Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

sáng kiến kinh nghiệm Làm và sử dụng đồ dùng môn LQVT lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.49 KB, 12 trang )

Một số biện pháp
làm và sử dụng đồ dùng môn LQVT
A. Đặt vấn đề
Hởng ứng cuộc vận động Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục do Bộ Giáo dục & Đào tạo phát động và cuộc vận
động Mỗi thầy cô giáo là một tấm g ơng o c tự học và sáng tạo , là giáo
viên trực tiếp đứng lớp, chúng tôi đã thực hiện tốt phong trào đó bằng những việc
làm thiết thực trong hoạt động giáo dục. Năm 2010 - 2011 là năm tiếp tục đổi
mới cụng tỏc chm súc giỏo dc, v i mi hình thức dạy học. Nhất là môn
LQVT, bản thân tôi hiểu rằng: Thành công của mỗi tiết dạy cần đảm bảo nội
dung, yêu cầu và không thể thiếu đồ dùng dạy học. Bởi lứa tuổi mầm non với
đặc điểm tâm lý là t duy trực quan hình tợng, là trẻ phải đợc trực tiếp nhìn,
trực tiếp sờ, trực tiếp nghe Nên việc cho trẻ lĩnh hội các kiến thức, mở rộng sự
hiểu biết, phát triển trí thông minh t duy và tởng tợng, đồng thời phát triển ngôn
ngữ cho trẻ LQVT theo hớng đổi mới hình thức tổ chức giáo dục, đều đợc thông
qua việc trẻ sử dụng đồ dùng qua Học mà chơi và chơi với các đồ dùng đang
đợc học. Có thể nói đồ dùng chính là sách giáo khoa của trẻ, giúp trẻ phát
triển toàn tiện, tạo tâm thế cho trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị bớc vào lớp 1 phổ thông.
Chính vì hiểu rõ tầm quan trọng của việc chuẩn bị đủ đồ dùng dạy học,
cho nên ngay từ đầu năm học 2010 - 2011tôi đã lấy việc Làm và sử dụng đồ
dùng môn LQVT lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm sáng kiến cho năm học này.
B. nội dung
I. Cơ sở khoa học
Nh chúng ta đã biết, việc dạy trẻ LQVT ở Trờng Mầm non chỉ là hình
thành những biểu tợng sơ đẳng về toán cho trẻ. Nh đã nói ở phần đặt vấn đề, đặc
điểm tâm lý của trẻ là T duy trực quan hình tợng , do vậy việc trẻ đợc hoạt
động trực tiếp với các loại đồ dùng là điều tất yếu, và việc làm đồ dùng dạy toán
của cô chính là nhiệm vụ góp phần không nhỏ trong việc hoàn thành nhiệm vụ
của một giáo viên đứng lớp. Tuy nhiên, đồ dùng đã có, cô giáo không nghiên cứu
cách sử dụng hợp lý sẽ bị vênh với việc dạy học. Chính vì vậy việc làm và sử
dụng đồ dùng của cô giáo trong dạy toán lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi là một nghệ


thuật. Vì đồ dùng cũng chính là đồ chơi của trẻ, mà đồ dùng, đồ chơi cũng
chính là sách giáo khoa của trẻ. Sự thành công của mỗi bài dạy chính là sự có
mặt của đồ dùng và cách sử dụng của cô giáo.
Vì những cơ sở trên tôi xin đa ra một số biện pháp về việc làm và sử dụng
đồ dùng môn LQVT lớp mẫu giáo 5 - 6 tuôi:
- Làm đồ dùng tự tạo từ nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên
- Làm đồ dùng tự tạo từ nguyên liệu, phế liệu và tận dụng những đồ dùng
không sử dụng của gia đình.
- Vận động phụ huynh làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thuận lợi:
- Đây là năm học trờng tôi vẫn chỉ đạo thực hiện chuyên đề LQVT theo h-
ớng đổi mới hình thức tổ chức giáo dục. Tuy nhiên phơng pháp và các bớc tiến
hành không có gì thay đổi.
- Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm, nên tôi hiểu rất rõ đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ.
- Các cháu đều ở một độ tuổi, rất thích đi học.
- Bên cạnh đó là sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và đào
tạo, đã tổ chức các buổi chuyên đề Nâng cao chất l ợng dạy trẻ LQVT theo h-
ớng đổi mới hình thức giáo dục
- Đặc biệt năm học này nhà trờng đợc xây kiên cố, trẻ đợc học ở môi trờng
rộng rãi, thoáng mát, các bậc phụ huynh đã nhận thức đợc trẻ 5 - 6 tuổi đến lớp
là nhu cầu cấp thiết. Nên tôi đã đợc sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh góp tiền
mua bộ học toán cho trẻ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nói trên, trong quá trình thực hiện tôi
đã gặp một số khó khăn sau:
2. Khó khăn
- Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho môn LQVT còn thiếu về các chủng loại
nh: đồ dùng, tranh ảnh, các biểu tợng và những đồ dùng tự tạo là những nguyên
liệu sẵn có ở địa phơng, cũng nh đồ dùng tạo từ nguyên liệu sẵn có của thiên

nhiên.
- Khả năng căn vẽ phác họa các mẫu đồ dùng của bản thân tội thực sự hạn
chế, cùng với thời gian làm đồ dùng còn rất ít, nên bản thân tôi đã có những lúc
rất ngại dạy môn toán vì phải chuẩn bị nhiều đồ dùng trong một tiết dạy.
- Cả trờng có một lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi, nên việc trao đổi kinh nghiệm
còn hạn chế.
3. Điều tra (khảo sát) tình hình thực tế về cơ sở vật chất và đồ dùng, đồ chơi.
Ngay từ đầu năm học tôi đợc nhà trờng phân công chủ nhiệm lớp mẫu
giáo 5 - 6 tuổi. Để đảm bảo có đủ đồ dùng và sắp xếp môi trờng cho trẻ làm quen
với toán theo hớng đổi mới hình thức tổ chức giáo dục đợc tốt, tôi đã tiến hành
điều tra cụ thể tình hình cơ sở vật chất thực tế của lớp. Qua việc điều tra này tôi
thấy các bộ chữ số dùng cho cô và trẻ đã có, nhng các đồ dùng khác còn thiếu
nhiều về các chủng loại. Một số đồ dùng đã có nhng đã quá cũ, màu sắc, kích th-
ớc không phù hợp với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Sau khi đã điều tra cơ sở vật chất, tôi tiến hành điều tra khả năng nhận
chức của trẻ về các khái niệm hình dạng, kích thớc, định hớng không gian và số
lợng. Tôi thấy đa số trẻ lớp tôi đếm vẹt rất tốt, nhng khả năng định hớng không
gian, kích thớc còn hạn chế. Với quá trình điều tra thực tế tôi đã thu đợc một số
kết quả sau đây:
4. Phân tích kết quả điều tra:
- Về cơ sở vật chất: Tôi đã phân các loại đồ dùng theo các chủng loại khác
nhau để dạy trẻ nhận biết về số lợng, hình dạng, kích thớc, không gian nh bộ đồ
dùng: Hoa - Bớm; Thỏ - Ô; Thỏ - Cà rốt và các loại hình khối khác nhau.
- Về chất lợng nhận thức của trẻ:
Tổng số trẻ đợc điều tra: 23/23
Trong đó:
+ Có 9/23 trẻ có khả năng đếm vẹt tốt, chiếm 39,1%
+ Có 8/23 trẻ có khả năng nhận biết, phân biệt hình dạng, kích thớc
tốt, chiếm 34,8%
+ Có 6/23 trẻ còn nhầm lẫn trong việc nhận biết các khái niệm

về không gian, chiếm 26,0%
Vì vậy, ngay từ khi tổ chức Đại hội phụ huynh của trờng, tôi đã xin ý kiến
Ban giám hiệu tiến hành tổ chức họp phụ huynh của lớp để phụ huynh thấy đợc
tầm quan trọng của môn LQVT, thấy đợc sự cần thiết của đồ dùng đối với chất l-
ợng cho trẻ LQVT. Vì vậy chỉ sau một thời gian rất ngắn đầu năm, phụ huynh đã
góp tiền mua đầy đủ đồ dùng học tập cho trẻ nh: Bộ học toán Mẫu giáo 5 - 6 tuổi
của trẻ; bút sáp; vở toán phục vụ cho việc học tập của trẻ ở
trờng mầm non.
Từ những kết quả trên cùng với nhận thức của bản thân, tôi đã ý thức đợc
nhiệm vụ của bản thân mình trong năm học. Vì thế tôi đã tận dụng thời gian
ngoài giờ, su tầm nguyên liệu, phế liệu, nghiên cứu tài liệu H ớng dẫn làm đồ
dùng, đồ chơi từ các nguyên liệu sẵn có ở địa phơng để nghiên cứu và xây
dựng nên nhiều mẫu đồ dùng phong phú, đa dạng cho trẻ LQVT. Qua việc làm
này, tôi thấy yêu thích, hứng thú hơn khi dạy trẻ LQVT theo hớng đổi mới hình
thức tổ chức giảng dạy. Từ việc sử dụng tốt đồ dùng dạy học đã quyết định đợc
50% kết quả của các tiết dạy. Đây là một yếu tố quan trọng của ngời giáo viên
khi cho trẻ 5 - 6 tuổi LQVT. Tôi đã áp dụng các biện pháp tích cực sau đây.
III. Một sốbiện pháp
1. Làm đồ dùng tự tạo từ những vật liệu sẵn có trong thiên nhiên
Để làm tốt nội dung này, trớc tiên phải dựa vào điều kiện thực tế của địa
phơng, dựa vào đặc điểm của từng mùa để su tầm nguyên liệu thiên nhiên, kết
hợp với việc tranh thủ thời gian ngoài giờ, su tầm tìm hiểu qua sách báo, tập san,
tài liệu bồi dỡng chuyên đề có những mẫu đồ dùng đợc làm từ các nguyên vật
liệu sẵn có ở địa phơng. Trong quá trình thực hiện, tôi thấy đây là một nguồn
cung cấp đồ dùng, đồ chơi tự nhiên phong phú và đa dạng, mùa nào thứ ấy, các
cháu đợc vận dụng các nguyên vật liệu tự nhiên vào các hoạt động vui chơi, học
tập, đặc biệt là cho trẻ LQVT từ những đồ dùng tự tạo thiên nhiên này. Cụ thể,
lớp tôi đặt tại xóm Trớ, nên rất gần gũi với môi trờng nông thôn, nên việc su tầm
nguyên vật liệu không mấy khó khăn, nh: chặt những tay tre, hóp nhỏ, chặt bỏ
mấy lấy thân, ống để cho trẻ chơi thổi bong bóng xà phòng; cắt ngắn những đốt

tay trẻ nhỏ, nhuộm màu để trẻ chơi xâu vòng, xâu xong cho trẻ đếm và so sánh
số hạt vòng để so sánh to - nhỏ, dài - ngắn; lấy cuống rạ khô, cuộng rau muống
mang đến lớp cho trẻ ngồi cắt thành đoạn ngắn và trẻ xâu thành vòng; rồi cuộng
lá sắn để tết thành những ngôi nhà to - nhỏ, cao - thấp, hoặc dùng những cuồng
lá sắn này bẻ từng đoạn, tớc ngắn gắn liền với vỏ ngoài của cuống lá để làm dây
vòng, đồ trang sức, có thể cùng làm theo cô và đếm số lợng sản phẩm trẻ làm
ra
Ngoài những thứ trên tôi còn tận dụng cả những cuộng rơm khô, tớc sạch
vỏ ngoài để tết tạo dáng búp bê, làm thêm các chi tiết mắt, tóc, sau đó dùng
những búp bê này cho trẻ đếm bộ phận trên ngời búp bê, phân biệt phía phải -
trái - trớc - sau và cho trẻ nhận biêt, phân biệt các khái niệm cao - thấp; to -
nhỏ
Ngoài ra còn có thể sử dụng cả những lá cây để làm đồ dùng nữa, nh: lá
chuối làm đồng hồ, làm kèn, gấp con mèo; lá nhãn làm con bớm; lá mít làm con
trâu, nghé, gáo múc nớc. Trong quá trình thực hiện tôi hớng dẫn để trẻ đợc làm
những đồ chơi từ lá cây này. Tất cả những đồ chơi làm bằng lá này, sau khi hớng
dẫn cho trẻ cách tự làm đồ chơi tự tạo, tôi đã khéo léo vận dụng để trẻ sử dụng
các đồ chơi này so sánh đồng hồ to - nhỏ; kèn ngắn - dài .
Trong quá trình thực hiện việc tận dụng các nguyên liệu tự nhiên cũng đợc
tôi tận dụng nhiều để làm đồ dùng cho trẻ LQVT từ các loại hoa nh: xâu vòng
bằng hoa bởi, hoa rau khoai lang, rau muống, hoa dâm bụt, hoa trâm bầu, hoa
đại, hoa mớp để trẻ phân biệt màu sắc, kích th ớc; hoặc từ cái hoa chuối sau khi
bẻ đề vài ngày cho khô nhựa, dùng cho trẻ chơi bán hàng bằng những quả chuối
con đó, còn bẹ hoa cho trẻ chơi thả thuyền, đồng thời cho trẻ đếm số lợng thuyền
về bến qua trò chơi với nớc và cát của trẻ. Ngoài ra tôi còn tranh thủ kết hợp
cùng phụ huynh su tầm các loại sỏi, hột, hạt, vỏ hến, các nút chai, cúc áo các
màu, để bổ sung vào đồ chơi cho trẻ
* Kết quả:
Từ việc tranh thủ thời gian ngoài giờ để su tầm nguyên liệu sẵn có trong
thiên nhiên tôi đã su tầm đợc rất nhiều những viên sỏi nhỏ, nhiều loại cúc áo, nút

chai, các loại vỏ ốc, hến, trai và các hột, hạt: na, gấc, hồng xiêm, hồng, trứng
gà Tất cả những nguyên liệu này tôi đều phân nhóm và đựng vào các hộp khác
nhau có ký hiệu riêng ở ngoài để thuận tiện cho việc hớng dẫn trẻ. Qua thực tế
tôi thấy trẻ hàng ngày vẫn đợc chơi và sử dụng những đồ chơi có sẵn nh ô tô, búp
bê đ ợc làm bằng nhựa, gỗ, nay đợc thay thế bằng các búp bê, rối bằng vải,
bằng rơm tết tất cả đều gây cho trẻ sự tò mò, mới lạ và thích thú với những đồ
chơi mới.
Bên cạnh việc tận dụng nguyên liệu tự nhiên sẵn có ở địa phơng, tôi còn
tận dụng các phế liệu từ các đồ gia dụng của gia đình nh các biện pháp sau đây.
2. Làm đồ dùng bằng các nguyên vật liệu dễ kiếm để tạo nhiều chủng loại
phong phú đa dạng
Từ những mảnh bìa cứng, vỏ bao thuốc lá, vỏ bao diêm, các cuốn lịch
treo tờng tôi đã tranh thủ thời gian ngoài giờ để làm đồ dùng cho trẻ LQVT
nh: Bộ đồ dùng Con sâu chữ số , tôi vẽ 10 hình tròn tơng ứng với các thân của
con sâu chữ số và viết các chấm tròn có số lợng từ 1 - 10 thay cho các số. Sau đó
vẽ mặt ở phần đầu của con sâu (vẽ cách điệu) để cho trẻ gắn các hình tròn có
chấm tròn tơng ứng với số hình trên thân con sâu. (Hình vẽ)
Nhng trong quá trình cho tre LQVT theo hớng đổi mới hinh thức, nếu cứ
sử dụng một vài loại đồ dùng để trẻ chơi thì trẻ cũng sẽ nhàm chán. Vì vậy từ
những vật liệu dễ kiếm, dễ làm tôi đã nghiên cứu làm Đoàn tàu chữ số nh sau.
Dùng 11 vỏ hộp bao diêm, lấy một hộp trang trí làm đầu tàu, dùng nửa
trong của bao diêm dán giấy trắng làm các toa tàu. Viết số từ 1 10 lên mỗi toa
tàu. Dùng vỏ ngoài của bao diêm cắt những hình tròn làm bánh tàu (dùng keo,
băng dính hai măt để dán). Dùng chỉ, len để nối các toa tàu với nhau.
Với đồ chơi Đoàn tàu chữ số này, tôi đã cho trẻ chọn các thẻ chữ số
giống với sô ở mỗi toa tàu nào thì đặt đúng thẻ số vào toa tàu đó, cho trẻ đếm
xuôi từ toa số 1 đến toa số 10, và đếm ngợc lại, hoặc chọn ra các chữ số ở toa tàu
có số đứng liền kề trớc (sau), hoặc chọn các số lẻ từ bé đến lớn (nh hình vẽ)
Với bộ đồ dùng ống số Hộp số , tôi đã tận dụng những cuống chổi
chít, những que kem, các hộp dựng sữa Vinamilk, vỏ lon nớc ngọt, ống tre, nứa

dán giấy các màu để trẻ nhận biết, phân biệt màu, viết các chữ số từ 1 đến 10 và
các chấm tròn tơng ứng ra phía ngoài của ống tre, vỏ lon Cắt ngắn các ống chít
(que tre) thành đoạn thẳng cao hơn ống, rồi cho trẻ cắm số que vào ống có đúng
số lợng chấm tròn và số đã ghi ở ngoài, yêu cầu trẻ đếm số quy đã cắm ở mỗi
ống. Với hình thức này tôi thấy trẻ rất hứng thú chơi và nhớ bài sâu sắc hơn.
(Hình vẽ)
* Kết quả:
Với hình thức đổi mới nội dung giáo dục qua trò chơi này, tôi đã chuẩn bị
đợc rất nhiêu đồ chơi phục cho việc LQVT của trẻ, trẻ hứng thú học bài, nhớ bài
và hiểu bài sâu sắc.
Từ những phế liệu và tận dụng những đồ dùng gia đình tôi đã xây dựng đ-
ợc hàng loạt đồ chơi cho trẻ LQVT để củng cố các khái niệm về số lợng qua các
buổi chơi ngoài trời hoặc chơi với cát và nớc nh sau: Với mảnh xốp dùng dao sắc
cắt, tạo dáng các con thuyền, tàu thủy, dùng bút không phai viết các số lên mạn
thuyền (mạn tàu), dùng que chít (que tre gọt nhẵn) làm que đẩy cho trẻ chơi
Thuyền về bến , thuyền có số nào phải về đúng bến có số tơng ứng.
Qua trò chơi này tôi thấy trẻ rất hứng thú chơi, lại rèn cho trẻ kỹ năng
khéo léo, chính xác và chú ý ghi nhớ chủ định. Phát huy tính tò mò khám phá
của trẻ, trẻ về nhà khoe với những ngời thân của mình. Đây cũng là một giải
pháp rất quan trọng, một sự tác động lớn trong công tác tuyên truyền qua việc
làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ từ các phế liệu trong gia đình mà tôi đã tiến hành
bằng một số việc làm nh sau.
3. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục
Để làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục mà chủ yếu là vận động phụ
huynh cùng tham gia làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ. Trớc tiên tôi trng bày các đồ
dùng tự tạo tại góc tuyên truyền của lớp, để hàng ngày phụ huynh đa đón con
nhìn thấy, sau đó dùng thời gian ngoài giờ để trao đổi, trò chuyện với phụ huynh.
Mặt khác thông qua các buổi họp phụ huynh, qua các buổi dự giờ, thăm lớp, phụ
huynh đợc tận mắt nhìn thấy con mình đợc sử dụng các đồ dùng, đồ chơi tự tạo
do cô và trẻ cùng làm. Qua đó, phụ huynh không còn có quan điểm trẻ con biết

gì mà học với chả hành, chỉ cần ngoan ngoãn, sạch sẽ, khỏe mạnh nh trớc
nữa mà rất chú trọng tới việc học của con. Vì thế qua nội dung các buổi họp phụ
huynh, qua giờ đón, trả trẻ tôi đã chủ động trò chuyện cho phụ huynh hiểu đợc
tầm quan trọng của đồ dùng, đồ chơi cho trẻ nh: Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý
của trẻ ở lứa tuổi này chủ yếu là T duy trực quan hình tợng , trẻ phải đợc trực
tiếp hoạt động với đồ vật, đồ chơi qua các tiết học, đồ chơi cho trẻ phải đầy đủ vì
đợc ví nh Bộ sách giáo khoa của trẻ. Cho nên nhiều phụ huynh đã tò mò và
bỏ thời gian ra quan sát các mẫu đồ dùng, đồ chơi của lớp, sau đó su tầm nguyên
vật liệu và đồ dùng gia đình không sử dụng để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ theo
mẫu. Để tranh thủ tối u việc làm tích cực này để nhờ phụ huynh tuyên truyền tới
các phụ huynh khác, với phơng châm Vết dầu loang này tôi thấy các phụ
huynh rủ nhau quyên góp các phế liệu và đồ dùng đã sử dụng của gia đình làm
đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
Ví dụ: Vỏ lon nớc ngọt dán giấy màu cho trẻ nhận biết khối trụ, hộp đựng
bút chữ A cho trẻ nhận biết khối chữ nhật. Đồng thời có thể viết số lên các khối
để trẻ xếp thứ tự và ôn các chữ số (nh hình vẽ) và phân biệt màu.
* Tóm lại:
Với việc thực hiện các biện pháp tích cực nh điều tra tình hình thực tế, làm
đồ dùng tự tạo từ những nguyên vật liệu thiên nhiên, làm đồ dùng từ phế liệu dễ
kiếm, dễ làm và vận động phụ huynh cùng làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho trẻ
qua các góc chơi, các giờ học, nhất là giờ LQVT đã giúp trẻ hứng thú học bài và
hiểu bài sâu sắc hơn. So sánh chất lợng khảo sát đầu năm với hiện tại tôi đã có
kết quả nh sau:
- Về cơ sở vật chất: Đã bổ sung đợc đồ dùng tự tạo ở lớp, rẻ tiên, phù hợp
với tình hình của lớp, của địa phơng, gây đợc sự chú ý của trẻ và phụ huynh.
- Về trẻ: Vẫn với 23 cháu của lớp, thì có:
+ 13/23 cháu đếm vẹt tốt và nhận biết các số từ 1 - 10, chiếm
56,5%
+ 12/23 cháu nhận biết, phân biệt hình dạng, kích thớc,chiếm
52,2%.

+ 10/23 cháu định hớng tốt về không gian, chiếm 43,4%
Bên cạnh đó, khắc phục đợc cho bản thân tôi bớt đợc nhiều thời
gian làm đồ dùng, để dành phần lớn thời gian cho việc ngiên cứu và nâng cao
chất lợng các giờ dạy.
Do vậy trong quá trình thực hiện tôi đã rút ra cho mình một số kinh
nghiệm sau:
1. Để bảo đảm đầy đủ đồ dùng, đồ chơi cho trẻ học các môn nói chung và
đủ đồ chơi phục vụ cho môn LQVT nói riêng. trớc hết cô giáo phải là ngời trực
tiếp điều tra tình hình thực tế về số lợng các đồ dùng, sau đó phân loại đồ dùng
theo từng chủng loại, sắp xếp các loại đồ dùng ở chỗ thấp vừa tầm với của trẻ,
giúp trẻ dễ lấy, dễ cất, có kế hoạch tu sửa những đồ dùng cũ, bổ sung những đồ
dùng còn thiếu vào các góc chơi cho trẻ.
2. Tích cực su tầm các nguyên liệu, phế liệu sẵn có trong thiên nhiên để tự
tạo mẫu đồ dùng, đồ vật cho trẻ học bằng cách tham khảo, su tầm các tranh ảnh,
sách báo, tập san có nội dung hớng dẫn làm đồ dùng tự tạo, vận dụng những hiểu
biết đã có của bản thân để tranh thủ thời gian làm các loại đồ dùng từ nguyên
liệu thiên nhiên cho trẻ.
3. Tận dụng các nguyên liệu, phế liệu trong sinh hoạt gia đình và các
loại đồ dùng không sử dụng của gia đình để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, bằng
cách tranh thủ thời gian ngoài giờ su tầm các loại phế liệu và đồ dùng của gia
đình, và nghiên cứu, tởng tợng, sáng tạo các loại đồ dùng tự tạo sao cho hình
thức phù hợp, màu sắc và an toàn với trẻ.
4. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục bằng cách tích cực trao đổi với
phụ huynh qua các giờ đón, trả trẻ, qua nội dung các buổi họp, để phụ huyh trực
tiếp thấy đợc tầm quan trọng của đồ dùng, đồ chơi với sự phát triển toàn diện của
trẻ
c. kết luận kiến nghị
Từ những kinh nghiệm trên tôi đã rút ra đợc kết luận và cũng xin có một
vài kiến nghị nh sau:
1. Kết luận:

Để làm tốt kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ thật đầy đủ về số lợng,
phong phú về chủng loại trớc hết cô giáo phải là ngời nắm vững tình hình thực tế
về cơ sở vật chất của lớp, cũng nh nắm đợc mức độ nhận thức của trẻ để có kế
hoạch làm đồ dùng từ những vật liệu sẵn có của địa phơng. Đồng thời vận động
phụ huynh cùng tham gia vào làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, góp phần giúp trẻ đ-
ợc nâng cao chất lợng chăm sóc, giáo dục trẻ toàn diện, tạo tiền đề vững chắc về
tâm thể cho trẻ chuẩn bị học tốt ở bậc học phổ thông.
2. Kiến nghị
Bản thân tôi có mong muốn Phòng GD&ĐT hàng năm sau các buổi học
tập chuyên đề sẽ kết hợp tổ chức các hội thi Làm đồ dùng, đồ chơi từ các
nguyên vật liệu sẵn có của địa phơng để cho tất cả giáo viên có điều kiện
thực tế tham khảo, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm giữa các cá nhân, các đơn vị
bạn về cách làm các loại đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, góp phần tích cực hơn nữa
trong công tác chăm sóc giáo dục toàn diện thế hệ tơng lai của đất nớc.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã làm đợc và thực hiện trong năm
học này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn nhà trờng, các bạn đồng nghiệp đã
tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành tài liệu này./.
Ngày 15 tháng 12 năm 2010
Ngời viết
Ho ng Minh

×