Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số kinh nghiệm phát huy năng lực tự học môn Toán của học sinh tại trường THPT Lam Kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.03 KB, 14 trang )

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn đề tài.
Hiện nay trong các trường phổ thông việc đổi mới phương pháp dạy học
đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Mục đích của việc đổi mới phương
pháp dạy học là thay đổi lối truyền thụ một chiều sang dạy học theo “ Phương
pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận
dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn;
tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “Học ” là quá trình kiến
tạo; học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thông tin,
tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận thức
cho học sinh, dạy học sinh cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng
lực ( tự học, sáng tạo, hợp tác ) để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại
và tương lai.
Một trong những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là
phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo; phát huy năng lực tự học của
học sinh.
Thế nhưng, qua thực tế giảng dạy những năm gần đây, qua khảo sát tại
các lớp tôi được phân công giảng dạy trong năm học 2012-2013 tôi thấy việc tự
học của học sinh đang diễn ra chưa tốt hoặc chưa có hiệu quả. Phần lớn các em
đều không ý thức được tầm quan trọng của việc tự học, hoặc ý thức được nhưng
việc thực hiện không tốt do năng lực tự học không được hình thành từ nhỏ. Vì
vậy, hiện tại các em rất lười suy nghĩ, động não, từ việc tiếp nhận kiến thức đến
kĩ năng làm bài, trình bày bài đều lệ thuộc vào thầy, cô.
Xuất phát từ những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài “Một số kinh
nghiệm phát huy năng lực tự học môn Toán của học sinh tại trường THPT Lam
Kinh”
2. Mục đích viết đề tài
Khi viết đề tài này tôi không có mong muốn gì quá lớn chỉ mong thông
qua những kinh nghiệm của bản thân để đúc rút cho mình những phương pháp
để có thể giúp học sinh phát huy tối đa năng lực tự học của mình.


3. Kết quả cần đạt được
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học cho bản thân.
- Nâng cao chất lượng giảng dạy của bản thân.
- Nâng cao chất lượng học tập của các lớp được phân công phụ trách
giảng dạy.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
- Các phương pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh.
* Phạm vi
- Đề tài này được áp dụng với học sinh trường THPT Lam Kinh tại các
lớp 10B6, 12C6 do tôi phụ trách giảng dạy, và tại lớp chủ nhiệm kiêm phụ trách
giảng dạy 11A2 trong năm học 2012-2013.
1
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1.Mục tiêu của Giáo dục phổ thông:
Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và
các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên
hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Phương pháp Giáo dục phổ thông:
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
3.Tự học:
Là một trong các phương pháp học tập của học sinh ở trường phổ thông.
Tự học là hình thức học sinh tiếp nhận tri thức bằng phương pháp tự
nghiên cứu.Tự học thường được tiến hành tại gia đình hay thư viện, nhưng cũng
có thể được tiến hành ngay trong các giờ học tại trường.

Nội dung công việc tự học là học bài cũ, chuẩn bị bài mới và làm các bài
tập vận dụng kiến thức và làm các bài tập sáng tạo khác.Tự học có vai trò cực kì
quan trọng, phải nói rằng chất lượng học tập phụ thuộc vào chính việc tự học
của từng học sinh. Khi cả lớp cùng nghe thầy giảng bài, nhưng kết quả học tập
lại rất khác nhau là do khả năng tiếp thu và phương pháp tự học của từng người.
Tự học có kế hoạch, nề nếp sẽ tạo nên thói quen và phong cách làm việc của
từng cá nhân. Tự học giúp cho con người định hướng trong thời đại thông tin
bùng nổ. Có kĩ năng tự học sẽ giúp cho con người khả năng hoàn thiện mình
trong cả cuộc đời. Ngày nay nổi lên các vấn đề : học thường xuyên, học suốt đời
thì tự học chính là sợi chỉ trung tâm.
4. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Hiện nay trong công tác chuyên môn của mỗi nhà trường việc đổi mới
phương pháp dạy học đang là vấn đề được quan tâm. Một trong những định
hướng trong đổi mới phương pháp dạy học là: Đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát triển năng lực tự học của học sinh.
Muốn việc đổi mới phương pháp dạy học thực sự có hiệu quả cần phải
hướng vào việc phát huy cao độ năng lực tự học của học sinh, phải kích thích và
tạo động lực cho tự học : dạy học phải lấy tự học làm mục tiêu và làm động lực.
5. Vai trò của hướng dẫn tự học cho học sinh của giáo viên:
-Góp phần nâng cao thống nhất hoạt động giữa thầy và trò .
-Góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động học tập, rèn luyện của
học sinh.
-Học sinh tích cực trong các hoạt động tự học sẽ hạn chế được những ảnh
hưởng tiêu cực ,những tác động không lành mạnh từ bên ngoài.
2
B. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐÈ
1. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của hoạt động tự học
Kết hợp với GVCN đầu năm học 2012-2013 tôi đã tiến hành khảo sát 130
học sinh tại các lớp tôi phụ trách giảng dạy về nhận thức của học sinh về tầm
quan trọng của hoạt động tự học tôi đã nhận được kết quả sau :

Lớp tham gia
khảo sát
Mức độ
LỚP 10B6
(46HS )
LỚP 11A2
(44 HS )
LỚP 12C6
(40 HS )
Số lượng % Số
lượng
% Số
lượng
%
RẤT QUAN RỌNG 6 HS 13,0 9 HS 20,5 4 HS 10
QUAN TRỌNG 9 HS 19,6 14 HS 31,8 8 HS 20
BÌNH THƯỜNG 24 HS 52,2 18 HS 40,9 20 HS 50
KHÔNGQUANTRỌNG 7 HS 15,2 3 HS 6,8 8 HS 20
Bảng 1: Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của hoạt động tự học
2.Thực trạng của việc tự học của học sinh các lớp
Để việc học tập có hiệu quả thì điều cơ bản nhất là phải biết tự học.Quả
thật không một người thầy nào có thể nhồi nhét kiến thức vào đầu học sinh nếu
học sinh ấy không muốn học.
Về lí thuyết ai cũng có thể nhận thấy những điều trên nhưng chúng ta hãy
thẳng thắn nhìn vào thực trạng hiện nay xem việc tự học của học sinh đang diễn
ra ở mức độ nào.
2.1 Thuận lợi
- Nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển khiến cho các em học sinh sớm
được tiếp thu các tiến bộ của khoa học, học sinh trở nên năng động hơn.
- Môi trường học tập tại trường ngày càng được đầu tư và quan tâm một

cách thích đáng kể cả về văn hóa cũng như các hoạt động vui chơi .
- Đội ngũ giáo viên giảng dạy nhiệt tình, tâm huyết với nghề.
- Gia đình học sinh ngày càng có điều kiện và quan tâm đến việc học tập
của con em mình.
2.2 Khó khăn
- Điểm đầu vào của học sinh nhà trường còn chưa cao.
- Các em còn thiếu chủ động trong các hoạt động học tập và các hoạt động
ngoài giờ học.
* Ở mỗi bài học phần lớn học sinh đều nắm bắt được nội dung bài mới
nhờ sự truyền đạt của thầy cô giáo mà không có sự chuẩn bị trước. Dẫn đến tình
trạng nếu đó là một bài dài, có nhiều kiến thức, thời gian phân phân phối ít tiết
các em thường lo sợ vì tiếp thu không kịp hoặc không hiểu.
* Học sinh thường chỉ hay làm được các bài tập theo một khuôn mẫu nhất
định. Nên dẫn đến tình trạng dù là một bài tập đã làm rồi nhưng đề bài được
trình bày theo một cách khác cũng có thể làm các em lúng túng.
3
* Với mỗi bài toán các em thường chỉ có một mục đích là làm thế nào để
ra được đáp án, thường không chú ý đến việc tìm ra cách khác nữa hay phải
trình bày bài như thế nào cho logic và mọi người đều hiểu.
* Rất ít học sinh có thể trình bày một vấn đề nào đó trước lớp được một
cách lưu loát (dù là trình bày về bản thân ).Các em thường chưa biết cách bày tỏ
ý kiến hay quan điểm của mình trước một vấn đề của bài học.
* Hiểu sai về động cơ và mục đích của việc học tập. Nhiều em cho rằng
học là để lấy điểm cao. Và chỉ cần đi học thêm thật nhiều, đặc biệt là học tại nhà
thầy, cô thì sẽ được điểm cao trong các kì kiểm tra.
* Một bộ phận không nhỏ học sinh(và cả phụ huynh) còn có tư tưởng giao
phó việc học, kết quả học tập cho thầy cô. Thói quen học tập thụ động, ngại suy
nghĩ, động não, lệ thuộc vào thầy cô đã thành “ đường mòn” trong cách học của
các em từ cấp tiểu học.
* Phong trào học thêm ngoài nhà trường một cách tràn lan vẫn còn tồn tại,

và các em bị cuốn vào đó nếu không được định hướng đúng đắn. Nhiều em học
ngày, học đêm, và vì thế không còn thời gian cho việc tự học.
* Các chương trình truyền hình yêu thích hay các loại tài liệu được các
em lựa chọn đọc phần lớn mang tính giải trí . Các em ít có nhu cầu xem các
chương trình phục vụ cho việc học tập hay nâng cao hiểu biết xã hội.
* Các hoạt động ngoài giờ lên lớp học sinh tham gia một cách thụ động
thầy cô giáo tổ chức hoạt động gì, yêu cầu học sinh làm thế nào thì học sinh làm
đúng như thế.
3. Thực trạng của việc hướng dẫn tự học cho học sinh của giáo viên
3.1 Thuận lợi :
* Phần lớn giáo viên đều nhận thấy việc hướng dẫn tự học cho học sinh là
quan trọng.
* Các giáo viên đều nhiệt tình trong công tác giảng dạy.
* Đội ngũ giáo viên có khả năng chuyên môn từ khá trở lên, tích cực tham
gia các hoạt động bồi dưỡng và tự bồi dưỡng chuyên môn.
3.2 Khó khăn
* Bản thân nhiều tiết dạy của giáo viên vẫn chưa phát huy tính tích cực
của học sinh. Một trong những thể hiện rõ nhất là trong việc soạn giáo án hệ
thống câu hỏi còn mang tính hình thức, chưa có tính gợi mở hay đòi hỏi học sinh
phải tích cực suy nghĩ.
* Còn có giáo viên chưa thực sự tận tình trong việc hướng dẫn học sinh tự
học, hoặc không tin tưởng vào hiệu quả của việc hướng dẫn tự học cho học sinh.
* Các giáo viên có ý thức hướng dẫn hoạt động tự học cho học sinh phần
lớn làm theo kinh nghiệm chủ quan của đồng nghiệp, của bản thân nên thiếu tính
hệ thống, chặt chẽ.
4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của học sinh
Để xem xét về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của học
sinh tôi đã tham khảo từ các tài liệu cũng như ý kiến từ các đồng nghiệp để lập
4
thành phiếu và lấy ý kiến 100 hs từ các lớp do tôi phụ trách giảng dạy và tôi đã

có được kết quả như sau :
STT Những yếu tố ảnh hưởng đến
tự học
Mức độ quan trọng
(%)
Mức độ thực hiện (%)
Quan
trọng
nhất

quan
trọng
Không
quan
trọng
Khó
nhất

khó
khăn
Không
khó
khăn
1 Phong trào thi đua học tập
trong lớp
10 40 50 10 54 36
2 Xác định mục đích, động cơ
học tập
38 46 16 49 42 9
3 Thầy (cô) giảng dạy động viên 26 30 44 24 34 42

4 Nhu cầu tự học 54 46 0 60 32 8
5 Ý chí, nghị lực của người học 80 20 0 58 32 10
6 Có kĩ năng ,phương pháp tự
học
44 56 0 55 38 7
7 Điều kiện (tài liệu,không gian
để học )
34 64 2 34 48 18
8 Thời gian cho tự học ngoài giờ
lên lớp
18 64 18 46 26 28
9 Thầy (cô) kiểm tra đánh giá
vào những phần tự học
30 58 12 56 28 16
10 Thầy (cô) hướng dẫn cách tự
học và rèn luyện kĩ năng, phát
triển động cơ tự học
24 74 2 46 39 15
Bảng 2: Những yếu tố ảnh hưởng đến tự học
C. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để giải quyết được “ bài toán” : phát huy năng lực tự học của học sinh
thực sự không phải là một việc đơn giản, không phải một ngày, hai ngày hay
một lần, hai lần là làm được mà phải là một quá trình lâu dài với cả thày và trò.
Theo ý kiến của tôi hãy bắt đầu từ người thày. Có thể đây mới chỉ là suy nghĩ
chủ quan của tôi nhưng tôi vẫn cho rằng học sinh chưa biết cách tự học có thể vì
bản thân người thày chưa dạy đúng cách, chưa hướng dẫn học sinh học đúng
5
cách, chưa kích thích được trí tò mò, sự ham tìm hiểu cái mới lạ của học sinh khi
các em tham gia học tập.Vậy nên làm thế nào ? Theo tôi :
1. Với vai trò là giáo viên bộ môn

1.1 Nâng cao tầm nhận thức của học sinh về nhiệm vụ tự học.Các em
phải hiểu được mỗi học sinh dù khả năng tiếp thu có khác nhau nhưng điều đó
không đóng vai trò quyết định trong việc một học sinh học tốt hay không.Nếu
học sinh nào có khả năng tiếp thu tốt nhưng không được thường xuyên tự học,
tự bồi dưỡng chỉ ỉ lại vào người thầy thì các kiến thức đó cũng mai một.
1.2 Thiết kế bài dạy sao cho đảm bảo các kiến thức cơ bản, phù hợp với
đối tượng. Đặc biệt trong khâu soạn giáo án GV phải có hệ thống câu hỏi đáp
ứng được những yêu cầu như : phải phù hợp đối tượng; gây hứng thú trong học
tập cho học sinh; đòi hỏi sự tích cực suy nghĩ của học sinh tránh những câu hỏi
nhàm chán soạn để cho có. Bỏ thói quen đọc chép, truyền thụ một chiều.
Chẳng hạn, khi dạy định lí về dấu của tam thức bậc 2 tôi không dạy theo
cách nêu định lí rồi chứng minh mà tìm cách hướng dẫn học sinh tiếp cận, xây
dựng định lí bằng hệ thống các câu hỏi có tính dẫn dắt, gợi mở kết hợp với việc
sử dụng phương tiện dạy học hiện đại. Cụ thể: Tôi chia làm 3 trường hợp để dẫn
dắt học sinh : trường hợp
0∆ <
; trường hợp
0∆ =
; và trường hợp
0∆ >
;
* Với trường hợp
0∆ <
tôi trình chiếu cho học sinh quan sát đồ thị của hàm
số bậc 2:
2
( )f x ax bx c= + +
khi a > 0 và khi a < 0
Tiếp theo đặt các câu hỏi :
+ Em hãy nêu kết luận của mình về dấu của biểu thức f(x)?

+ Từ đó, em hãy nhận xét mối quan hệ về dấu của biểu thức f(x) và dấu
của hệ số a ?
Học sinh sau khi quan sát đồ thị, trả lời câu hỏi sẽ rút ra được kết luận: Khi
0∆ <
thì a.f(x) > 0 với
x∀ ∈¡
* Làm tương tự cho 2 trường hợp còn lại :
0∆ =
; và
0∆ >
;
* Cuối cùng cho học sinh tổng hợp lại kết luận của cả 3 trường hợp, đó
chính là nội dung của định lí về dấu của tam thức bậc 2.
Để làm được việc này người giáo viên cũng phải tích cực tự học, tự bồi
dưỡng nâng cao trình độ bản thân, học hỏi từ kinh nghiệm đồng nghiệp, từ các
tài liệu tham khảo…
1.3 Tổ chức giờ học cần tạo không khí học tập hào hứng tránh nhàm
chán buồn tẻ. Người giáo viên khi dạy cần có thói quen theo dõi nét mặt người
học để nắm bắt khả năng tiếp thu của người học để có những điều chỉnh phù
hợp. Với tôi những lúc cảm thấy học sinh có vẻ mệt mỏi, uể oải, tôi thường
dừng lại kể một mẩu chuyện vui về một nhà toán học. Hoặc trước một câu hỏi
khó, một vấn đề khó tôi thường chuẩn bị thêm những câu hỏi dễ hơn mang tính
chất gợi ý, dẫn dắt để đưa ra trong trường hợp thấy các em chưa tích cực suy
nghĩ, thảo luận. Cũng có thể đưa ra một câu nói để kích thích sự suy nghĩ, để
khuấy động không khí học tập. Chẳng hạn, vào tình huống đó tôi sẽ nói: “ Hôm
nay, có một điều đặc biệt, cô có một món quà, em nào muốn trở thành chủ nhân
của món quà đó ??? Chủ nhân của món quà là người nào trả lời được câu hỏi mà
6
cô vừa đưa ra”. Không khí của lớp học sẽ trở nên sôi nổi, và sau đó là những ý
kiến, những câu trả lời. Vấn đề được giải quyết và tất nhiên sau đó là phần “trao

qùa”(món qùa của tôi có thể là một điểm 10, cũng có thể là một tràng pháo tay
của cả lớp ) .
1.4 Gắn các nội dung dạy học trên lớp với các yêu cầu của nhiệm vụ tự
học , tăng cường giao nhiệm vụ cho học sinh tự học.Nội dung tự học giao cho
học sinh cần phải phù hợp với khả năng thực tế của các em .
Chẳng hạn, như ở chương “ Thống kê ” - lớp 10,chương “ Tổ hợp và xác
suất ’’ - lớp 11, tôi yêu cầu các em tự nghiên cứu phần hướng dẫn sử dụng máy
tính bỏ túi trong tính toán, và các em đã làm rất tốt phần việc này.
1.5 Thay đổi cách kiểm tra học sinh. Trong việc kiểm tra bài cũ hàng
ngày cũng như các bài kiểm tra viết tránh kiểm tra theo kiểu thuộc –chép. Tăng
cường kiểm tra có gắn với các nội dung tự học.
1.6 Hướng dẫn học sinh tự học. Để hình thành thói quen học tập có
phương pháp, biết tự học của học sinh người giáo viên phải tỉ mỉ, giải thích cho
học sinh hiểu tác dụng, ý nghĩa của việc tự học, kiên trì hướng dẫn học sinh các
thao tác, quy trình nhất định :
1.6a Hướng dẫn quy trình chung cho việc tổ chức hoạt động tự học
của học sinh.
• Lập kế hoạch tự học
+ Học phân môn gì ? nội dung nào ? Thời gian nào ?
+ Dự kiến học ở đâu ? Học một mình hay với một nhóm?
+ Nguồn tài liệu dự kiến lấy ở đâu( Tự có? Mượn bạn bè? Mượn thư viện
hay các nguồn khác)
• Tổ chức quá trình tự học
+ Lựa chọn tài liệu phù hợp .
+Tìm ra các ý chính, ý quan trọng của các tài liệu đã đọc, đã nghe .
+ Ghi chép các ý cần thiết.
+ Viết tóm tắt lại, trình bày dưới dạng đề cương .
+ Tra cứu sách tham khảo.
……………………………………….
• Tự kiểm tra đánh giá

+ Thảo luận cùng bạn bè để tự kiểm tra kiến thức bản thân
+ Trình bày ý kiến trước mọi người
+ Hướng dẫn người khác để bản thân nắm vững bài hơn và rèn luyện khả
năng truyền đạt.
1.6b Hướng dẫn học sinh tự chuẩn bị bài mới
- Yêu cầu cụ thể với các kiến thức cũ học sinh cần ôn tập lại. Nếu cần
thiết phải chỉ ra những kiến thức đó ở tài liệu nào ? Ở đâu ? Tránh đưa ra quá
nhiều vấn đề , hoặc những phần ở những tài liệu khó tìm.
Chẳng hạn, khi dạy bài “Mặt cầu” trong chương trình toán 12 vì đây là
một bài có nhiều vận dụng chương trình toán lớp dưới nên tôi đưa ra một hệ
thống vấn đề yêu cầu các em chuẩn bị trước:
7
? Xem lại định nghĩa đường tròn ở toán 9
? Xem lại SGK 11 hình học bài “véc tơ trong không gian” , và bài “Khoảng
cách” để kiểm tra các kết quả bài toán : “Cho tứ diện đều ABCD cạnh a với
trọng tâm G:
?
=+++
GDGCGBGA
Tính GA, GB, GC, GD theo a”
? Xem lại “Khái niệm trục đường tròn ngoại tiếp một đa giác” trong bài
“ Đường thẳng vuông góc với mp”
- Yêu cầu học sinh đọc trước bài mới ( không cần ghi nhớ ) để xem bài
học mới có những nội dung chính gì? Những kiến thức cũ được vận dụng ở đâu?
Chẳng hạn, trong bài “Đường tiệm cận của đồ thị hàm số” nếu đọc trước
các em có thể hoàn toàn chủ động trong giờ học vì phần lớn các kiến thức trong
bài là vận dụng kiến thức tìm giới hạn các dạng vô định đã học ở lớp 11.
- Đánh dấu những vấn đề theo cảm nhận là khó để đến lớp tập trung hơn,
và nếu tiếp tục chưa hiểu thì tham khảo ý kiến bạn bè hoặc hỏi lại thầy cô giáo.
Chẳng hạn, để chuẩn bị cho học bài “Bất đẳng thức” trong chương trình

toán lớp 10 , tôi không yêu cầu các em tự ôn tập lại lí thuyết cũ mà giao cho
các em một phần bài tập trắc nghiệm trong đó vận dụng các tính chất của bất
đẳng thức mà các em đã học để về làm và yêu cầu các em giải thích sự lựa
chọn của mình . Đến lớp đầu giờ yêu cầu các em tự kiểm tra lẫn nhau. Những
phần nào chưa thực sự rõ hãy đánh dấu để sau đó cả lớp thảo luận trong quá
trình giờ học. Rõ ràng như vậy khi đến lớp các em rất tập trung vào bài và hứng
thú học tập.
1.6c Hướng dẫn học sinh tự học bài cũ
- Tự tóm tắt lại phần lí thuyết trọng tâm của bài. Xem lại kĩ các vấn đề
của lí thuyết, không để tình trạng vừa làm bài tập vừa xem lí thuyết.
- Đọc qua tất cả các bài tập trong sách giáo khoa.
- Phân ra các dạng bài tập theo những chủ đề dự kiến.
- Làm từng nhóm bài tập như đã chia. Với mỗi bài nên suy nghĩ các
hướng làm khác nhau . Có thể làm bằng nhiều cách vào vở.
- Phải trình bày bài một cách logic, khoa học, dễ hiểu để không chỉ bản
thân hiểu mà người khác phải hiểu được .
Việc làm này không phải học sinh nào cũng làm được chính vì thế ở
nhưng tiết học bài tập đầu tiên tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt lại lí thuyết
trọng tâm, phân loại bài tập, rồi làm bài tập theo chủ đề chứ không phải lần lượt
từ đầu đến hết.
Đặc biệt với các học sinh yếu tôi luôn yêu cầu ở những tiết đến thư viện
các em học tập theo nhóm để ngoài việc học tập độc lập một mình ở nhà các
em có thể tham khảo hoặc hỏi ý kiến các bạn khá hơn.
1.6d Hướng dẫn học sinh tổng kết một chương học.
Sách giáo khoa hiện nay viết để cho học sinh cũng tự nghiên cứu được.
Sau mỗi chương học tôi đều yêu cầu học sinh hãy tự tổng kết lại hệ thống lí
thuyết đã học trong chương theo gợi ý sách giáo khoa. Tự kiểm tra lại việc nắm
lí thuyết của mình qua hệ thống câu hỏi tự kiểm tra trong sách giáo khoa. Hệ
8
thống, phân dạng bài tập trong bài ôn tập chương, nhớ lại cách giải đối với mỗi

dạng bài tập đó. Tự làm các bài tập củng cố trong sách giáo khoa và sách bài
tập .
1.6e Hướng dẫn học sinh tự học tại lớp
- Tích cực suy nghĩ tham gia xây dựng bài mới để tự kiểm tra khả năng
nắm bắt kiến thức. Không nên có thái độ tự ti, sợ sai .
- Mạnh dạn trao đổi các phương pháp làm bài của mình với thầy cô và
các bạn.
- Khuyến khích học sinh tự đánh giá kết quả học tập và đánh giá lẫn
nhau. Bởi vì trên thực tế khi chữa bài các em thường chủ quan cho rằng bài làm
của mình ra kết quả đúng là tốt rồi không cần quan tâm nữa. Vì vậy lúc đầu
giáo viên phải bỏ thời gian để chỉ ra, phân tích những lỗi mà các em vẫn coi
thường nhưng có thể làm thay đổi kết quả từ một bài tưởng là làm đúng nhưng
lại là sai.Ví dụ như lỗi khi các em dùng dấu

và dấu

hoặc đơn giản hơn là
các phép biến đổi thiếu dấu
( )
.
- Biết nghe giảng, ghi chép độc lập .
- Tăng cường các hoạt động nhóm: thảo luận nhóm, thảo luận cặp đôi,
tranh luận……
Để có thể làm được như vậy mỗi bài học từ khâu thiết kế bài dạy người
giáo viên phải biên soạn nội dung cho phù hợp, các câu hỏi đặt ra phải có tính
gợi mở, vừa sức không có tính chất đánh đố. Những lúc phù hợp giáo viên cần
đưa ra những lời khen ngợi để động viên tinh thần học tập của các em.
1.6f Hướng dẫn học sinh tự học ngoài lớp học
- Giáo viên có thể giới thiệu sách tham khảo cho học sinh.
Chẳng hạn, ở một số lớp khối 10 nhóm toán 10 chúng tôi đã thống nhất

lựa chọn hai bộ toán để giới thiệu cho học sinh : “Các dạng toán và phương
pháp giải hình học, đại số 10” – Nguyễn Hữu Ngọc; và “ Bài tập trắc nghiệm
và các đề kiểm tra đại số, hình học 10” – Văn Như Cương, Phạm Thị Luyến.
Và tiếp theo là cuốn “Kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì môn toán” –
Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Thế Thạch chủ biên. Với lớp 12 tùy theo từng
chuyên đề tôi sẽ cố gắng giới thiệu cho các em sách tham khảo. Ví dụ như ôn
tập về tích phân tôi giới thiệu cuốn : ‘‘ Phương pháp giải bài tập trắc nghiệm
toán TÍCH PHÂN 12’’ –TS Huỳnh Công Thái , TS Nguyễn Hà Thanh … Hay
nếu các em muốn làm bài tổng hợp các em có thể tham khảo cuốn “ Giới thiệu
đề thi tuyển sinh vào đại học – cao đẳng môn toán từ năm 2002-2003 đến nay”
-Trần Tuấn Điệp –Ngô Long Hậu – Nguyễn Phú Trường….
- Tăng cường tự học bằng cách đọc các loại sách báo, xem truyền hình,
mạng internet, các phần mềm điện tử,… phục vụ cho học tập và nâng cao kiến
thức xã hội .
- Khuyến khích các em nên tăng cường tự kiểm tra các kiến thức đã được
học của bản thân qua thảo luận cùng bạn bè, hay qua các chương trình học tập,
kiểm tra trực tuyến trên mạng.
9
- Đối với học sinh học tập ở mức độ trung bình hoặc yếu tôi chỉ yêu cầu
các em tự học bằng cách tự giác làm hết các bài tập do giáo viên đưa ra trong
sách giáo khoa, sách bài tập, hoặc động viên các em tham gia các lớp học phụ
đạo vì ở đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên các em có thể sẽ dần hình thành
được khả năng tự học.
1.7 Người giáo viên quan tâm đến phương pháp tự học của học sinh
- Có rất nhiều học sinh trong ý thức các em cũng luôn cố gắng trong việc
tự học nhưng chưa đúng cách.Đặc biệt là các học sinh khối 12 ,có những em rất
tự hào kể rằng buổi tối em thường đi ngủ đến 10 giờ sau đó thức dậy học cho
đến 3-4 giờ sáng rồi lại đi ngủ tiếp. Nhưng em học sinh đó không nhận ra rằng
lúc đến lớp em đã tiếp thu bài một cách uể oải và lúc nào em cũng ở tình trạng
mệt mỏi. Vì vậy ngoài bố mẹ , giáo viên nên phân tích để em có kế hoạch học

tập hợp lí hơn để có thể thực hiện lâu dài và không ảnh hưởng đến sức khỏe.
- Khi giao nhiệm vụ tự học cho học sinh giáo viên cần kiểm tra lại việc
thực hiện của học sinh rồi đánh giá việc thực hiện đó dưới nhiều hình thức, ví dụ
kiểm tra trực tiếp xem học sinh có chuẩn bị phần việc được giao không ? kiểm
tra thông qua bài viết sự hiểu biết về nội dung đã làm…. Không để tình trạng
giao xong việc cho các em rồi để đấy không có sự kiểm tra lại.
1.8 Người giáo viên cần quan tâm đến thái độ của học sinh. Mọi biện
pháp mà người giáo viên muốn thực hiện sẽ không có hiệu quả nếu không biết
người tiếp nhận các biện pháp đấy có khả năng thực hiện đến đâu. Chính vì vậy
với các lớp tôi tham gia giảng dạy, dù không là giáo viên chủ nhiệm, nhưng
trong trường hợp nếu thấy lớp học bộ môn toán có chiều hướng đi xuống hay
các em có thái độ chểnh mảng bao giờ tôi cũng yêu cầu học sinh mạnh dạn đề
xuất ý kiến hay viết phiếu nêu ý kiến. Nhưng việc này dễ trở nên hình thức
không có hiệu quả nếu người giáo viên về mặt tình cảm không đủ độ tin cậy với
học sinh.
1.9 Người giáo viên chính là tấm gương sáng cho học sinh về tinh thần
tự học ,tự bồi dưỡng. Đấy cũng chính là trách nhiệm đối với học sinh và đối với
nghề.
2. Với vai trò là một giáo viên chủ nhiệm .
2.1 Tổ chức và phát động các phong trào thi đua học tập trong lớp. Hàng
tuần tổ chức nhận xét. Cuối mỗi tháng hoặc cuối kì học tổ chức cho các em tự
bình bầu khen thưởng nhằm tạo động lực cho các em thi đua học tập.Cần có
nhiều hình thức khen thưởng để có thể động viên nhiều đối tượng học sinh trong
lớp.( Ví dụ từ kết quả theo dõi của tổ, của lớp, của GVCN tôi cho lớp thực hiện
bình bầu khen thưởng học sinh xuất sắc nhất, ngoài ra còn bình bầu thành viên
có tiến bộ nhất trong tháng).
2.2 Cử cán bộ phụ trách từng phân môn. Yêu cầu mỗi tháng tổ chức trao
đổi phương pháp học tập của một chuyên đề đang học hoặc tổ chức thi tìm hiểu
kiến thức của chuyên đề đó dưới hình thức có thể như cuộc thi Olympia trên
truyền hình với mục đích các em được học tập cách tổ chức một chương trình,

cách trình bày diễn đạt trước đám đông; được trao đổi kinh nghiệm học tập với
10
bạn bè. Với mỗi chương trình này giáo viên yêu cầu học sinh chủ động tổ chức
nhưng vẫn phải hướng dẫn, kiểm tra chương trình .
Ví dụ : Tôi đã hướng dẫn cho lớp chủ nhiệm 11A2 tổ chức cuộc thi “ Nhà
toán học tuổi trẻ”
* Yêu cầu cán bộ phụ trách bộ môn phân công nhiệm vụ cho từng
nhóm(Chuẩn bị nội dung; Chuẩn bị trang trí ; Dẫn chương trình ; Chuẩn bị phần
thưởng ).
* Yêu cầu học sinh tìm tài liệu tham khảo (Toán học- Chìa khóa vàng –
Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội ; Cuộc thi nhà toán học tuổi trẻ - TS
Nguyễn Viết Đông…- Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh …).
* Yêu cầu học sinh lựa chọn các phần kiến thức phù hợp với chương trình
học.
* Yêu cầu học sinh lập dàn ý xây dựng chương trình .
* Giáo viên duyệt qua dàn ý
* Học sinh hoàn thiện chương trình . Giáo viên kiểm tra lại .
* Tổ chức thực hiện chương trình.
2.3 Hướng dẫn, cố vấn cho lớp chủ nhiệm tham gia tốt và có chất lượng
các hoạt động nhằm nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu như: Viết bảng tin
học tập, viết sáng kiến kinh nghiệm học tập về lĩnh vực Toán học.
2.4 Cùng học sinh tổ chức các hoạt động ngoài giờ khác nhằm thay đổi
không khí lớp học, tạo sự thoải mái nâng cao tinh thần học tập cho các em. Đây
cũng là cơ hội để các em được thể hiện năng lực của bản thân một cách thoải
mái không nhất thiết phải theo một khuôn khổ nào.
- Ví dụ : Trong tháng 11-2012 cùng với ban cán sự lớp tôi đã tổ chức cho lớp
một hoạt động : yêu cầu học sinh tự tìm tài liệu, và viết bài theo một chủ đề các
em yêu thích, quan tâm sau đó trình bày trước lớp. Tôi đã nhận được sự hưởng
ứng nhiệt tình của các em, và đã có những bài viết rất có chất lượng:
+ Bài viết về mái trường THPT Lam Kinh.

+ Bài viết về mảnh đất Lam Sơn lịch sử.
+ Bài viết nói lên tình cảm của các em với thầy cô.
+ Bài viết về những tệ nạn của tuổi trẻ học đường và những bài học kinh
nghiệm.
Sau khi tổ chức hoạt động này tôi nhận thấy các em đã phát huy được năng
lực tự tìm tòi, nghiên cứu, có tới hơn 30 hs tích cực lên thư viện tìm đọc các
nguồn tài liệu. Hơn 20 hs có tiến bộ trong kĩ năng phân tích, tổng hợp và trình
bày một vấn đề trước lớp.
2.5 Kết hợp với BGH nhà trường , ĐTN tổ chức các hoạt động học tập
vui chơi khác như : Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề từng
tháng, cuộc thi rung chuông vàng để học sinh được thể hiện sự năng động, tích
cực trong các hoạt động chung. Điều này sẽ giúp các em có tình cảm, thêm gắn
bó với trường, lớp. Từ đó tạo nên sự yêu thích, tạo nên động lực cho các em
trong học tập.
11
2.6 Kết hợp với phụ huynh học sinh để kiểm tra đánh giá việc tự học ở
nhà của học sinh.
D. KIỂM NGHIỆM
Đối với học sinh lớp tôi chủ nhiệm và học sinh các lớp tôi phụ trách giảng
dạy tôi thấy rằng hiệu quả rất khả quan, các em đã rất tích cực chủ động trong
học tập và hào hứng với các nhiệm vụ tự học. Thói quen học tập phải lệ thuộc
hoàn toàn vào thầy, cô, không có sự chủ động, sáng tạo đã dần dần được phá bỏ.
Riêng ở lớp 11A2 các em còn rất tích cực trong việc tự kiểm tra kết quả học tập
đặc biệt là tích cực tham gia kiểm tra trực tuyến trên mạng .
Để đánh giá ý thức tự học và kết quả tự học của các em tôi đã tiến hành
kiểm tra các em trên các phương diện: Học bài cũ và làm các phần việc mà giáo
viên giao về nhà; Chuẩn bị bài mới. Và sau đây là kết quả khảo sát về số học
sinh tại 3 lớp tôi dạy có ý thức tự học và tự học có hiệu quả trước và sau khi tôi
áp dụng đề tài của mình:


Lớp Sĩ số Trước khi áp dụng đề tài Sau khi áp dụng đề tài
10B6 46 15 HS (32,6 %) 35 HS (76,1 %)
11A2 44 21 HS (47,7 %) 39 HS (88,6 %)
12C6 40 12 HS (30,0 %) 25 HS (62,5 %)
Phát huy được năng lực tự học của học sinh cũng góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học. Tại các lớp do tôi phụ trách giảng dạy chất lượng học tập của
học sinh đều tăng so với năm học trước.Cụ thể:
Lớp Năm học

số
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ
Số
lượng
Tỉ
lệ
12c6 2011-2012 40 0 0 11 27,5 16 40 13 32,5
2012-2013 40 0 0 12 30 25 62,5 3 7,5
11a2 2011-2012 44 8 18,2 18 40,9 13 29,5 5 11,4

2012-2013 44 11 25 18 40,9 15 34,1 0 0
10b6
Học kì 1
46 0 0 9 19,6 11 23,9 26 56,5
Học kì 2
46 0 0 13 28,3 19 41,3 14 30,4
12
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Qua SKKN này tôi đã cố gắng đưa ra được các nội dung sau:
* Cơ sở lí luận của vấn đề.
* Thực trạng của vấn đề .
* Các biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh
+ Tạo động lực, nêu ý nghĩa của việc tự học cho học sinh .
+ Hướng dẫn học sinh tự học trong học tập cũng như các hoạt động khác.
+ Giáo viên đổi mới cách dạy, cách soạn bài.
+ Đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh.
+ Giáo viên cần quan tâm đến thái độ, tình cảm của người học.
+ Phối kết hợp với các tổ chức khác ( BGH nhà trường; ĐTN nhà trường;
PHHS trong lớp …)
2, Đề xuất
* Với Sở GD &ĐT
+ Cần tổ chức nhiều hơn , rộng rãi hơn các cuộc hội thảo về đổi mới
phương pháp dạy học đối với từng bộ môn .
+ Cần giới thiệu rộng rãi các gương mặt điển hình trong việc đổi mới
phương pháp dạy học để các giáo viên khác học hỏi , rút kinh nghiệm.
* Với BGH nhà trường
- Tiếp tục tổ chức nhiều cuộc hội thảo đổi mới phương pháp dạy và học .
- Tổ chức rút kinh nghiệm đối với từng bộ môn.
* Với mỗi giáo viên

Để hình thành được thói quen tự học, tự học có kế hoạch, có phương
pháp cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng của người thầy nó đòi hỏi người thầy :
- Kiên trì , tỉ mỉ , dành nhiều thời gian cho việc này.
- Người giáo viên phải làm cho học sinh hiểu tác dụng của việc tự học .
- Trong mỗi bài dạy người giáo viên phải biên soạn sao có thể phát huy
khả năng tự học của học sinh.
- Có kế hoạch hướng dẫn học sinh tự chuẩn bị bài trên lớp, ở nhà cũng
như ngoài lớp học trong từng bài dạy.
Bản thân tôi tự thấy vì đây là đề tài làm theo kinh nghiệm của bản thân,
nên chưa có tính hệ thống và còn có thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Lê Thị Hương
13
PHẦN IV : TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục (Số tháng 10/2005)( Bài : ĐỂ GIÚP HỌC SINH BIẾT
CÁCH HỌC VÀ BIẾT TỰ HỌC – TS NGUYỄN GIA CẦU ).
2. Phương pháp dạy học – TS Nguyễn Thị Kim Thoa – Khoa sư phạm Đại học
Quốc Gia Hà Nội.
3. Giáo dục học - PGS.TS Phạm Viết Vượng – Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
4. Thông báo kết luận của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT tại hội thảo “ Chỉ đạo quản
lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông ’’- Ngày ban
hành 26/2/2009.
5. Bài giảng : Lý luận dạy học – TS Ngô Thu Dung – Khoa Sư phạm – Đại học

Quốc Gia Hà Nội
14

×