nhân nói trên, chúng ta thấy để đạt được hiệu
quả mong muốn trong việc giáo dục đạo dức học sinh mỗi người quản lý giáo
dục phải xây dựng được mối quan hệ khăng khít giữa nhà trường, gia đình, và
các tổ chức xã hội. Bản thân người GVCN phải có đầy đủ những kĩ năng sư
phạm để định hướng và giúp học sinh lường trước những khó khăn, thuận lợi,
vạch ra những dự định để các em tự hoàn thiện mọi mặt.

2. Kết quả của thực trạng trên:
Trường THPT Hoàng Lệ Kha nằm ở trung tâm thị trấn Đò Lèn (huyện Hà
Trung – tỉnh Thanh Hoá), cạnh quốc lộ 1A. Trong những năm gần đây chất
lượng giáo dục toàn diện của nhà trường đã đạt được kết quả khả quan. Công
tác giáo dục đạo đức được ban giám hiệu, tập thể sư phạm, các tổ chức trong nhà
trường quan tâm. Số HS đạt hạnh kiểm tốt ngày càng tăng. Đa số các em có ý
thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của mình và phấn đấu học tập
tốt. Tuy nhiên trong bối cảnh chung của toàn xã hội thì việc giáo dục đạo đức
cho học sinh của nhà trường cũng gặp không ít khó khăn. Trong những năm làm
công tác chủ nhiệm ở trường THPT Hoàng Kha, tôi được phân công chủ nhiệm
5
các lớp về học lực đầu vào không có HS giỏi, số HS có học lực khá chỉ khoảng
1/3 lớp, còn lại là học lực trung bình, ¼ là hs thuộc diện chính sách: hộ nghèo,
vùng đặc biệt khó khăn, con TBB, phần lớn các em đều là con em gia đình nông
dân, gồm 9 xã trong huyện (Hà Hải, Hà Phú, Hà Thái, Hà Lai, Hà Toại, Hà Lâm,
Hà Ninh, Hà Lĩnh, Hà Sơn), số ít là học sinh thị trấn. Một số em cha mẹ đi làm
ăn xa ở Hà Nội, Hồ Chí Minh…thiếu sự quan tâm, quản lý sát sao của các bậc
phụ huynh. Đối với học sinh khối 10 có nhiều bỡ ngỡ, ý thức tự giác chưa cao,
số ít có tư tưởng chưa ổn định chuyển lớp để được gần bạn gần bè cũ, một số đã
nghiện games, chat từ khi học cấp 2.
Tuy nhiên dưới sự quan tâm sát sao của Ban giám hiệu, đảng bộ nhà
trường, sự đoàn kết nhất trí của tập thể sư phạm, với tấm lòng yêu nghề mến trẻ,
mỗi thầy cô giáo đã chủ động sáng tạo khắc phục khó khăn vươn lên hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, đặc biệt là đội ngũ các thầy cô làm công tác chủ nhiệm
lớp. Bản thân tôi trong những năm là công tác chủ nhiệm cũng đã có nhiều cố
gắng. Xuất phát từ thực trạng và các nguyên nhân đã nêu, căn cứ mục tiêu và
nhiệm vụ của bậc học THPT trong giai đoạn hiện nay, tôi đã tích cực học hỏi,
tích luỹ làm phong phú kinh nghiệm của bản thân để thực hiện tốt công tác giáo
dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm.
III. Các giải pháp thực hiện:

1. Nắm vững nhiệm vụ của GVCN lớp trong việc chỉ đạo tổ chức thực
hiện các nội dung giáo dục toàn diện
Khác với giáo viên bộ môn, GVCN phải tổ chức, quản lí, giáo dục học
sinh trong tiết sinh hoạt lớp hàng tuần, trong các buổi lao động hàng tháng và
tham gia hoạt động chung của toàn trường (chào cờ đầu tuần, kỉ niệm các ngày
lễ hàng tháng, hướng nghiệp ). Nói đúng hơn giáo viên chủ nhiệm lớp phải cố
vấn, giúp đội ngũ cán bộ tự quản của lớp tổ chức, điều khiển các hoạt động này
nhằm giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh. Chỉ có thông qua các hoạt động
mới thiết lập được các mối quan hệ lành mạnh trong tập thể, mới tạo ra được
6
cho các em tình cảm bạn bè, tình thầy trò, lòng nhân ái, tình yêu thiên nhiên, ý
thức dân tộc đúng đắn, ý thức công dân sâu sắc.
Việc GVCN chăm lo xây dựng bầu không khí đoàn kết nhất trí của tập thể
lớp có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Trong chức năng quản lí giáo dục toàn diện, GVCN cần đặc biệt quan tâm
tới việc quản lí hoạt động học tập và quản lí sự hình thành, phát triển nhân cách
học sinh. Hai mặt trên có quan hệ hỗ trợ, tác động lẫn nhau, đôi khi việc giáo
dục đạo đức có tác động mạnh mẽ đến kết quả học văn hoá.
GVCN lớp ở trường phổ thông là linh hồn của lớp học, là người góp phần
không nhỏ hình thành và nuôi dưỡng nhân cách học sinh, những chủ nhân tương
lai của đất nước.
2. Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức
cho học sinh
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong nhà trường, với
phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Việc giáo dục đạo đức là tiền đề thuận
lợi để thực hiện các nội dung giáo dục khác, góp phần nâng cao kết quả học tập
văn hoá, giáo dục lao động và hướng nghiệp, giáo dục thẩm mĩ, vui chơi giải trí
và phòng chống các tệ nạn xã hội.
Dù diễn ra trong hoàn cảnh nào, điều kiện nào mọi hoạt động và giao lưu
đều góp phần hình thành bộ mặt đạo đức của con người. Bởi vậy các thầy cô

giáo nói chung, các giáo viên chủ nhiệm nói riêng cần giúp học sinh, tạo mọi
điều kiện để học sinh tham gia vào các hoạt động giao lưu. Tuy nhiên cần chú
trọng đến những hoạt động chuyên biệt chứa đựng nội dung tư tưởng chính trị,
pháp luật, nhân văn
3. Tiến hành có hiệu quả các nội dung, kế hoạch giáo dục đạo đức cho
học sinh lớp chủ nhiệm
Để làm tốt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, GVCN hơn ai hết cần
phải có những năng lực sư phạm, những tính cách như bình tĩnh, trung thực, giữ
chữ tín đồng thời cần nắm được những công việc của người GVCN, cách thức
7
tiến hành công việc để đạt hiệu quả cao nhất. Có rất nhiều nội dung giáo dục đạo
đức cho học sinh, dưới đây được trình bày một số biện pháp cơ bản nhất mà tôi
đã tiến hành.
II. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
1. Tìm hiểu và phân loại học sinh lớp chủ nhiệm để có những tác động
sư phạm thích hợp:
Để giáo dục học sinh có hiệu quả thì GVCN phải hiểu sâu sắc về các em,
từ đó mới có thể đặt ra được những tác động sư phạm thích hợp. Tìm hiểu học
sinh là một việc làm liên tục, thường xuyên, vừa có tính cấp bách trong những
khoảng thời gian nhất định, lại vừa có tính giai đoạn. Việc tìm hiểu học sinh
được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn như:
- Nghiên cứu lí lịch học sinh: Công việc này được tiến hành ở lớp đầu cấp
hoặc tiếp quản lớp chủ nhiệm. GV cho học sinh làm kê khai (mẫu sau):
BẢN KÊ KHAI HỌC SINH
Họ tên học sinh: Nam (Nữ)
Ngày sinh
Nơi sinh…………………………………………………………………………
Chỗ ở hiện nay: (ghi rõ xóm, thôn, xã)
Họ tên cha: Nghề nghiệp:
Họ tên mẹ: Nghề nghiệp:

Họ tên người đỡ đầu (giám hộ): Nghề nghiệp……………
Số con trong gia đình:
Có mấy anh, chị học tại trường THPT Hoàng Lệ Kha ; lớp nào
Tình trạng sức khoẻ bản thân:……………………………………………………
Xếp loại ở lớp 9: Học lực : ; hạnh kiểm:
Điểm thi tuyển vào lớp 10: Toán điểm; Văn điểm; Môn thứ 3: điểm
Chức vụ cán sự lớp ở lớp 9:
Chức vụ cán bộ Đội lớp ở lớp 9:
Đoàn viên: Có (không)
8
Con thương binh, bệnh binh hạng:
Diện chính sách (hộ nghèo, cận nghèo, vùng đặc biệt khó khăn)
Năng khiếu, sở trường…………………………………………………………….
Điện thoại liên lạc với gia đình: Cố định: DD cha (mẹ):
Sau khi đã có phiếu của học sinh, GVCN phân loại đối tượng giáo dục của
mình theo các nội dung mà mình định tìm hiểu như: hoàn cảnh gia đình, kết quả
học tập và rèn luyện, năng khiếu và sở trường, sức khoẻ, mong muốn của gia
đình đối với nhà trường và những kiến nghị khác. Kết quả phân loại học sinh
được ghi vào sổ chủ nhiệm theo từng mục nội dung.
Như vậy GVCN sẽ có được bức tranh toàn cảnh về tình hình học sinh của
lớp cũng như của từng cá nhân học sinh
Bước tiếp theo của sự phân loại sơ bộ đối tượng giáo dục là GVCN tiến
hành các hoạt động tập thể để học sinh bộc lộ tính cách và GVCN có thể kiểm
tra lại độ chính xác của sự phân loại ban đầu. Qua thực tế GVCN có thể phân
loại HS của lớp thành 3 nhóm:
+ Nhóm 1: Gồm những học sinh tích cực ủng hộ các giải pháp của nhà giáo dục
+ Nhóm 2: Gồm những học sinh không có biểu hiện gì xấu, nhưng không thể
hiện rõ tính tích cực của mình trong tập thể lớp.
+ Nhóm 3: Đó là những học sinh có nhiều biểu hiện yếu kém về học tập hoặc tư
cách đạo đức; những em này cần được quan tâm nhiều nhất.

Căn cứ vào kết quả phân loại trên GVCN đề ra kế hoạch, nội dung và biện
pháp giáo dục thích hợp cho từng nhóm đối tượng nhằm phát huy những mặt
mạnh sẵn có, đồng thời hình thành phát triển những phẩm chất cần thiết ở mỗi
em, xây dựng cho các em một cuộc sống tâm hồn tình cảm phong phú, trong
sáng, cao cả và nhân hậu, có năng lực và sức khoẻ dồi dào, thích ứng cuộc sống
tự lập của bản thân, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Ví dụ: Với những học sinh không thể hiện rõ tính tích cực của mình trong
tập thể lớp, tôi thường xuyên mời các em phát biểu ý kiến trong các giờ sinh
9
hoạt, gợi mở cho các em từ những điều đơn giản nhất, trao đổi với các thầy cô
giáo bộ môn hàng ngày gọi các em xây dựng bài, lên bảng làm bài tập. Đặc biệt
quan tâm đến năng lực sở trường của các em, tạo điều kiện để các em phát huy.
Trước khi tiến hành các hoạt động tập thể tôi thường phân tích những lợi ích của
hoạt động, động viên lôi cuốn các em tham gia, giao việc cho các em, có sự
khen ngợi khi các em tham gia nhiệt tình. Dần dần một số em có thái độ thờ ơ,
nhút nhát đã có những thay đổi tích cực: phấn khởi, hoà đồng, gắn bó với tập
thể, vì tập thể.
- Các biện pháp khác:
+ Nghiên cứu hồ sơ học sinh: Học bạ, biên bản họp lớp, bản tự kiểm điểm, các
sản phẩm do chính học sinh làm ra.
+ Trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, xu hướng sở thích, thái
độ trong quan hệ tập thể lớp (thờ ơ hay hăng hái, nhanh nhẹn hay chậm chạp)
+ Trao đổi với GVCN và giáo viên bộ môn của năm học trước về tình hình
chung của của lớp cũng như tình hình học tập rèn luyện của từng học sinh.
+ Trao đổi với phụ huynh học sinh để có thêm thông tin cụ thể về hoàn cảnh gia
đình, tính cách học sinh, đồng thời cũng là dịp để bàn bạc với gia đình cùng
thống nhất những biện pháp giáo dục con em của họ.
+ Quan sát học sinh thông qua các hoạt động tập thể để hiểu rõ hơn về tinh thần
tập thể, ý thức hợp tác trong công việc chung.

2. Xây dựng tập thể học sinh tự quản:
a. Lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp có đủ uy tín và năng lực điều khiển tập thể
lớp:
- Căn cứ vào việc tìm hiểu học sinh: Bản kê khai và bảng khảo sát chất lượng
đầu năm học, hoặc kết quả hoạt động của năm học trước.
- Nếu là lớp đầu cấp thì GVCN qua tìm hiểu, thăm dò ý kiến học sinh thì chỉ
định ban cán sự lớp lâm thời hoạt động 3 tuần đầu năm học, theo dõi và tuần 4
cho lớp tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm:
10
+ Trước khi bỏ phiếu GVCN định hướng cho tập thể bằng việc xác định
những tiêu chuẩn lựa chọn (nhiệt tình, đạo đức tốt, học khá, gương mẫu, có khả
năng tập hợp, có sức khoẻ tốt…)
+ Việc bỏ phiếu diễn ra công khai, dân chủ, không áp đặt học sinh.
b. Quy định rõ chức năng nhiệm vụ cho từng loại cán bộ tự quản:
* Nhiệm vụ của cán bộ tự quản:
- Lớp trưởng: Tổ chức, theo dõi hoạt động tự quản của lớp (dưới sự chỉ
đạo, cố vấn của GVCN) như: các cuộc hội ý ban cán sự, các tiết sinh hoạt lớp
hàng tuần, các hoạt động giáo dục theo quy mô lớp. Có trách nhiệm quản lí lớp
trong mọi hoạt động tập thể của trường, nhận xét đánh giá kết quả thi đua các
mặt của lớp hàng tuần, hàng tháng, học kì và năm học.
- Lớp phó học tập: Tổ chức các hoạt động tự quản học tập của lớp, tổ chức
tìm hiểu giải đáp các thắc mắc trong học tập, tổ chức trao đổi kinh nghiệm học
tập, phụ trách cán sự bộ môn hoạt động tự học, phân công phụ trách giúp đỡ bạn
học yếu, theo dõi báo cáo việc học tập của HS trong lớp hàng tuần, duy trì truy
bài 15 phút đầu giờ.
- Lớp phó lao động: Nhận nhiệm vụ, phân công, điều khiển các buổi lao
động, vệ sinh của lớp, nhận xét đánh giá kết quả, phụ trách các cán sự chức
năng có liên quan.
- Lớp phó văn thể: Điều khiển và theo dõi các hoạt động văn thể của lớp.
Nhận xét đánh giá kết quả trước lớp.

- Tổ trưởng: Theo dõi và điều khiển các hoạt động tổ, nắm tình hình cụ thể
về học tập, kỉ luật từng tổ viên (có ghi chép vào sổ theo dõi), tổng hợp và báo
cáo kết quả hàng tuần, nhắc nhở, động viên các thành viên của tổ.
- Cán sự chức năng:
+ Cán sự môn học: Tổ chức truy bài 15 phút đầu giờ, liên hệ với giáo viên
bộ môn đề đạt nguyện vọng của lớp, xin ý kiến giáo viên bộ môn nhằm giúp lớp
học có hiệu quả…
11
Sa
o
đỏ
T ổ
1:
Lâm
T ổ
2:
B oả
T ổ
4:
Thả
+ Cán sự văn thể: Dạy bài hát mới cho lớp, đôn đốc giờ thể dục, cùng lớp
phó văn thể chăm lo phong trào văn nghệ, thể thao của lớp.
- Thủ quỹ: thu giữ các khoản tiền quỹ, quản lí chi tiêu
- HS giữ sổ đầu bài: quản lý, giữ gìn sổ đầu bài, ghi các mục theo quy định
- Thư ký: Bảo quản, ghi chép biên bản sinh hoạt lớp và các cuộc họp cán bộ
lớp.
Ngoài ra có BCH chi đoàn do đại hội chi đoàn bầu ra cũng được phân công
cụ thể những hoạt động của Đoàn và phối hợp tốt với Ban cán sự lớp.
* GVCN hướng dẫn nội dung ghi chép sổ công tác cho từng loại cán bộ.
* GVCN có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tự quản, bồi dưỡng cho toàn lớp

về những nội dung xây dựng tập thể lớp tự quản như: tự quản giờ học vắng giáo
viên, tự quản giờ sinh hoạt tập thể hàng tuần, tự quản các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp…
* Hạn chế việc thay cán bộ lớp, không phó mặc việc lớp cho đội ngũ cán bộ
lớp, động viên khích lệ các em.
Nhờ việc lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ chi đoàn tốt
cùng với phương châm “thầy lui dần về hậu trường” để “trò tự quản lý và
điều khiển” giúp hình thành một tậo thể học sinh có ý thức tự giác, tích cực,
chủ động trong mọi điều kiện hoàn cảnh, giúp các em ngày một trưởng
thành.
3. Đa dạng hóa các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
a. Xác định mục đích của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
- Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp học sinh sẽ củng cố, bổ sung
và mở rộng thêm tri thức đã học, phát triển óc thẩm mĩ, tăng cường thể chất,
nhận thức xã hội và ý thức công dân, thêm yêu quê hương đất nước.
- Giáo dục thái độ tích cực, tinh thần đoàn kết và ý thức chủ động, mạnh
dạn trong các hoạt động tập thể.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tự quản, góp phần giáo dục tính tích
cực của người công dân tương lai.
12
b. Các hình thức hoạt động:
- Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:
Ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị số 06 - CT/TW về tổ chức
cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và bắt
đầu từ ngày 3/2/20107 cuộc vận động được phát động rộng rãi trong toàn xã hội
đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng rèn luyện và làm theo
tấm gương đạo đức của Người, góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội Là một giáo viên lịch sử tôi có lợi thế
trong việc tích hợp nội dung tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào môn học,
gương mẫu thực hiện theo tấm gương đạo đức của Người. Với riêng lớp chủ

nhiệm tôi đã lựa chọn hình thức phổ biến nhất là thi kể chuyện về tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Thời gian tổ chức: tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ hoặc tiết sinh hoạt cuối
tuần, 1 tháng tổ chức một lần. Sơ kết vào cuối học kì, trao phần thưởng cho
những HS xuất sắc nhất
+ Cách thức tổ chức: cung cấp tư liệu cho Bí thư chi đoàn, lớp trưởng và 4
tổ trưởng. Giao cụ thể cho mỗi tổ lựa chọn những mẩu chuyện tiêu biểu về
phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh.
Tổ 1: Những mẩu chuyện về đời sống giản dị, tiết kiệm của Bác.
Tổ 2: Những mẩu chuyện về tình thương yêu bao la
Tổ 3: Những mẩu chuyện về sự cố gắng, chăm chỉ, tinh thần trách nhiệm
Tổ 4: Những lời dạy thân tình của Bác (trước hết đối với thanh niên).
Tổ trưởng chịu trách nhiệm phân công, động viên các thành viên tham
gia. Mỗi mẩu chuyện quy định tối đa là 5 phút, các em cũng không mất nhiều
thời gian, lại được thể hiện mình, thể hiện tình cảm kính trọng đối với Chủ tịch
Hồ Chí Minh, nhìn chung các em tham gia hào hứng và học tập được những đức
tín cao đẹp của Bác qua những việc làm cụ thể. Ví dụ khi lớp tan học bao giờ
các em cũng biết tắt hết các thiết bị điện, hôm nào thời tiết đẹp đã đủ ánh sáng
thì không bật các bóng điện…
13
+ Tôi cũng đã tham mưu cho Đoàn thanh niên tạo điều kiện để các em
được bày tỏ những cảm nhận, quan điểm của mình trong các bài viết về Bác.
Các bài viết trên được phát thanh và các buổi sinh hoạt 15 phút sáng thứ 3 và
thứ 6 hàng tuần, nhất là vào những dịp kỉ niệm ngày thành lập Đảng (3 -2), ngày
sinh nhật Bác (19 -5). Có nhiều bài viết hay, cảm động, có tác dụng tốt trong
việc truyên truyền học tập theo tấm gương của Bác.
- Thảo luận theo chủ đề:
+ Các chủ đề đã tiến hành thảo luận: Tình bạn, tình yêu tuổi học trò; Bạo
lực học đường; Tuổi trẻ với An toàn giao thông; Định hướng nghề nghiệp trong
tương lai; Xây dựng tập thể lớp vững mạnh; Truyền thống tôn sư trọng đạo; …

+ Cách thức thảo luận: Cho học sinh về nghiên cứu trước bằng những câu
hỏi cụ thể sau đó trình bày ý kiến của các cá nhân hoặc của nhóm. Giáo viên
nhận xét, kết luận, lấy ví dụ cụ thể.
Ví dụ: Khi thảo luận về vấn đề Bạo lực học đường có các câu hỏi đuợc
nêu ra như sau:
Em biết gì về tình trạng bạo lực học đường hiện nay?
Những nguyên nhân nào dẫn đến bạo lực học đường? Hậu quả?
Theo em phải làm gì để ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường?
Từ sự tranh luận sôi nổi của học sinh cộng với sự phân tích của giáo viên chủ
nhiệm, mỗi học sinh nhận thức được tác hại của bạo lực học đường, chủ động
ngăn chặn.
+ Ngoài việc thảo luận, các vấn đề trên còn thường xuyên được đề cập
trong các giờ sinh hoạt lớp nhằm tăng cường nhận thức cho học sinh giúp các
em có những hành động đúng. Tất nhiên thầy cô giáo không thể chỉ giảng đạo lý
“sách vở” mà phải thông qua những hành động, việc làm cụ thể để nêu gương,
giúp học sinh thay đổi những suy nghĩ tiêu cực đang tồn tại trong đầu các em.
- Hoạt động theo chủ điểm: Ở trường trung học phổ thông, một năm học có
nhiều đợt thi đua lớn, có ý nghĩa như đợt thi đua chào mừng ngày 8- 3, ngày 20
-10, ngày 20- 11, ngày 26-3 Để học sinh lớp chủ nhiệm tham gia đầy đủ, tích
14
cực, hiệu quả các hoạt động thi đua, bao giờ tôi cũng nắm vững kế hoạch, có kế
hoạch tập luyện cụ thể, phân tích những mặt tích cực, ý nghĩa tốt đẹp của các
phong trào này để học sinh vui vẻ, nhiệt tình tham gia, hướng dẫn cách thức
tham gia sao cho hiệu quả nhất. Sau mỗi đợt thi đua đều có sơ kết kịp thời, nhận
xét mặt làm được, mặt hạn chế, khen ngợi cụ thể. Ngoài việc tham gia hoạt động
chung của các tổ chức đoàn thể, lớp chủ nhiệm còn có những hoạt động riêng
phù hợp với chủ điểm.
Ví dụ: Tháng 10 - kỉ niệm ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam, giao cho
Cán bộ phụ trách văn nghệ tổ chức hát những ca khúc về người phụ nữ, tìm các
bài báo ca ngợi tấm gương phụ nữ đọc cho cả lớp nghe, hái hoa dân chủ với chủ

đề người phụ nữ Việt Nam…
4. Một số nguyên tắc giáo dục học sinh chưa ngoan:
- Thương yêu và quan tâm:
Tình thương yêu và sự quan tâm của thầy cô có tác động mạnh mẽ đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của học sinh toàn lớp nói chung và đặc biệt
với những học sinh chưa ngoan. Bằng tình cảm chân thành của người thầy,
người mẹ, người chị, người anh có tác dụng cảm hoá rất lớn đối với học sinh. Đa
phần những học sinh ngỗ nghịch thường thiếu đi tình thương yêu và sự quan tâm
chia sẻ của chính gia đình mình. Nên những tình cảm của thầy cô như luồng gió
mát thổi vào tâm hồn các em, cho các em một điểm tựa tinh thần.
Với sự quan tâm của mình GVCN nắm bắt được hoàn cảnh gia đình học
sinh, phối chặt chẽ gia đình, giáo viên bộ môn để hiểu thêm về năng lực học
tập cũng như thái độ và sự tôn trọng, lễ phép của học sinh “chưa ngoan” và
trực tiếp hay gián tiếp giúp đỡ, quan tâm, ân cần hơn đối với các em. gắn các
em vào những hoạt động mà các em ưa thích, hoặc chia sẻ, giúp đỡ các em
những khó khăn. Học sinh bây giờ khá thông minh, các em cũng đã lớn rồi
nên có thể tự nhận ra giáo viên nào tôn trọng và dành tình cảm cho mình. Khi
được quan tâm, tôn trọng các em sẽ nể phục thầy cô và dần thay đổi.
15
- Kiên nhẫn, kiềm chế: Để học trò có thể nhận ra lỗi ngay lập tức là điều rất khó,
vì vậy giáo viên đôi khi cũng phải “nhịn” đi một chút. Không phải các em cứ
mắc lỗi là lại gọi ra để mắng. Có thể để đến ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa
hoặc khi các em có một vài lỗi sai giáo viên mới nên gọi ra để trò chuyện và
nhắc nhở. Một trong những nghệ thuật sư phạm là “sự chờ đợi”. Nghệ thuật
chính là ở thời điểm nào thì nên nói điều gì và làm cái gì.
- Nhẹ nhàng, động viên: Có những học sinh thực hiện không tốt nội quy trường
lớp nhưng khi được nhắc nhở thường hay phản ứng lại, bướng bỉnh hoặc lì lợm.
Bằng sự nhẹ nhàng, hỏi han, nắm bắt hoặc nói chuyện riêng học sinh các em
thấy đỡ ngại với bạn bè, an tâm, tin tưởng ở cô. Cố gắng thiết lập tình cảm cô trò
gần gũi, không nên cô lập và miệt thị các em.

Biết động viên, khích lệ các em kịp thời, đúng lúc có ý nghĩa rất quan
trọng, giúp các em có được tinh thần, động cơ, và ý thức trong rèn luyện đạo
đức và học tập.
Ví dụ: Thành là một học sinh nhà nghèo, bố mẹ sống li thân. Vào đầu năm học
Thành hay gây sự với bạn, lười học. Khi gia đình tôi có việc, tôi nhờ Thành
đến làm giúp, em rất phấn khởi nhận lời ngay. Hai cô trò vừa làm, vừa tâm sự.
Tôi thấy Thành có sức khoẻ. Đợt thi đua 20 - 11, tôi cử Thành tham gia nội
dung thi chạy việt dã của trường. Hôm em thi tôi và các bạn đến động viên, cổ
vũ, Thành rất vui, các lần thi sau Thành đều tham gia hăng hái. Tôi còn nhờ
Cường - Bí thư Chi đoàn, có lực học khá tốt, ở gần nhà Thành, tối đến học
cùng Thành. Nhờ sự giúp đỡ của Cường, lực học của Thành có nhiều tiến bộ,
chăm chỉ học tập, đến lớp 12 thì em thực sự trưởng Thành, thi đậu vào trường
Cao đẳng và bây giờ đã có một công việc ổn định.
- Hợp tác: Mỗi khi gặp học sinh chưa ngoan không phải lúc nào tôi cũng gọi
điện hay mời phụ huynh đến mà trước hết là hiểu rõ, tìm biện pháp giáo dục
học sinh. Tuy nhiên cũng có những trường hợp khó bảo vì một lí do nào đó thì
phải hợp tác với phụ huynh. Khi đã tiếp xúc với phụ huynh, chúng ta cũng
16
không nên gay gắt, dồn dập phê bình con em họ vì hơn ai hết họ là người hiểu
rõ về con em mình. Cần trao đổi chân tình, cởi mở, tạo cho phụ huynh tâm lý
tin tưởng, sẵn sàng hợp tác. Và điều quan trọng hơn cả là cùng với phụ huynh
bàn bạc, thống nhất những giải pháp tối ưu để giáo dục con em họ trở thành
những học sinh ngoan.
- Quan sát: Quan sát, theo dõi học sinh “chưa ngoan” hằng ngày về việc thực
hiện nội quy, quy chế trường lớp, về thái độ học tập bằng nhiều hình thức khác
nhau sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm nắm vững và sẽ không vội vàng kết luận
mội vi phạm nào đó khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện cần quan sát nhằm
tránh làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của các em.
Không gian sư phạm giờ đây không chỉ là lớp học mà có thể là mọi nơi,
mọi lúc. Có khi phải ngồi trò chuyện với học trò ngay cả ở quán nước, vỉa hè

nơi các em thường tụ tập hoặc cả ở điểm dừng xe buýt.
- Nghiêm khắc: GVCN cần xử lí những vi phạm của tất cả học sinh trong lớp
với một thái độ nghiêm khắc, công bằng và tôn trọng học sinh, cho dù đó là
cán bộ lớp hay học sinh “chưa ngoan”. Có như vậy những em “chưa ngoan” sẽ
cảm thấy GVCN đã tôn trọng tất cả thành viên trong lớp, không thiên vị, không
hề “ghét bỏ” mình. Tuy nhiên nếu nghiêm khắc quá mức hoặc quá cứng nhắc
sẽ dẫn đến “phản sư phạm” và phản tác dụng.
- Định hướng: Những học sinh chưa ngoan thường không định hướng được
mình phải học tập, rèn luyện như thế nào, hướng đến những mục tiêu cụ thể gì
để có cuộc sống tốt sau này. Chính vì vậy GVCN sẽ là người giúp các em biết
quan tâm đến bản thân, gia đình cũng như suy nghĩ đến việc chọn nghề để
các em có hoài bão, ước mơ và trở thành người hữu ích.
Ví dụ: Toàn hay bỏ học đi đánh điện tử. Một hôm tôi hỏi Toàn: sau khi
tốt nghiệp lớp 12 em sẽ đi học ngành gì? Em có thích làm việc trong quân đội
không? Toàn nói có thích đi bộ đội. Tôi phân tích cho Toàn thấy cơ hội chuyển
sang bộ đội chuyên nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, niềm vui
17
trong quân ngũ. Tôi nhờ một số thầy cô giáo bộ môn quan tâm đến Toàn hơn,
lôi cuốn Toàn vào các hoạt động tập thể. Toàn thấy yêu mến, gắn bó với lớp
học. Dần dần Toàn cũng không còn ham điện tử nữa, đi học chuyên cần, thực
hiện tương đối tốt nội quy. Cuối năm lớp 12 Toàn đi bộ đội, sau đó học chuyên
nghiệp, giờ đang công tác tại tỉnh Long An.
5. Đánh giá kết quả giáo dục đạo đức học sinh:
a. Yêu cầu đánh giá:
- Đánh giá khách quan, công bằng về kết quả rèn luyện toàn diện của học sinh.
- Căn cứ vào các chỉ tiêu giáo dục đạo đức trong nhà trường.
- Việc đánh giá được tiến hành thường xuyên, theo định kì hoặc tuỳ thuộc vào
nội dung công việc.
b. Cách thức tiến hành đánh giá:
- Xác định chuẩn đánh giá và thảo luận để mỗi học sinh hiểu và có trách nhiệm

tham gia đánh giá và tự đánh giá. Các chỉ tiêu đánh giá được nêu ra từ đầu năm
học để học sinh có những định hướng cho việc rèn luyện.
- Cuối học kì, mỗi học sinh được phát một phiếu in sẵn các chỉ tiêu đánh giá.
Các em tự đánh giá bản thân mình theo các chỉ tiêu đó rồi tự xếp loại đạo đức
theo 4 mức độ: tốt, khá, trung bình, yếu.
Căn cứ vào những quy định của Bộ giáo dục và đào tạo và yêu cầu của từng
loại lớp, thực tế của mỗi trường để nêu ra những chỉ tiêu đánh giá cụ thể. Dưới
đây là một ví dụ về các chỉ số đánh giá đạo đức của học sinh theo phiếu:
PHIẾU ĐÁNH GIÁ ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH
Họ và tên: ………………………………… Tổ………….
Tự đánh giá
Chỉ tiêu đánh giá
Tốt Khá Trun
g
bình
Yếu
1. Ý thức học tập:
- Đi học đúng giờ.
- Nghỉ học có sự đồng ý của phụ huynh.
18
- Chuẩn bị bài học và bài làm đủ.
- Không nói chuyện hoặc làm việc riêng trong giờ
học.
- Hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Trung thực trong học tâp.
2. Ý thức xây dựng tập thể:
- Giúp đỡ và đoàn kết với bạn.
- Tích cực tham gia công việc chung của tập thể.
- Biết lắng nghe ý kiến của bạn và người khác để
cùng nhau phấn đấu.

- Biết quan tâm tới bạn bè, cùng chia sẻ với bạn
bè.
- Kính trọng thầy cô giáo.
3. Ý thức tự rèn luyện:
- Không vi phạm nội quy nhà trường.
- Không vi phạm luật an toàn giao thông.
- Tham gia lao động tích cực
- Biết giữ gìn vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân tốt.
Chú ý:
+ Loại tốt: Thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu.
+ Loại Khá: Thực hiện tương đối đầy đủ, còn một vài vi phạm nhỏ không đáng
kể.
+ Loại trung bình: Thực hiện không đầy đủ, đôi khi có bị nhắc nhở vì vi phạm
khuyết điểm.
+ Loại yếu: Thường xuyên vi phạm, bị nhắc nhở nhiều lần.
- Sau đó tổ họp đánh giá từng thành viên của tổ dựa trên các chỉ tiêu đó và xếp
loại đạo đức của bạn. Kết quả xếp loại của tổ là nguồn thông tin có giá trị để
GVCN xem xét và quyết định xếp loại đạo đức học sinh.
19
- Cuối cùng GVCN quyết định và công bố kết quả xếp loại đạo đức của từng
học sinh. Việc đánh giá khách quan, chính xác, nghiêm túc, không đặt ra
những yêu cầu quá cao hoặc quá thấp so với năng lực của học sinh giúp các em
tự tin, phấn khởi, có thêm ý chí và quyết tâm phấn đấu.
C. KẾT LUẬN:
I . Kết quả:
Tôi về trường THPT Hoàng Lệ Kha từ năm 2003. Qua 10 năm công tác
tại đây, bằng tấm lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao, sự cố gắng của bản
thân cùng với sự giúp đỡ của đồng nghiệp, sự tạo điều kiện của Ban giám hiệu,
các lớp do tôi làm công tác chủ nhiệm có những ưu điểm cơ bản sau đây:
Tập thể lớp đoàn kết, có tinh thần kỉ luật và tính tự giác cao. Phần lớn

học sinh có thái độ văn minh, lễ phép, trung thực, biết khắc phục khó khăn, tôn
trọng pháp luật, bảo vệ của công, có ý thức cộng đồng và hợp tác.
Phần lớn những học sinh cá biệt từ lớp dưới được cảm hoá giáo dục, trở
thành những học sinh ngoan, sống có ước mơ hoài bão.
Lớp tham gia tốt các hoạt động phong trào, thường xuyên đạt giải trong
các hội thi văn nghệ, thể thao.
Không có học sinh vi phạm bạo lực học đường hay vi phạm luật giao
thông, không có học sinh vi phạm pháp luật, ở lại lớp, hay phải rèn hè.
Kết quả rèn luyện đạo đức có tác động mạnh mẽ đến chất lượng học tập
văn hoá.
Kết quả cụ thể:
+ Từ năm học 2008 - 2011: Lớp chủ nhiệm B10 luôn đạt lớp tiên tiến.
+ Năm học 2011 - 2012: Tiếp quản lớp 12C1 có điểm thi đua cuối năm đứng thứ
6/21 lớp khối buổi sáng. Nhiều học sinh thi đậu vào các trường ĐH, CĐ.
+ Năm học 2012 - 2013: lớp chủ nhiệm 10C7 có kết quả đánh giá xếp loại cả
năm như sau:
Học lực: Khá 21/41; TB 20/41
20
Hạnh kiểm: Tốt: 26/41; Khá; 16/41.
Tập thể lớp đạt lớp tiên tiến.
Chi đoàn được đoàn trường khen thưởng.
II. Kiến nghị đề xuất:
Trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế việc bồi dưỡng đội ngũ thầy cô giáo nói chung và GVCN lớp nói
riêng cần được tiến hành thường xuyên.
Nhà trường, Sở giáo dục và đào tạo, các tổ chức Đoàn, Hội liên hiệp
thanh niên tăng cường tổ chức những cuộc thi, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Ví
dụ: “Thanh niên làm theo lời Bác", "Tuổi trẻ với Bác Hồ, Bác Hồ với tuổi
trẻ" Đây sẽ là những sân chơi bổ ích, có tác dụng lớn trong việc tuyên truyền,
giáo dục tư tưởng đạo đức, rèn luyện thái độ kĩ năng đối với học sinh.

Trước những ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường và sự bùng nổ
thông tin, công tác chủ nhiệm nói chung, công tác giáo dục đạo đức học sinh nói
riêng gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy cần có chế độ chính sách động viên đối với
đội ngũ thầy cô giáo, đặc biệt với giáo viên chủ nhiệm để các thầy cô toàn tâm
toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ./.
Xác nhận của BGH Thanh Hoá, ngày 15 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Tác giả

Mai Thị Liên

21
22

×