Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN Nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập đọc lớp 4 - 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.65 KB, 22 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY PHÂN MÔN TẬP ĐỌC
LỚP 4 - 5"
1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm học 2010 – 2011, năm học tiếp tục thực hiện chương trình đổi mới giáo dục,
năm học tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động “ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục”. Đổi mới chương trình giáo dục, điều mà giáo viên quan tâm
nhất là thay đổi sách giáo khoa, thay đổi nội dung dạy học sẽ dẫn đến thay đổi cách thức
dạy của thầy và cách thức học của trò. Để chủ động, sáng tạo trong dạy học, nâng cao
nghiệp vụ sư phạm cho bản thân, đòi hỏi người giáo viên phải cập nhật với chương trình
mới, tìm ra những biện pháp dạy học thích hợp.
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng trong nhà trường tiểu học. Môn
Tiếng việt nhằm hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ (nghe,
nói, đọc, viết) và cung cấp những hiểu biết về Tiếng việt, nhằm từng bước giúp các em
làm chủ dần công cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trường; để rèn luyện khả năng giao
tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin trong các môi trường xã hội.
Tiếng việt là môn học công cụ mà trong đó Tập đọc đóng vai trò khởi đầu. Đọc
giúp học sinh có khả năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của nhân loại. Nhờ biết
đọc các em mới có điều kiện để học và tiếp thu các môn học khác. Thông qua môn tập
đọc, không những giúp học sinh phát triển tư duy mà còn bồi dưỡng cho các em những
tình cảm tốt đẹp, góp phần phát triển nhân cách toàn diện. Đọc tốt, sẽ dẫn đến nói tốt, viết
tốt, thực hành tốt mọi hoạt động học của mình.
Vậy làm thế nào để học sinh đọc tốt, đọc hay, đọc diễn cảm? và để giúp học sinh
đọc tốt, giáo viên cần phải làm gì? Có biện pháp gì? Đó là câu hỏi mà bấy lâu nay tôi trăn
2
trở. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi tìm tòi, đúc rút, thấy mình có một số
kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn viết bài viết này.
Mong được sự khích lệ, động viên của các bạn đồng nghiệp, sự đóng góp ý kiến của các


lớp anh chị đi trước, để bài viết thực sự có ích cho các giáo viên đang ngày đêm phục vụ
cho "Sự nghiệp trồng người".
II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.
Trong năm học 2010 – 2011, tôi được phân công và phụ trách lớp 4A.
Lớp gồm có 28 học sinh( nữ 14 em , nam 14 em), các em phần lớn là con gia đình
nông nghiệp, lao động tự do nên bố mẹ ít có điều kiện quan tâm đến các em. Chính vì vậy
chất lượng học sinh trong lớp không đồng đều. Qua đợt kiểm tra đọc đầu năm, tôi rất lo
lắng vì hầu như các em mới chỉ dừng lại ở mức độ đọc đúng, một số học sinh còn đọc
chưa thông, chưa lưu loát, còn ngắc ngứ (em Đạt, em Thu, em Tuấn) Học sinh trong lớp
chưa biết đọc hay, đọc diễn cảm một văn bản”
Sau đây là kết quả tôi khảo sát đầu năm môn tập đọc cụ thể như sau:
Giỏi: 6 em ≈ 21,4 %
Khá: 8 em ≈ 28,6 %
Trung Bình: 11 em ≈ 39 %
Yếu: 3 em ≈ 11 %
Trước tình hình đó, là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi tự đặt ra cho mình phải tìm
ra giải pháp để “ Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh”.
3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TÌM HIỂU MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4
I. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH TẬP ĐỌC LỚP 4
1. Củng cố, phát triển kỹ năng đọc cho học sinh.
Thông qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa
học, trong đó có 45 bài văn xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ, phân môn tập đọc lớp 4 tiếp tục
củng cố nâng cao kỹ năng đọc trơn, đọc thầm đã được phát triển từ các lớp dưới, đồng
thời rèn luyện thêm về kỹ năng đọc diễn cảm (thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc
phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài).
Phân môn tập đọc lớp 4 còn giúp học sinh nâng cao kỹ năng đọc hiểu văn bản như:
Nhận biết về đề tài, cấu trúc của bài, biết cách tóm tắt bài, - phát hiện giá trị của một số

biện pháp nghệ thuật trong các văn bản…
2. Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh.
Nội dung các bài tập đọc trong SGK Tiếng việt lớp 4 phản ánh một số vấn đề cơ
bản về đạo đức, phẩm chất, sở thích… của con người thông qua các hệ thống chủ điểm
của bài góp phần cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người
trong nước và thế giới, ngoài ra học sinh còn được cung cấp thêm về vốn từ ngữ, vốn
diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học…
II. PHÂN BỐ CHƯƠNG TRÌNH PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4
4
Chương trình tập đọc lớp 4 gồm 62 bài tập đọc thuộc 10 chủ điểm. Mỗi chủ điểm
được dạy trong 3 tuần, mỗi tuần có 2 tiết. Ngoài ra còn có các tiết ôn tập, triển khai cụ thể
như sau:
Tập một gồm 5 chủ điểm, học trong 18 tuần
- Tuần 1,2,3: Thương người như thể thương thân (lòng nhân ái)
- Tuần 4, 5, 6: Măng mọc thẳng (Tính trung thực, lòng tự trọng)
- Tuần 7, 8, 9: Trên đôi cánh ước mơ (ước mơ)
- Tuần 11, 12, 13: Có chí thì nên (Nghị lực)
- Tuần 14, 15, 16, 17: Tiếng sáo diều (Vui chơi)
Tập hai gồm 5 chủ điểm, học trong 17 tuần.
- Tuần 19, 20, 21: Người ta là hoa đất (Năng lực, tài trí)
- Tuần 22, 23, 24: Vẻ đẹp muôn màu (óc thẩm mỹ)
- Tuần 25, 26, 27: Những người quả cảm ( lòng dũng cảm)
- Tuần 29, 30, 31: Khám phá thế giới (du lịch, thám hiểm)
- Tuần 32, 33, 34: Tình yêu cuộc sống (lạc quan, yêu đời)
III. QUY TRÌNH DẠY TẬP ĐỌC LỚP 4
A. Kiểm tra bài cũ.
- Giáo viên kiểm tra 2, 3 học sinh đọc thành tiếng bài tập đọc kế trước (có thể là
đoạn, bài)
- Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời về nội dung đoạn đọc hoặc nội dung của
bài.

5
B. Dạy bài mới.
1. Giới thiệu bài: Giới thiệu bằng đồ dùng trực quan… hoặc lời gợi mở nhẹ nhàng, ngắn
gọn.
2. Hướng dẫn luyện đọc và tìm hiểu bài
a. Luyện đọc
- Học sinh khá hoặc giỏi đọc toàn bài, cả lớp đọc thầm
- Học sinh đọc nối tiếp nhau từng đoạn của bài (lần 1): giáo viên chú ý sửa lỗi phát
âm sai của học sinh.
- Học sinh nối tiếp từng đoạn (lần 2) kết hợp đọc chú giải hoặc từ khó, câu khó.
- Học sinh luyện đọc theo cặp
- Học sinh đọc cả bài
- Giáo viên đọc diễn cảm toàn bài: (lưu ý giọng đọc phù hợp từng văn bản).
b. Tìm hiểu bài:
- Giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm, học sinh thảo luận các câu hỏi trong
bài, rút ra từng ý chính, nội dung chính của bài.
- Trong quá trình tìm hiểu bài, có thể cho học sinh đọc thầm hoặc đọc thành tiếng
từng đoạn, kết hợp hỏi câu hỏi của đoạn đó, giải nghĩa những từ ngữ khó hiểu rồi rút ra ý
chính.
3. Luyện đọc diễn cảm
- Phần này giáo viên hướng dẫn học sinh đọc từng đoạn nối tiếp nhau.
- Luyện đọc theo từng đoạn
6
- Luyện đọc học thuộc lòng (nếu có yêu cầu)
- Thi đọc diễn cảm
4. Củng cố, dặn dò
- Học sinh chốt lại ý chính hoặc đại ý của bài.
- Chuẩn bị bài sau.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 4

Để củng cố, nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh, người giáo viên phải có nhiều biện
pháp hướng dẫn đọc với cả nhiều hình thức khác nhau: Đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc
diễn cảm, đọc hiểu. Mỗi hình thức đọc có một yêu cầu khác nhau đòi hỏi giáo viên phải
lưu ý.
I. ĐỌC THÀNH TIẾNG.
- Đọc thành tiếng là một hình thức đọc đòi hỏi giáo viên phải chú ý đến kỹ năng
đọc đúng, nghĩa là phát âm phải chính xác.
Ở hình thức đọc thành tiếng này, đối với học sinh lớp 4 các em thường hay phát âm
sai ở các từ khó, chính vì vậy, giáo viên cần chú ý luyện cho học sinh phát âm chính xác
chữ Quốc ngữ bằng cách khắc phục lỗi phát âm cụ thể ở địa phương mình.
1. Khắc phục lỗi phát âm.
Để khắc phục lỗi phát âm cho học sinh, trước hết giáo viên phải khảo sát nắm được
nguyên nhân phát âm sai của học sinh. Các em thường đọc sai do 2 nguyên nhân sau:
- Sai do phương ngữ
7
- Sai do thói quen
a. Sai do phương ngũ.
- Đối với học sinh nơi tôi dạy nói riêng, với TP nói chung các em thường đọc lẫn
thanh hỏi thanh ngã, hai thanh này các em đều đọc là thanh hỏi hoặc đều là thanh ngã.
Ví dụ: Trong bài “ Văn hay chữ tốt”. Học sinh thường đọc sai ở một số từ như:
nỗi oan / nổi oan
lí lẽ / lí lẻ.
Để khắc phục lỗi này: Trước hết giáo viên phải là người phát âm chuẩn, giáo viên
đọc đúng mẫu – Học sinh lắng nghe để tìm ra sự khác nhau về âm thanh, cao độ của tiếng
có thanh hỏi và tiếng có thanh ngã…(lẽ/lẻ;sẽ/sẻ;nổi/nỗi). Trên cơ sở đó học sinh phát
hiện ra tiếng có thanh ngã phát ra mạnh hơn, âm thanh vang hơn, ngân hơn.
Lưu ý: Luyện đọc tiếng có thanh ngã đứng riêng: sau đó mới luyện phát âm 2 tiếng
có thanh hỏi và thanh ngã đứng liền nhau.
b. Sai do thói quen
Học sinh lớp 4 ở thời kỳ đầu đọc còn sai nhiều lỗi, đó là do các em đọc theo cảm

tính
Ví dụ: Đọc “ Sản xuất” thành “xản xuất”
Cảm ơn → cám ơn…
Để khắc phục lỗi phát âm này, giáo viên phải nhắc nhở học sinh tập trung chú ý
vào bài học, không đọc tuỳ tiện những tiếng hay nói, hay dùng do thói quen. Học sinh
nào đọc sai thì phải cho chính học sinh đó đọc sửa lại, tránh tình trạng giáo viên chỉ ra cái
sai nhưng không cho học sinh đọc lại.
8
Đối với đọc thành tiếng ở lớp 4, yêu cầu các em đọc to, rõ ràng, trôi chảy, đọc đúng
theo từng câu, từng đoạn, từng văn bản. Thực tế cho thấy các em đọc không sai nhiều lỗi
phát âm nhưng về độ rõ ràng trôi chảy thì còn nhiều điều đáng nói. Nhiều em đọc câu còn
rời rạc, từng tiếng ghép lại với nhau, có em còn chưa biết ngắt, nghỉ đúng chỗ. Vì thế
giáo viên phải chú ý đến vấn đề này.
2. Luyện đọc câu văi dài.
Trong các giờ tập đọc, giáo viên nghe học sinh đọc để nhận xét gợi ý, hướng dẫn
không chỉ về cách phát âm, mà còn về ngắt nghỉ hơi, hay tốc độ đọc sao cho phù hợp.
Thực tế cho thấy đây là một vấn đề khó đối với học sinh lớp 4, các em chỉ đọc theo dấu
chấm, dấu phẩy của câu, mà chưa biết ngắt nghỉ ở chỗ nào, có học sinh lại ngừng lại
ngừng nghỉ tự do khiến cho nhiều câu văn trở nên vô nghĩa.
Qua thực tế ở những bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu
dài; có cấu trúc ngữ pháp phức tạp, hoặc mắc lỗi ngay cả ở những câu ngắn vì các em
chưa nắm được quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp giữa các từ. Lúc này, các em thường ngắt
giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện mà không tính đến nghĩa.
Ví dụ: 1: Những đám mây// trắng nhỏ sà xuống cửa kính/ô tô tạo nên cảm giác/
bồng bềnh huyền ảo//
(Đường đi SaPa)
Ví dụ 2: Đêm nay anh đứng gác ở trại. Trăng ngàn và gió núi bao la khiến lòng anh
man mác/ nghĩ đến trung thu và nghĩ tới các em//.
(Trung thu độc lập)
Ở những trường hợp trên bị xem là ngắt giọng sai tạo nên ý nghĩa của câu hoàn

toàn sai lệch so với ý nghĩa vốn có của nó.
9
Vậy nếu như khi dạy gặp phải các trường hợp trên, giáo viên nên yêu cầu học sinh
phân tích quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa của các cụm từ trong câu.
Ở ví dụ 1: Nói đến đám mây trắng nhỏ bay là là xuống khung cửa kính ô tô, tạo nên
một cảm giác đẹp huyền ảo. Vì thế đối với câu trên phải ngắt giọng lại mới đúng:
“ Những đám mây trắng nhỏ/ sà xuống cửa kính ô tô/ tạo nên cảm giác bồng bềnh/
huyền ảo//”.
Từ phân tích trên, chúng ta xác lập được mẫu ngắt giọng đúng cho một bài tập đọc,
đồng thời dự tính được cách đọc không tính đến nghĩa của học sinh. Từ đó giáo viên chỉ
ra những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài. Đối với những bài tập đọc có câu khó, câu
dài thì giáo viên nên ghi các câu đó ra bảng phụ, cho học sinh đọc và hướng dẫn cách
ngắt ngiọng.
Trước khi dạy một bài tập đọc cụ thể. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài, đọc bài
nhiều lần, tìm các lỗi phát âm mà học sinh hay mắc, những câu dài cách ngắt ngiọng phù
hợp nhất, dự tính các chỗ học sinh ngắt giọng sai để có biện pháp giúp học sinh có thói
quen trong việc ngắt giọng.
Để luyện đọc câu văn dài cho học sinh, ngoài việc ngắt giọng phù hợp, giáo viên
còn cần hướng dẫn học sinh cách đọc khi gặp dấu phẩy. Xét về mặt cấu trúc ngữ pháp thì
dấu phẩy có nhiều chức năng khác nhau: Dấu phẩy ngăn cách giữa 2 bộ phận câu đẳng
lập; dấu phẩy ngăn cách giữa các thành phần phụ, dấu phẩy ngăn cách giữa các bộ phận
song song… Thông thường, khi gặp dấu phẩy, học sinh cũng ngắt giọng, thế nhưng học
sinh không phân biệt được thời gian ngừng khi ngắt giọng ở các dấu phẩy có sự khác
nhau. Giáo viên cần luyện cho học sinh có thói quen ngắt giọng ở các dấu phẩy như sau:
10
Thời gian ngừng lâu nhất là khi gặp dấu phẩy ngăn cách giữa 2 bộ phận câu đẳng
lập; sau đó đến dấu phẩy ngăn cách giữa các thành phần phụ, dừng ít nhất ở dấy phẩy
ngăn cách giữa các bộ phận song song.
Ví dụ: Xưa kia, (2) người ta cứ nghĩ rằng, trái đất là trung tâm của vũ trụ (3) đứng
yên một chỗ, (1) còn mặt trời, (3) mặt trăng và muôn vàn vì sao phải quay xung quanh cái

tâm này.
(Dù sao trái đất vẫn quay).
Ở ví dụ trên, thời gian ngừng lâu lần lượt theo các dấu phẩy theo cách đánh số 1, 2,
3.
3. Ngắt nhịp câu thơ
Luyện đọc thơ khác gì với luyện đọc văn xuôi? Hướng dẫn đọc thơ phải thể hiện
được nét đặc trưng của thơ là nhịp, vần, tạo nên nhạc của thơ. Khi đọc thơ, chỗ ngắt nhịp
phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Giáo viên phải chú ý đến đặc điểm của thơ
là hầu như người ta đã lược bỏ các dấu câu dẫn đến tình trạng học sinh ngắt nhịp sai.
Qua thực tế dạy học cho thấy, khi đọc thơ, học sinh mắc lỗi ngắt nhịp sai là do
không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh thường tạo ra sự cân
đối về mặt âm thanh khi đọc từng câu thơ.
Ví dụ: Với thơ 4 tiếng học sinh thường ngắt nhịp 2/2.
Với thơ 5 tiếng, các em sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2. Vì vậy học sinh đã ngắt nhịp sai.
Ví dụ: Người ngắm/trăng soi/ ngoài cửa sổ/
Trăng nhòm/ khe cửa/ ngắm nhà thơ/.
(Hai bài thơ của Bác)
11
Hoặc: Đất tre/ xanh mãi/ xanh màu tre xanh/.
(Tre Việt Nam)
Chính vì vậy khi dạy tập đọc là một bài thơ, giáo viên cần dự tính chỗ học sinh ngắt
sai để xác định chỗ cần luyện ngắt ngiọng. Ví dụ bài “ Tuổi ngựa” có ba câu thơ:
“ Gió xanh miền trung du
Gió hồng vùng đất đỏ
Gió đen hút đại ngàn”
Phải lưu ý về ngắt nhịp vì theo dự tính học sinh sẽ ngắt nhịp “ Gió xanh/ miền
trung du / “ hoặc” Gió hồng / vùng đất đỏ /… Trong khi đó xét về mặt ý nghĩa và lý
thuyết trọng âm, ba câu thơ này đều phải ngắt nhịp 1/4:
“ Gió / xanh miền trung du /
Gió / hồng vùng đất đỏ /

Gió / đen hút đại ngàn /
Ngắt nhịp như trên nhằm tạo chỗ ngừng tập trung sự chú ý của người nghe vào
những từ ngữ sau chỗ ngừng là “xanh”, “hồng” và “đen” lúc này không phải là tính từ
nữa mà đã trở thành động từ nói lên tác dụng, hoạt động của ngọn gió.
Hoàn toàn tương tự, trong bài “ Chợ tết”, giáo viên hướng dẫn ngắt nhịp:
“ Dải mây trắng / đỏ dần lên đỉnh núi/
Sương hồng lam / ôm ấp nóc nhà gianh/
Để tạo chỗ ngừng nhấn mạnh vào “ ôm ấp”, “đỏ” là từ mang trọng âm ngữ nghĩa.
Hoặc lựa chọn cách ngắt nhịp:
12
“Bè đi / chiều thầm thì/
Gỗ lượn đàn / thong thả /
(Bè xuôi sông La)
Mà không ngắt nhịp: “ Bè đi chiều / thầm thì / làm cho 2 câu thơ sống động hơn
nhiều, đối tượng miêu tả nhiều hơn và để không hạn chế thời gian “ Bè đi” mà tạo ra một
kết hợp bất thường “ chiều thầm thì” cho thời gian cất lên thành lời.
Hoặc cũng là cách ngắt nhịp “ Sông La / ơi Sông La” để tiếng gọi Sông La được
ngân dài tha thiết mà cách ngắt nhịp: “sông La ơi, sông La” không thể hiện được.
Hoặc cũng là cách ngắt nhịp “ Sông La / ơi Sông La” để tiếng gọi Sông La được
ngân dài tha thiết mà cách ngắt nhịp: “sông La ơi, sông La” không thể hiện được.
II. ĐỌC THẦM.
Đối với học sinh tiểu học, hình thức đọc thầm chưa được các em áp dụng triệt để.
Các em cũng chưa xác định rõ mục đích của việc đọc thầm. Chính vì thế giáo viên phải
giao nhiệm vụ khi các em đọc.
Ví dụ: đọc thầm theo bạn thì học sinh chỉ theo dõi bằng mắt, dõi theo bạn đọc đến
đâu, dừng lại ở đâu…
- Đọc thầm để tìm hiểu bài thì học sinh lại phải vừa theo dõi đọc, vừa tìm hiểu bài
theo câu hỏi cô giáo yêu cầu…
Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm mục đích định hướng rõ việc
đọc – Hiểu, từng bước hình thành cho các em thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm để

thu nhận thông tin…
13
- Đọc thầm ( lướt) để nắm ý hoặc chọn ý: Giáo viên cần từng bước đề ra nhiệm vụ
hay yêu cầu từ dễ → khó để học sinh làm quen dần với cách đọc thầm nhanh.
Ví dụ: Đọc thầm thật nhanh để phát hiện từ ngữ nào được nhắc lại nhiều lần trong
đoạn văn…
Đối với học sinh lớp 4 , 5, hình thức đọc thầm được sử dụng nhiều trong các giờ tập
đọc, chính vì thế giáo viên cần căn cứ vào nội dung rèn luyện kỹ năng đọc để hướng dẫn
học sinh luyện tập các thao tác thích hợp.
III. ĐỌC DIỄN CẢM.
Đối với học sinh lớp 4, yêu cầu của môn tập đọc không chỉ dừng lại ở mức độ đọc
đúng mà cao hơn là đọc hay, đọc diễn cảm. Thực tế dạy học cho thấy các em chưa thể
hiện được cái hay, cái đẹp của tác phẩm qua giọng đọc của mình. Hầu như các em mới
chỉ đọc to, rõ ràng, trơn tru, không ngắc ngứ… Nắm được điều đó, giáo viên phải có
những biện pháp giúp các em đọc hay trong các giờ tập đọc.
Các loại hình văn bản xuất hiện ở các bài tập đọc lớp 4 thường là các bài văn miêu
tả, truyện, thơ, kịch… Trong đó truyện kể và kịch thường xuất hiện nhiều nhân vật.
Chính vì vậy, để giúp các em đọc hay, điều không thể xem nhẹ là luyện đọc cho học sinh
có giọng đọc phù hợp với nhân vật.
1. Giọng đọc phù hợp với nhân vật.
Sau khi hướng dẫn học sinh luyện đọc, tìm hiểu bài có nghĩa là các em đã nắm
được nội dung bài, hiểu được tính cách của từng nhân vật; từ đó các em đọc diễn cảm thể
hiện giọng đọc của từng nhân vật. Tính cách của nhân vật có khi thể hiện qua lời thoại,
do đó giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc phân vai ( nhiều học sinh cùng đọc).
Ví dụ: Bài “ Chú Đất Nung” (2 tiết), học sinh có thể đọc theo 4 vai như sau:
14
- Giọng người dẫn chuyện: lúc đầu chậm rãi, sau đó hồi hộp, căng thẳng.
- Giọng chàng kị sĩ và công chúa: lo lắng, căng thẳng khi gặp nạn; ngạc nhiên,
khâm phục khi gặp Đất Nung.
- Giọng Đất Nung: thẳng thắn, chân thành, bộc tuệch.

Một yếu tố không thể không nhắc đến đó là việc ngắt giọng, nhấn giọng trong lời
nói của các nhân vật. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh phân biệt từng loại câu theo mục
đích nói để từ đó có cách đọc cho phù hợp. Cụ thể như câu, kể; giọng đọc bình thản, rõ
ràng: Câu hỏi thì đọc cao giọng ở cuối câu, nhấn giọng vào từ cần hỏi. Câu cầu khiến thì
phải đọc dõng dạc hơn, nhấn giọng ở các từ “ra lệnh”. Câu cảm phải thể hiện cảm xúc
của nhân vật đó.
Ví dụ: Giọng to, dõng dạc như ra lệnh khi Dế Mèn quát bọn nhện:
Có phá hết vòng vây đi không?
(Dế Mèn bênh vực kẻ yếu)
Nhưng lại nhỏ nhẹ, tình cảm khi Dế Mèn động viên chi Nhà Trò:
“ Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây!”.
Với các tác phẩm truyện, kịch thì chú ý đến nhân vật, còn các tác phẩm thơ, văn
xuôi thì hướng dẫn học sinh đọc hay cần chú ý điều gì? Đó chính là ngắt giọng, nhấn
giọng ở những từ ngữ cần thiết.
2. Đọc nhấn giọng ở một số từ ngữ
- Để đọc hay, đọc diễn cảm một bài thơ, bài văn, điều đầu tiên là học sinh cần phải
đọc nhiều lần, và hiểu nội dung của bài. Chính vì vậy mà phần luyện đọc diễn cảm bao
giờ cũng đặt sau phần tìm hiểu bài.
15
Một bài văn miêu tả để đọc và lột tả được hết tình cảm của tác giả, đòi hỏi học sinh
đôi khi phải nhập tâm vào bài, cũng có thể coi nỗi lòng, tình cảm của tác giả là của chính
mình, chỉ lưu ý đoạn văn đó, cần nhấn giọng ở các từ ngữ nói lên cảm xúc đó.
Ví dụ: Tuổi thơ của tôi được nâng lên từ nhiều cánh diều.
Chiều chiều, trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tôi hò hét nhau thả diều thi.
Cánh diều mầm mai như cánh bướm. Chúng tôi vui sướng đến phát dại nhìn lên trời.
Tiếng sáo vi vu trầm bổng… như gọi thấp xuống những vì sao sớm.
(Cánh diều tuổi thơ)
Đối với các bài thơ, ngoài cách ngắt nhịp thơ ( đã nói ở phần trên), giáo viên cần
chú ý học sinh cách đọc nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả. Chính việc đọc nhấn giọng đúng,
tốt sẽ làm nên cái hay, cái đẹp của đoạn thơ:

Ví dụ: “ Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu / lại tuyệt vời sâu xa
Thương người / rồi mới thương ta
Yêu nhau / dù mấy cách xa cũng tìm.
Ở hiền / thì lại gặp hiền /
Người ngay / thì được phật / tiên độ trì.
(Truyện cổ nước mình)
Ở phần đọc diễn cảm này, vì không đủ thời gian, nên giáo viên có thể chủ động cho
học sinh luyện đọc một đoạn tiêu biểu; giáo viên nên cho học sinh luyện kĩ một đoạn, cho
được nhiều học sinh luyện, chú ý phần đọc diễn cảm nên tạo cảm giác vui vẻ, hào hứng
trong lớp, kết thúc luyện đọc thường là các bài đọc thi giữa các cá nhân, các nhóm trong
16
lớp. Giáo viên cho học sinh bình chọn bạn đọc hay, nhóm đọc tốt và tuyên dương trước
để các em có sự thi đua, cố gắng trong học tập.
Cũng nằm trong phần đọc diễn cảm, đọc “ Học thuộc lòng” thường được dạy ở các
bài thơ. Hầu hết học sinh đã có ý thức luyện đọc học thuộc lòng ở số các em đã thuộc bài.
Chính vì vậy, giáo viên cần cho học sinh đọc thuộc lòng bằng cách tổ chức cho từng bàn,
từng nhóm từng tổ đọc “ truyền điện” hoặc thi đọc nối tiếp mỗi em một, hai dòng thơ
hoặc một khổ thơ, thi đua xem tổ nào đọc đúng, đọc hay, làm như vậy sẽ tạo cho giờ học
không khí sôi nổi, đỡ nhàm chán.
IV. ĐỌC HIỂU.
Để học sinh đọc hiểu tốt, trước hết giáo viên phải xác định được nội dung đọc hiểu
bao gồm những yếu tố như hiểu nghĩa của từ, tìm được các từ “chìa khóa”, câu “chìa
khóa” của bài, tóm tắt được nội dung của đoạn bài, phát hiện giá trị nội dung của bài.
- Để giúp các em hiểu bài nhanh, nhớ lâu, việc đầu tiên người giáo viên nghĩ đến là
cách tổ chức hoạt động này như thế nào cho phù hợp. Theo tôi giáo viên nên cho học sinh
thảo luận theo cặp hoặc theo nhóm các câu hỏi của bài, cùng nhau tìm ra ở các đoạn của
bài, ý chính của từng đoạn; hoặc cho từng nhóm đọc thầm từng đoạn – nhóm này đặt câu
hỏi cho nhóm kia trả lời cuối cùng tìm ra đại ý của bài.
- Việc thứ hai người giáo viên cần chú ý là hệ thống câu hỏi cuối bài. Giáo viên nên

phân loại câu hỏi dễ/ câu hỏi khó; câu hỏi dài / câu hỏi diễn đạt không rõ ràng. Giáo viên
không nên phụ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi; chúng ta có thể cắt bớt nếu nó quá dài, hoặc
có thể gợi mở nếu nó quá khó đối với học sinh.
- Việc thứ ba: Giáo viên nên chú ý giúp học sinh hiểu nghĩa của một số từ, ngoài
các từ mà sách giáo khoa nêu trong phần chú giải. Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên
17
nên xem xét những từ phục vụ tốt cho học sinh đọc – hiểu chúng ta nên cho học sinh
cùng nhau giải nghĩa…
Tóm lại: Việc đọc hiểu góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở
cho học sinh luyện đọc diễn cảm, học sinh không thể đọc hay, đọc diễn cảm khi chưa
hiểu được bài đó nói về điều gì. Chính vì vậy đọc hiểu vừa là nền tảng cho việc đọc diễn
cảm, vừa là tiền đề tạo vốn văn học trong mỗi học sinh. Người giáo viên đóng vai trò
hướng dẫn, tổng hợp ý kiến, khuyến khích học sinh học tập.
18
PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Quá trình học tập của học sinh là một quá trình lâu dài không phải một sớm một
chiều chúng ta đã đạt được kết quả này. Hiểu được điều đó, tôi vẫn kiên trì cố gắng trong
từng tiết tập đọc; kết quả rất khả quan. Lớp tôi phần lớn các em đã đọc đúng, diễn đạt tốt,
số lượng học sinh đọc hay tăng lên, giờ tập đọc bây giờ các em rất hào hứng, thích học,
khiến tôi càng thêm vững tin hơn.
Kết quả cụ thể cuối học kỳ I như sau:
Giỏi: 14 em ≈ 50%
Khá: 10 em ≈ 35,7%
Trung bình: 4 em = 14,3%
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 4, giáo viên cần lưu ý một
số vấn đề sau;
- Khảo sát để nắm vững đặc điểm, thực trạng phát âm của học sinh địa phương, của
lớp mình phụ trách để tìm ra điểm yếu của học sinh khi học tập đọc. Từ đó có biện pháp

khắc phục lỗi phát âm linh hoạt trong giờ dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Luyện đọc phải lấy học sinh làm trung tâm, luyện đọc cho học sinh những chỗ các
em còn mắc lỗi đối với từng từ, từng câu, từng bài, từng đối tượng cụ thể; tránh hình thức
luyện tập chung. Luyện đọc cho học sinh phải đi từ dễ – khó, kiên trì thực hiện trong cả
một quá trình.
19
- Ngoài ra việc khắc phục lỗi phát âm, giáo viên cần chú ý luyện cho học sinh ngắt
giọng. Khi dạy bài tập đọc là thơ phải chú trọng đến ngắt nhịp nhấn giọng ở các từ ngữ.
Bất kỳ một bài tập đọc nào giáo viên cũng không nên áp đặt cho học sinh phải đọc giọng
như thế nào mà qua phần tìm hiểu bài, qua phần tìm hiểu bài, qua nghe giáo viên đọc
mẫu, giáo viên phải giúp các em tự tìm ra cách đọc thể hiện giọng đọc phù hợp với nội
dung từng bài, từng tính cách của nhân vật.
- Ngoài ra giáo viên cần luyện cho học sinh có thói quen ngừng nghỉ phù hợp khi
gặp dấu câu, giúp các em phân biệt được thời gian ngừng nghỉ dài hay ngắn của các dấu
phẩy ở các vị trí khác nhau trong câu, giữa dấu chấm hết câu với dấu chấm xuống dòng.
Bước đầu hướng cho các em biết ngắt giọng biểu cảm, tạo ra chỗ ngừng vào những từ “
chìa khóa” trong câu văn, câu thơ đó, nhằm nâng cao sự biểu đạt văn chương của bài tập
đọc.
- Hướng dẫn học sinh đọc hiểu, trước hết giáo viên phải tìm hiểu kĩ trước bài, phân
tích, xem xét từng câu hỏi trong bài. Giáo viên không nên máy móc thực hiện câu hỏi
trong sách giáo khoa mà phải linh động theo từng bài. Đối với câu hỏi khó, giáo viên phải
gợi mở bằng cách chẻ nhỏ, hoặc cho bài tập trắc nghiệm. Đối với câu hỏi quá dễ, không
cần thiết, có thể bỏ hoặc bổ sung bằng câu hỏi tìm hiểu nội dung hay nghệ thuật của bài
(nếu bài đó chưa đầy đủ cả 2 dạng câu hỏi này). Câu hỏi dài, khó hiểu giáo viên có thể
điều chỉnh bằng những từ ngữ dễ hiểu, gằn gũi đối với học sinh…
- Dạy đọc thành tiếng và đọc hiểu không được tách rời nhau mà phải phối hợp một
cách khoa học, nên sử dụng kết hợp đọc thầm với đọc thành tiếng và đọc hiểu. Đọc thầm
giúp các em đọc thành tiếng tốt hơn, đọc thành tiếng giúp các em hiểu nội dung bài. Từ
chỗ hiểu được nội dung bài, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài tập đọc qua những
ngôn từ cụ thể mà luyện cho học sinh đọc thành tiếng thể hiện sự cảm nhận đó một cách

20
diện cảm nhất. Đối với học sinh lớp 4, giáo viên nên quan tâm hơn nữa đến đọc diễn cảm,
chính đọc diễn cảm mới làm tăng thêm giá trí nội dung, nghệ thuật của bài.
Để tạo không khí sôi nổi, hứng thú cho giờ tập đọc giáo viên triệt để sử dụng đồ
dùng trực quan hỗ trợ cho việc đọc hiểu, tổ chức các hình thức phối hợp mang tính tập
thể như đọc phân vai, đọc “ truyền điện” hay nêu những câu hỏi mở như: hãy đặt tên khác
cho bài, hoặc em thích câu văn, câu thơ, nhân vật nào nhất? Vì sao?.
- Luyện đọc, nâng cao chất lượng đọc còn đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, nhiệt tình,
không nên nóng vội, dồn ép học sinh. Đặc biệt phải tạo cho mỗi giờ tập đọc là một giờ
học vui, các em thích hợp, thích đọc, đọc hay và đọc hay hơn nữa.
III. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Để giúp giáo viên dạy tốt phân môn tập đọc, nâng cao chất lượng đọc của học sinh,
tôi có một số đề xuất nhỏ sau:
- Các cấp phụ trách chuyên môn cần tăng cường tổ chức hội thảo, chuyên đề về
phân môn Tập đọc trong nhà trường Tiểu học.
- Chúng ta đã tổ chức thành công các cuộc thi viết chữ, thi kể chuyện cho giáo viên
và học sinh, vậy tại sao chúng ta không tổ chức thi đọc? Nên chăng tổ chức cuộc thi đọc
cho giáo viên và học sinh cấp tiểu học.
- Đồ dùng dạy học, trang thiết bị phục vụ cho môn Tập đọc lớp 4 còn ít, quá nghèo
nàn. Vì vậy cần quan tâm hơn nữa đến đồ dùng phục vụ cho môn tập đọc.
Nam Ngạn, ngày 26 tháng 3 năm 2011
Người thực hiện
21
22

×