Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Báo cáo nhóm đề tài: Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.2 MB, 24 trang )

040404040404040404
I
TỔNG QUAN
BẢO HIỂM
TIỀN GỬI
Ii
BẢO HIỂM
TIỀN GỬI
VIỆT NAM
iii
BẢO HIỂM
TIỀN GỬI
MỸ
iv
SO SÁNH &
ĐÚC KẾT
1.Lòch sử hình thành & phát triển 02
2.Mô hình hoạt động & tổ chức 04
3.Nội dung hoạt động 05
4.Thực trạng 08
1.Giới thiệu chung 11
2.Mô hình hoạt động 12
3.Nguyên tắc hoạt động 13
4.Thực trạng hoạt động 15
MỤC LỤC
1.So sánh cơ bản giữa Bảo hiểm
tiền gửi Mỹ & Việt Nam 18
2.Những đúc kết Cơ Bản cho
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 20
1.Khái quát quá trình hình thành


Bảo hiểm tiền gửi Thế giới 01
TỔNG QUAN
BẢO HIỂM TIỀN GỬI
I
Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi đã được
hình thành từ rất lâu trên thế giới. Hoạt động tài
chính-Ngân hàng ln gắn liền với sự nhạy cảm
và tiềm ẩn rủi ro, chính vì vậy mỗi quốc gia cần
phải có tổ chức đứng ra bảo vệ người gửi tiền
trong trường hợp ngân hàng xảy ra đổ vỡ để ổn
định tình hình an ninh xã hội. Trong thực tế, khi
các quốc gia chưa hình thành hệ thống bảo hiểm
tiền gửi thì họ cũng đã sử dụng cơng cụ “bảo
hiểm ngầm” có nghĩa là mặc dù khơng cam kết
cơng khai trước cơng chúng về việc bảo vệ tiền
gửi của họ trong trường hợp ngân hàng đổ bể
nhưng nếu điều đó xảy ra thì Chính phủ phải
đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền.
Tuy nhiên, việc bảo vệ ngầm đó khơng
thật sự mang lại lợi ích cho quốc gia cũng như
khơng mang lại niềm tin của cơng chúng đối với
hệ thống tài chính - ngân hàng vì vậy, hệ thống
bảo hiểm cơng khai đã ra đời.
Nguồn gốc ra đời của bảo hiểm tiền gửi
gắn liền với việc chuyển từ bảo vệ ngầm sang
bảo vệ cơng khai tiền gửi. Theo đó, người gửi
tiền sẽ được chi trả một phần hoặc tồn bộ
tiền gửi khi ngân hàng đổ bể theo hợp đồng
hoặc cam kết cơng khai.

Việc bảo vệ tiền gửi cơng khai đầu tiên
được thành lập ở Mỹ với tên gọi “Chương
trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng” được
thực hiện ở New York năm 1829. Trách
nhiệm trong chương trình này đề cập đến tiền
gửi ngân hàng và chứng chỉ huy động tiền
gửi.
Tuy nhiên, mặc dù trong thời gian đầu, tổ chức
BHTG hoạt động tương đối hiệu quả nhưng cuối
cùng các tổ chức bảo hiểm tiền gửi này đã phải
đóng cửa.
HISTORY
1829
1988
1994
2012
FUTURE
Trang 1
KHÁI QT Q TRÌNH HÌNH THÀNH
HOẠT ĐỘNG
BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
II
TẠI VIỆT NAM
Với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đời sống xã hội Việt Nam giai đoạn trước năm 1986
gặp rất nhiều khó khăn. Đến năm 1988, Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã triển khai kế hoạch
đổi mới tồn diện nhằm khắc phục tình trạng lạm phát phi mã, khơi phục nền kinh tế. Nhưng tình
trạng bất ổn của xã hội trong giai đoạn này đã dẫn đến hàng loạt các cuộc đổ vỡ mang tính dây
chuyền của các hợp tác xã tín dụng nơng thơn và quỹ tín dụng đơ thị trên tồn quốc (gần 8.000 hợp
tác xã và quỹ tín dụng phải đóng cửa).

Trong bối cảnh đó, để lấy lại niềm tin của
nhân dân, hoạt động BHTG đã được khởi đầu
bằng quyết định 101/TCQĐ-BHTG ngày
01/02/1994 của Bộ tài chính. Theo quyết định
này, cơng ty Bảo Việt có trách nhiệm bảo hiểm
đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại các quỹ
tín dụng nhân dân. Tuy nhiên hoạt động BHTG
do Bảo Việt thực hiện trong giai đoạn này phát
triển chậm, mới chỉ triển khai được với một số
lượng khách hàng nhỏ (chỉ khoảng 30% quỹ tín
dụng nhân dân tham gia).
Trong điều kiện của q trình đổi mới
đang diễn ra tại Việt Nam, hoạt động ngân hàng
đang ngày càng phát triển, đi đơi với nó là yếu tố
rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh này cũng ngày
càng trở nên phức tạp. Những vấn đề đó đã đặt
ra u cầu cần có giải pháp phòng ngừa kịp thời
và ngày 01/09/1999, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 89/1999/NĐ- CP về BHTG và tổ
chức BHTG Việt Nam đã chính thức được thành
lập. Hoạt động BHTG ở Việt Nam từ đây được
phổ cập hóa, được cơng nhận là một trong
những giải pháp tích cực bảo vệ quyền lợi người
gửi tiền, kiểm sốt rủi ro hoạt động của các tổ
chức tín dụng, khắc phục được những hạn chế
của hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện
trước đây.
Trang 2
Ngày 13 tháng 8 năm 2013, theo quyết định số 1494/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
(trước đây là Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính

phủ), Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – Tên tiếng Anh: Deposit Inusurance of Vienam (DIV) là tổ chức tài
chính Nhà nước được thành lập và Quyết định 1395/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2013 Phê duyệt
Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi góp phần duy trì sự ổn định của hệ
thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Trang 3
Những năm qua, hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực sự góp phần quan trọng
vào công cuộc đổi mới đất nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy trì sự ổn định, phát triển an
toàn lành mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển
hinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Hiện nay, hoạt động BHTG ở Việt Nam được điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý sau:
-Thông tư số 24/2014/TT-NHNN ngày 06/09/2014 Hướng dẫn một số nội dung về hoạt động
Bảo hiểm tiền gửi.
-Quyết định số 1934/QĐ-TTg ngày 13/08/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và quy định chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam.
-Quyết định số 1935/QĐ-TTg ngày 13/08/2013 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Điều lệ
về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
-Nghị định 68/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo hiểm tiền gửi.
-Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13.
Và 1 số thông tư, công văn khác có liên quan đến hoạt động Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Điều lệ về tổ chức và hoạt động của BHTG Việt Nam do Chính Phủ phê chuẩn.
Trang 4
Luật Bảo hiểm tiền gửi trao cho tổ chức
bảo hiểm tiền gửi chức năng giám sát từ xa trên
cơ sở các thông tin nhận được từ Ngân hàng Nhà
nước và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm
phát hiện và báo cáo Ngân hàng Nhà nước xử lý
kịp thời những rủi ro gây mất an toàn trong hệ

thống ngân hàng, những vi phạm quy định về an
toàn hoạt động ngân hàng; tổ chức bảo hiểm tiền
gửi được tham gia vào quá trình kiểm soát đặc
biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hay
tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của
Chính phủ.
Quy định này đảm bảo cho tổ chức bảo
hiểm tiền gửi thực hiện tốt chức năng bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền và xác định rõ giới
hạn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo
đảm an toàn hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.
2. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ TỔ CHỨC CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VIỆT NAM
2.1 MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài
chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi,
góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ
chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn,
lạnh mạnh của hoạt động ngân hàng (Khoản 4
Điều 4) và tổ chức bảo hiểm tiền gửi do Thủ
tướng Chính phủ thành lập và quy định chức
năng, nhiệm vụ.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là pháp nhân, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an
toàn vốn và tự bù đắp chi phí.
2.2 MÔ HÌNH TỔ CHỨC
ORGANIZATION & OPERATION

MODEL
-Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm bắt
buộc theo quy định của Luật này.
-Hoạt động bảo hiểm tiền gửi phải công khai,
minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo
hiểm tiền gửi.
3. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
3.1 NGUYÊN TẮC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
3.4.1 Phí bảo hiểm tiền gửi
-Thủ tướng Chính phủ quy định “khung phí”
bảo hiểm tiền gửi theo đề nghị của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
-Căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định
mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở
kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức
này.
-Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở
số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được
-Các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân
phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.
-Các ngân hàng chính sách không phải tham
gia bảo hiểm tiền gửi.
3.2 ĐỐI TƯỢNG THAM GIA
-Tiền gửi được bảo hiểm:
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng

đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín
phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng.
3.3 CÁC LOẠI TIỀN GỬI KHÔNG ĐƯỢC
BẢO HIỂM VÀ ĐƯỢC BẢO HIỂM
-Tiền gửi không được bảo hiểm:
Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là
người sở hữu trên 5% vốn điều lệ của chính tổ
chức tín dụng đó.
Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là
thành viên Hội đồng thành viên, thành viên
Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám
đốc (Phó Giám đốc) của chính tổ chức tín dụng
đó; tiền gửi tại chi nhánh ngân hàng nước
ngoài của cá nhân là Tổng giám đốc (Giám
đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của
chính chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó.
Tiền mua các giấy tờ có giá vô danh do tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.
3.4 PHÍ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
3.4.2 Phí bảo hiểm tiền gửi
-Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm
thời hạn nộp phí bảo hiểm tiền gửi theo quy
định tại Điều 20 của Luật này, thì ngoài việc
phải nộp đủ số phí còn thiếu phải chịu phạt
mỗi ngày nộp chậm bằng 0,05% số tiền nộp

chậm.
-Trường hợp tổ chức bảo hiểm tiền gửi phát
hiện sự thiếu chính xác trong việc tính và nộp
phí bảo hiểm tiền gửi, thì tổ chức bảo hiểm
tiền gửi có trách nhiệm thông báo và truy thu
số phí còn thiếu hoặc thoái thu đối với số phí
nộp thừa trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
phát hiện.
-Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phải nộp
phí bảo hiểm tiền gửi mà tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi không nộp hoặc nộp không
đầy đủ phí bảo hiểm tiền gửi và tiền phạt, thì
tổ chức bảo hiểm tiền gửi có văn bản đề nghị
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích tài
khoản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để nộp
phí bảo hiểm tiền gửi và tiền phạt. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận văn bản đề
nghị của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm xử
lý.
Trang 5
Trang 6
-Trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không nộp hoặc nộp không đầy đủ
phí bảo hiểm tiền gửi mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải trích tài khoản của tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi để nộp phí theo quy định tại khoản 3 Điều này lần thứ hai, thì tổ chức bảo hiểm
tiền gửi có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đình chỉ hoặc tạm đình chỉ hoạt động
nhận tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
3.5.1 Thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả
tiền bảo hiểm

Từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt
hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản
không áp dụng các biện pháp phục hồi khả
năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào
tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam có văn bản xác định chi nhánh ngân
hàng nước ngoài là tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả tiền gửi cho
người gửi tiền.
3.5.2 Thời hạn trả tiền bảo hiểm
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ thời điểm
phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ
chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền
bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.
3.5.3 Hạn mức trả tiền bảo hiểm
-Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa
mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các
khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người
tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi
phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
-Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức
trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ.
3.5 HẠN MỨC CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
3.5.4 Số tiền bảo hiểm được trả
-Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các
khoản tiền gửi được bảo hiểm của một
người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền

gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng
hạn mức trả tiền bảo hiểm quy định tại
Điều 24 của Luật này.
-Số tiền bảo hiểm được trả trong trường
hợp nhiều người sở hữu chung tiền gửi
được bảo hiểm tiền gửi được quy định như
sau:
a) Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả
các khoản tiền gửi được bảo hiểm của nhiều
người sở hữu chung tại một tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền
lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm
cho một người. Số tiền bảo hiểm được trả sẽ
được chia theo thỏa thuận của các đồng chủ
sở hữu; trường hợp giữa các đồng chủ sở
hữu không có thỏa thuận hoặc không thỏa
thuận được thì giải quyết theo quy định của
pháp luật;
b) Trường hợp một trong các đồng chủ
sở hữu có khoản tiền gửi khác được bảo
hiểm tại cùng một tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi thì tổng số tiền bảo hiểm được
trả cho một đồng chủ sở hữu không vượt
quá hạn mức trả tiền bảo hiểm.
-Trường hợp người được bảo hiểm tiền gửi có
khoản nợ tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi thì số tiền gửi được bảo hiểm là số tiền
còn lại sau khi trừ khoản nợ đó.
Trang 7
3.5.5 Thủ tục trả tiền bảo hiểm

-Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo
hiểm, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải
gửi hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm cho tổ
chức bảo hiểm tiền gửi.
Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm bao gồm
văn bản đề nghị trả tiền bảo hiểm, danh sách
người được bảo hiểm tiền gửi, số tiền gửi
của từng người được bảo hiểm tiền gửi và số
tiền bảo hiểm đề nghị tổ chức bảo hiểm tiền
gửi chi trả.
-Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại khoản
1 Điều này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiến
hành kiểm tra các chứng từ, sổ sách để xác
định số tiền chi trả.
-Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày kết thúc kiểm tra theo quy định tại
khoản 2 Điều này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi
phải có phương án trả tiền bảo hiểm cho
người được bảo hiểm tiền gửi; thông báo
công khai về địa điểm, thời gian, phương thức
trả tiền bảo hiểm trên ba số liên tiếp của một tờ
báo trung ương, một tờ báo địa phương nơi
đặt trụ sở chính, các chi nhánh của tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi và trên một báo
điện tử của Việt Nam; niêm yết danh sách
người được trả tiền bảo hiểm tại địa điểm đã
thông báo.
-Khi nhận tiền bảo hiểm, người được bảo

hiểm tiền gửi phải xuất trình các giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với
các khoản tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi.
-Tổ chức bảo hiểm tiền gửi trực tiếp trả tiền
bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền g ử i
hoặc ủy quyền cho tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi khác thực hiện.
-Sau thời hạn 10 năm, kể từ ngày tổ chức
bảo hiểm tiền gửi có thông báo lần thứ nhất
về việc trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền
bảo hiểm không có người nhận sẽ được xác
lập quyền sở hữu nhà nước và bổ sung vào
nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi, người có quyền sở hữu khoản tiền
gửi được bảo hiểm sẽ không có quyền yêu
cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả số tiền bảo
hiểm đó.
3.5.6 Xử lý số tiền gửi vượt hạn
mức trả tiền bảo hiểm
Số tiền gửi của người được bảo hiểm tiền
gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi vượt quá
hạn mức trả tiền bảo hiểm sẽ được giải quyết
trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của
pháp luật.
3.5.7 Thu hồi số tiền bảo hiểm phải
trả từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi
-Tổ chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ

nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đối với số tiền bảo hiểm phải trả cho người
được bảo hiểm tiền gửi, kể từ ngày trả tiền
bảo hiểm theo thông báo quy định tại khoản
3 Điều 26 của Luật này.
-Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được phân
chia giá trị tài sản theo thứ tự như người gửi
tiền và thu hồi số tiền bảo hiểm phải trả trong
quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp
luật.
4. THỰC TRANG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
Trang 8
Sau 13 năm hoạt động, BHTG đã từng bước phát triển và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Năm 2012, BHTG có 1.237 tổ chức tham gia, trong đó có: 90 ngân hàng, 11 tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, 1.136 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Tổng phí
bảo hiểm thu được trong năm là trên 2.057 tỷ đồng (tăng 27% so với năm 2011) với tổng số dư
tiền gửi được bảo hiểm khoảng 1,5 triệu tỷ đồng (so với năm 2011 là 1,1 triệu tỷ đồng).
Tính chung, kể từ khi thành lập đến cuối năm 2012, tổng phí bảo hiểm thu được của BHTG
đạt khoảng 8.131 tỷ đồng. Đến hết năm 2012, BHTG đã thực hiện chi trả khoảng 20 tỷ đồng cho
người gửi tiền tại 37 quỹ tín dụng nhân dân. Bên cạnh đó, BHTG đã góp một phần vào việc ngăn
chặn tình trạng rút tiền hàng loạt, tạo lập niềm tin cho công chúng gửi tiền, phòng tránh được sự
đổ vỡ dây chuyền của các quỹ tín dụng. Đồng thời, thực hiện các hoạt động giám sát định kỳ đối
với 100% các tổ chức tham gia BHTG, thực hiện một số cho vay đối với các quỹ tín dụng gặp khó
khăn tạm thời về khả năng thanh toán, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo cho hệ
thống ngân hàng nước ta được an toàn.
Tuy nhiên, bên cạnh một số kết quả đạt được, thực tế hoạt động của BHTG đang bộc lộ
một số hạn chế về cơ chế, chính sách đang cần được khắc phục. Cụ thể, với mô hình chi trả với
quyền lợi mở rộng của BHTG Việt Nam chưa phát huy được đầy đủ chức năng. Các hạn chế về
cơ sở pháp lý, năng lực tài chính, trình độ cán bộ cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật, BHTG hầu

như chỉ hoạt động theo mô hình chi trả thuần túy. Các chức năng thanh tra, giám sát hay các chức
năng mở rộng khác đòi hỏi BHTG có được lượng thông tin lớn từ Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài
chính…
Cùng với đó, hạn mức BHTG ở nước ta còn quá thấp, không đáp ứng nhu cầu xã hội. Với
quy định hạn mức chi trả hiện nay là 50 triệu đồng cho mỗi người gửi tiền tại một tổ chức tham gia
BHTG và được duy trì cho đến nay. Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước, năm 2011 tỷ trọng tiền
gửi có số tiền dưới 50 triệu chỉ chiếm 19% tổng lượng tiền gửi trong năm. Như vậy, nếu các ngân
hàng và tổ chức tín dụng ngừng hoạt động, trên 81% tổng lượng tiền gửi không được chi trả đủ
100% cả gốc và lãi. Ngoài ra, còn hàng loạt tồn tại khác như:
- Vốn của BHTG còn nhỏ. Sau gần 13 năm hoạt động, hiện nay tổng vốn của BHTG khoảng 9.000
tỷ đồng, chỉ gấp 3 lần vốn điều lệ tối thiểu của một ngân hàng thương mại. Trong khi đó, số lượng
tổ chức tham gia BHTG ở nước ta năm 2012 là 1.182 tổ chức. Vì vậy, nếu xảy ra rủi ro hệ thống,
BHTG khó tránh khỏi nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Tổng phí bảo hiểm thu được trong năm là trên 2.057 tỷ đồng (tăng 27% so với năm 2011)
với tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm khoảng 1,5 triệu tỷ đồng (so với năm 2011 là 1,1
triệu tỷ đồng). Tính chung, kể từ khi thành lập đến cuối năm 2012, tổng phí bảo hiểm thu
được của BHTG đạt khoảng 8.131 tỷ đồng.
Trang 9
- Tại nước ta, Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về BHTG và Nghị định
109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số Điều của Nghị
định 89 có quy định: Tổ chức tham gia BHTG phải nộp phí BHTG theo mức 0,15%/năm tính
trên số dư bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG.
Việc áp dụng mức phí đồng hạng trong giai đoạn đầu triển khai BHTG đã giúp tổ chức
BHTG dễ dàng trong quản lý, dễ tính và thu phí. Tuy nhiên, BHTGVN thành lập và đi vào hoạt động
hơn 10 năm, nếu áp dụng mức phí đồng hạng trong một thời gian dài sẽ như một sự bao cấp cho
những ngân hàng yếu kém, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hệ
thống và dẫn đến một nghịch lý các ngân hàng gặp một số khó khăn về thanh khoản đã đẩy lãi suất
huy động lên cao, đặt người gửi tiền vào rủi ro và có thể gây mất an toàn hệ thống ngân hàng. Mặt
khác, việc thu phí cố định và ở mức thấp trong khi lượng tiền gửi được bảo hiểm tăng nhanh làm
giảm khả năng xử lý của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

Điều này cũng trái với xu hướng trên thế giới, phí BHTG được áp dụng theo phân loại ngân hàng,
ngân hàng nào hoạt động yếu kém và nguy cơ rủi ro lớn thì mức phí bảo hiểm sẽ cao hơn. Hơn
nữa, khi nền kinh tế chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, hội nhập khiến cho hệ thống tài chính
ngân hàng phát triển mạnh mẽ, nhưng những tác động tiêu cực cũng sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn
với mức độ rủi ro cao hơn. Quá trình đó cũng tạo khoảng cách về rủi ro giữa các tổ chức tín dụng
ngày càng lớn hơn.
Một số khuyến nghị
Về mô hình hoạt động của tổ chức BHTG:
Theo Luật BHTG, tổ chức BHTG vẫn hoạt động theo mô hình chi trả với quyền lợi mở rộng,
vẫn duy trì đầy đủ các chức năng thanh tra, giám sát như trước đây. Tuy nhiên, cần nâng cao
năng lực thanh tra, giám sát của BHTG trong thời gian tới như sau:
- Xây dựng nội dung và quy trình thanh tra, giám sát của BHTG đối với các tổ chức tham gia
BHTG, vừa đảm bảo tính công khai minh bạch của công tác thanh kiểm tra, vừa hạn chế việc cán
bộ BHTG lạm dụng chức quyền tiếp cận thông tin nội bộ không phù hợp với công tác thanh tra,
giám sát.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra, giám sát của BHTG để có đầy đủ kiến thức về các hoạt
động ngân hàng, nghiệp vụ đánh giá rủi ro và qua đó đánh giá được chính xác thực trạng của từng
ngân hàng đang tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Về hạn mức chi trả:
Hạn mức chi trả BHTG cần phải được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
và tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng trong từng thời kỳ (trong cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008-2009, một số nước trong khu vực Châu Á như Phillipines, Malaysia, Singapore,
Hồng Kông đều đã sử dụng biện pháp tuyên bố đảm bảo toàn bộ tiền gửi (tức là không giới hạn).
Theo Hiệp hội BHTG quốc tế IADI, trong điều kiện kinh tế - xã hội bình thường, hạn mức chi trả
BHTG thông thường gấp 4-5 lần GDP bình quân đầu người. Theo dự kiến của Bộ Kế hoạch và
đầu tư đến năm 2015, con số này đạt khoảng 2.100 USD, do đó hạn mức trách nhiệm của BHTG
nước ta trong thời gian tới cần tăng lên khoảng 150-200 triệu đồng.
Trang 10
Về vốn:
Vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng để đảm bảo khả năng thanh toán cho bất kỳ tổ chức

bảo hiểm nào nói chung, của tổ chức BHTG. Để tăng hạn mức chi trả BHTG, việc tăng vốn cho
BHTG là việc làm tất yếu từ các nguồn sau:
- Tiếp tục tăng vốn được bổ sung từ phí bảo hiểm thu được.
- Ngân sách Nhà nước trực tiếp cấp vốn cho BHTG.
- Xây dựng các cơ chế để BHTG có thể mở rộng các hình thức đầu tư mở ra khả năng tích lũy
vốn cao hơn. Hiện các hình thức đầu tư mà BHTG được phép thực hiện là rất hạn chế và đều có
độ an toàn rất cao so với các loại hình bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm thương mại (không nên quy
định cụ thể hoạt động đầu tư của BHTG ở Luật mà ở các văn bản dưới Luật đảm bảo điều chỉnh
linh hoạt hơn).
Về phí bảo hiểm:
Thực hiện hệ thống tính phí theo mức độ rủi ro đã được quy định trong Luật BHTG, mỗi mức
phí cần trở thành một tín hiệu đánh giá thực trạng của mỗi ngân hàng. Ngân hàng nhà nước cần
hết sức thận trọng khi xây dựng các nguyên tắc và cơ sở đánh giá rủi ro đối với các tổ chức tham
gia BHTG một cách khách quan, công bằng và chính xác, làm cơ sở đề xuất khung phí bảo hiểm
cũng như mức phí áp dụng cho từng tổ chức tham gia BHTG cụ thể. Việc thay đổi khung phí, mức
phí cũng cần quy định khoảng thời gian phù hợp để các tổ chức tham gia BHTG có điều kiện xây
dựng, điều chỉnh phần mềm tính phí.
Trang 11
HOẠT ĐỘNG
BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI MỸ
III
TẠI MỸ
Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC) được thành lập sau khủng hoảng tài chính đầu thế kỷ XX, vào
ngày 16 tháng 6 năm 1933 theo sắc lệnh của Tổng thống Franklin D.Roosevelt. Mỹ là quốc gia đầu
tiên trên thế giới xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi, do vậy có một bề dày kinh nghiệm trong lĩnh
vực bảo hiểm tiền gửi. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 nền kinh tế Mỹ cũng giống
như các nền kinh tế khác rơi vào suy thối nặng nề. Hàng loạt các nhà máy, cơng ty bị phá sản kéo
theo sự đổ vỡ của hệ thống tài chính, lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng bị sói mòn.
Trước tình hình như vậy, chính phủ Mỹ đã tiến hành các biện pháp nhằm khơi phục nền kinh tế như

hạ lãi suất, cho vay ưu đãi, trợ cấp sản xuất. Việc tiến hành xây dựng hệ thống BHTG quốc gia được
coi là một đối sách nhằm củng cố lòng tin của dân chúng, thu hút nguồn tiền nhàn rỗi để tập trung
cho đầu tư và phát triển, khơi phục lại mạng lưới thanh tốn quốc gia.
Ban đầu hệ thống BHTG của Mỹ gồm
nhiều quỹ bảo hiểm tiền gửi riêng lẽ thuộc sở
hữu Nhà nước như Quỹ bảo hiểm tiền gửi thuộc
hội đồng các ngân hàng cho vay mua nhà của
liên bang, cơng ty bảo hiểm tiết kiệm và cho vay
liên bang, cơng ty bảo hiểm tiền gửi liên bang.
Theo quy định của chính phủ Mỹ, tất cả các tổ
chức được phép huy động tiền gửi đều phải
tham gia ít nhất một tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Từ khi bắt đầu thành lập đến 1980, hệ
thống BHTG này của Mỹ hoạt động rất tốt. Khác
với giai đoạn trước 1934, các vụ phá sản ngân
hàng trở nên hiếm hoi, tính trung bình 15vụ/năm
đối với ngân hàng thương mại và ít hơn 5
vụ/năm với các ngân hàng tiết kiệm và cho vay.
Tuy nhiên, sau năm 1980, bức tranh nền kinh tế
Mỹ đã thay đổi do chính sách đổi mới tài chính
của Chính phủ, các vụ phá sản ngân hàng tăng
lên gấp 10 lần đối với cả ngân hàng thương mại
và các ngân hàng tiết kiệm cho vay.
Quỹ bảo hiểm tiền gửi trực thuộc hội đồng
các ngân hàng cho vay mua nhà của liên bang
và cơng ty bảo hiểm tiết kiệm và cho vay liên
bang do có những sai lầm trong q trình xử lý
các ngân hàng có nguy cơ bị phá sản trong thời
kỳ 1980-1990 đã làm cho cuộc khủng hoảng tài
chính của Mỹ trở nên ngày càng trầm trọng nên

đến năm 1989 đã bị giải thể.
Hiện nay FDIC là cơ quan lãnh đạo duy
nhất của hệ thống bảo hiểm tiền gửi liên bang
Mỹ với hai quỹ bảo hiểm riêng lẽ: quỹ bảo hiểm
ngân hàng và quỹ bảo hiểm các tổ chức huy
động tiết kiệm. FDIC cũng quản lý một cơng ty
ủy thác thanh lý chun quản lý những tổ chức
huy động tiết kiệm đang bị quản lý tài sản hoặc
thanh lý tài sản.
Trang 12
Khi mới hình thành, tổ chức BHTG ở Mỹ
hoạt động theo mô hình chi trả với quyền hạn mở
rộng. Hiện nay, hệ thống BHTG Mỹ hoạt động
theo mô hình giảm thiểu rủi ro.
2. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG - TỔ CHỨC CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI MỸ
2.1 VỀ CHỨC NĂNG -NHIỆM VU
Ban đầu:
Hệ thống BHTG của Mỹ gồm nhiều quỹ
bảo hiểm tiền gửi riêng lẽ thuộc sở hữu Nhà
nước như Quỹ bảo hiểm tiền gửi thuộc hội đồng
các ngân hàng cho vay mua nhà của liên bang,
công ty bảo hiểm tiết kiệm và cho vay liên bang,
công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang.
Hiện nay:
FDIC là cơ quan lãnh đạo duy nhất của hệ
thống bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ với hai quỹ
bảo hiểm riêng rẽ: quỹ bảo hiểm ngân hàng ( DIF
) và quỹ bảo hiểm các tổ chức huy động tiết kiệm (
SAIF ). FDIC cũng quản lý một công ty ủy thác
thanh lý chuyên quản lý những tổ chức huy động

tiết kiệm đang bị quản lý tài sản hoặc thanh lý tài
sản. FDIC được tổ chức theo hình thức liên
doanh giữa Nhà nước và tư nhân, do đó cũng đã
phát huy được những ưu điểm, hạn chế được
những nhược điểm so với các mô hình trước đây.
2.1 VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU
Vốn của FDIC do Kho bạc Mỹ đóng góp
150 triệu USD và 12 ngân hàng Nhà nước liên
bang đóng góp 130 triệu USD7. Ngoài ra, FDIC
còn được đảm bảo khả năng thanh khoản bởi
một khoản tín dụng dự phòng trị giá 30 tỷ USD
do Cục dự trữ Liên bang và Bộ Tài chính Hoa
Kỳ cấp.
Tính đến năm 2009, FDIC đang bảo
hiểm cho khoảng 314 triệu tài khoản tiền gửi tại
9.308 ngân hàng thương mại và khoảng 79
triệu tài khoản tiền gửi tại 1.852 tổ chức nhận
tiền gửi tiết kiệm.
3. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI MỸ
Quy tắc bảo hiểm tiền gửi hiện hành của FDIC được quy định trong Luật bảo hiểm tiền gửi
liên bang Mỹ ban hành và có hiệu lực từ ngày 21/12/1950 bản sửa đổi mới nhất năm 1993. Trên cơ
sở các quy định trong Luật Bảo hiểm tiền gửi Liên bang, FDIC ban hành bản Các quy định và quy
tắc của FDIC và bản giải đáp các thắc mắc về bảo hiểm tiền gửi. Một số quy định của FDIC như sau:
Trang 13
Đối tượng bắt buộc: Tất cả các Ngân hàng quốc
gia, Ngân hàng được cấp phép của các bang,
các tổ chức tiết kiệm ở Mỹ.
Đối tượng không bắt buộc: Các ngân hàng Mỹ
đăng ký hoạt động ở nước ngoài.
3.1 ĐỐI TƯỢNG THAM GIA

Loại tiền gửi được bảo hiểm
-Tiền gửi không kỳ hạn, lệnh rút tiền có thể
chuyển nhượng (tài khoản NOW - tài
khoản tiền gửi được hưởng lãi suất), tài
khoản tiền gửi thị trường tiền tệ.
-Tài khoản tiết kiệm;
-Chứng chỉ tiền gửi;
-Các tài khoản hưu trí;
·Loại tiền gửi không được bảo hiểm
Tất cả các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ
đều không được bảo hiểm
3.2 LOẠI TIỀN ĐƯỢC BẢO HIỂM VÀ
KHÔNG ĐƯỢC BẢO HIỂM
Đối tượng bắt buộc: Tất cả các Ngân hàng quốc
gia, Ngân hàng được cấp phép của các bang,
các tổ chức tiết kiệm ở Mỹ.
Đối tượng không bắt buộc: Các ngân hàng Mỹ
đăng ký hoạt động ở nước ngoài.
3.3 PHÍ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Phí bảo hiểm
gửi phải nộp
=
Tỷ lệ phí
bảo hiểm
x
Số dư tiền gửi
được bảo hiểm
Khi mới thành lập các Ngân hàng tham
gia FDIC phải nộp mức phí hàng năm như nhau
là 1% số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm

nhưng chỉ phải trả trƣớc một nửa phí, phần còn
lại là đóng khi FDIC yêu cầu. Đến năm 1935 do
Luật Ngân hàng mới ra đời làm thay đổi mức
phí còn 1/12 của 1% tổng số dư tiền gửi tương
đương với 8,3cent phí BHTG cho 100 USD tiền
gửi huy động. Năm 1950 phí BHTG giảm xuống
còn 3.7 cent/100 USD tiền gửi. Sau đó tiếp tục
giảm xuống còn 3,1 cent/100 USD tiền gửi. Sau
năm 1980 nhiều Ngân hàng đổ bể làm cho
FDIC phải chi phí rất nhiều và mức phí BHTG lại
lên tới 8,7 cent/100 USD tiền gửi.
Do luật cải cách FDIC nên từ tháng
1/1993 đến nay, FDIC áp dụng cách tính tỷ lệ
phí BHTG có phân biệt theo mức độ rủi ro của
các tổ chức tham gia BHTG. Mức phí hàng năm
cho các tổ chức này dao động từ 0,00% đến
0,27% tổng số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo
hiểm tại mỗi ngân hàng.
Trang 14
3.4 HẠN MỨC CHI TRẢ
Hạn mức bảo hiểm ban đầu khi FDIC bắt đầu hoạt động vào ngày 01/01/1934 là 2.500 USD.
Đến ngày 01/06/1934, FDIC nâng mức bảo hiểm tối đa lên 5.000 USD.
Sau nhiều lần tăng, đến năm 1980 mức bảo hiểm tối đa là 100.000 USD.
Để đối phó với khủng hoảng tài chính xuất hiện từ năm 2008 đến nay, BHTG Liên bang Mỹ ban đầu
tăng mức chi trả từ 100.000 USD lên đến 250.000 USD đến hết 31/12/2013, sau đó cam kết mức
chi trả 250.000 USD được duy trì lâu dài, cho đến khi có quy định mới.
Việc tăng hạn mức chi trả của FDIC nhằm củng cố niềm tin của quần chúng với các hoạt động
ngân hàng, kích thích khả năng huy động vốn trong dân chúng và phù hợp với mức tăng lạm phát
theo thời gian.
4. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI MỸ

Trang 15
Cho tới nay, FDIC nơi triển khai hoạt động BHTG đầu tiên là tổ chức điển hình trong triển khai
đồng bộ các loại nghiệp vụ và phát huy tối đa hiệu quả của chính sách BHTG trong bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, là mô hình được nhiều nước trên
thế giới tham khảo để thành lập và cải tiến hoạt động BHTG. Thành công của chính sách BHTG ở
Mỹ có thể tóm tắt ở một số điểm nổi bật như sau:
· Thứ nhất, sự ra đời và triển khai chính sách BHTG ở Mỹ đã khẳng định năng lực kiểm soát
rủi ro ngân hàng của chính sách BHTG theo mô hình chức năng đầy đủ là rất lớn.
Tính từ tháng 10 năm 1929 đến cuối năm 1933, thời điểm ra đời của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi liên bang Mỹ (FDIC), ở Mỹ đã có 4.000 ngân hàng đổ vỡ. Một phần nhờ có sự triển khai chính
sách BHTG của tổ chức FDIC, trong năm 1934 ở Mỹ chỉ có 9 ngân hàng đổ vỡ. Trong giai đoạn
1934-1941 mặc dầu ở Mỹ đã có 370 ngân hàng đóng cửa, nhưng FDIC đã tạo điều kiện để các
ngân hàng này rút hoạt động khỏi lĩnh vực ngân hàng mà không ảnh hưởng đến các ngân hàng
khác. Trong giai đoạn có khủng hoảng tiết kiệm và cho vay ở Mỹ trong những năm 1980, FDIC đã
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kịp thời các hỗ trợ tài chính để giảm đi phần nào sự đổ
vỡ không đáng có của nhiều ngân hàng.
Trong giai đoạn 1982-1991 ở Mỹ có hơn 1.400 ngân hàng lâm vào tình trạng nguy kịch,
có thể dẫn đến đóng cửa, nhờ sự hỗ trợ tài chính của FDIC, 131 ngân hàng trong số các ngân
hàng đó đã vượt qua được khó khăn và duy trì được hoạt động.
4.1 THÀNH CÔNG TRONG HOẠT ĐỘNG
· Thứ hai, quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ kịp thời, giảm tổn thất cho người gửi tiền,
ngân hàng và nền kinh tế.
Tính từ khi FDIC ra đời và đi vào hoạt động (năm 1934) tới năm 1997, ở Mỹ có 2.192 ngân hàng đổ
vỡ, đã được FDIC giải quyết nhanh gọn, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng Mỹ.
Người gửi tiền ở các vụ đổ bể ngân hàng trong thời gian này đã nhận được tiền chi trả bảo hiểm với
tổng số USD 106.560 triệu.
Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra tại Mỹ được đánh giá là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong 80
năm qua đối với một nền kinh tế lớn nhất thế giới, hiện nó đã vượt ra khỏi biên giới của nước Mỹ và
lây lan sang nhiều nước Châu Âu, Châu Á. Mức độ thiệt hại của cuộc khủng hoảng này là rất lớn, có
nguy cơ làm cho kinh tế toàn cầu lâm vào suy thoái, hoạt động của nhiều ngân hàng trên thế giới có

dấu hiệu suy giảm nhanh, niềm tin của người gửi tiền vào các ngân hàng bị xói mòn.
Tại Mỹ, FDIC đã đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận xử lý ngân hàng gặp vấn đề. Từ đầu năm
2008 tới năm 2009, FDIC đã tiếp nhận và xử lý 16 ngân hàng đổ vỡ. Ngoài ra, trong bản kế hoạch
giải cứu ngành tài chính trị giá 700 tỷ USD được Quốc hội thông qua ngày 1/10/2008, FDIC đã
nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD (hạn mức này duy trì đến hết
năm 2009) để củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính.
Tính đến nay, năm 2015, nước Mỹ đã mất 2 ngân hàng (Ngân hàng Highland Community
và ******) trong khi con số này là 3 so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường tài chính Mỹ cũng dần
ổn định trở lại do số lượng ngân hàng đổ vỡ sau khủng hoảng tài chính đã giảm dần qua các
năm, cụ thể: Năm 2010 với 157 ngân hàng sụp đổ, giảm xuống còn 92 vào năm 2011, 51 năm
2012, 24 năm 2013 và 18 ngân hàng trong năm 2014.
Trang 16
· Thứ ba, Mỹ dành nhiều quan tâm tới giám sát hoạt động ngân hàng
Một trong những yếu tố quyết định sự phát triển và thành công của FDIC là họ đã rất chú
trọng vào hoạt động kiểm tra, giám sát. Ngay sau khi thành lập, FDIC đã cử 4.000 kiểm tra viên
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các ngân hàng nhằm đánh giá tiêu chí là thành viên của FDIC.
Nguồn nhân lực thực hiện công tác giám sát hoạt động ngân hàng ở Mỹ được đầu tư đáng kể so với
nhiều quốc gia khác, số lượng thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Nhật Bản vào thời điểm năm
1995 là 400 người, trong khi đó số thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Mỹ năm 1995 là 8.000
người. Nội dung kiểm tra giám sát gồm:
Kiểm tra việc đảm bảo là thành viên tham gia BHTG và bổ sung vốn nhằm đảm bảo quy định về vốn
trong hoạt động ngân hàng.
Kiểm tra khả năng đảm bảo hoạt động lành mạnh và an toàn của ngân hàng với bốn nội dung: Xác
định chất lượng tài sản hiện có; Phát hiện các hoạt động phát sinh có thể dẫn đến khó khăn tài
chính; Thẩm định điều hành ngân hàng; Phát hiện các hoạt động không bình thường và có dấu hiệu
vi phạm pháp luật.
· Thứ tư, nguồn lực triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ được đầu tư rất lớn.
Có cơ sở pháp lý cao (Luật BHTG) ngay từ đầu và được điều chỉnh kịp thời trong quá trình
triển khai; có nguồn tài chính lớn và có cơ chế huy động tài chính thích ứng với đặc thù và vai trò
quan trọng của chính sách BHTG trong giải quyết rủi ro của lĩnh vực tài chính - ngân hàng; có

nguồn nhân lực lớn đáp ứng yêu cầu triển khai của chính sách (nhân lực của FDIC vào thời điểm
tháng 10/2008 là 5000 người).
· Thứ năm, nghiệp vụ xử lý đổ vỡ ngân hàng ở Mỹ đã đạt được những kết quả đáng kể.
Tại Mỹ, FDIC có chức năng tiếp nhận, xử lý các ngân hàng có vấn đề thì hệ thống ngân hàng
sẽ ổn định, trật tự xã hội được đảm bảo. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính bắt đầu tại nước Mỹ
từ năm 2007, một loạt các ngân hàng ở Mỹ phải tuyên bố đóng cửa nhưng không hề xảy ra hiện
tượng người gửi tiền ồ ạt đi rút tiền như ở Anh. Lý do là vì chỉ vài ngày sau khi các ngân hàng tuyên
bố đóng cửa, toàn bộ tài khoản tiền gửi của khách hàng đều được FDIC chuyển sang một ngân
hàng tiếp nhận khác. Đó có thể là ngân hàng bắc cầu được FDIC thành lập để tiếp nhận ngân hàng
bị đổ vỡ hoặc một ngân hàng tiếp nhận khác đã được FDIC thương lượng trước đó.
Theo đó, khách hàng vẫn có thể giao dịch bình thường trong khoản tiền gửi ngân hàng của
họ qua việc ký séc, sử dụng máy ATM hay thẻ tín dụng. Các loại séc của ngân hàng bị đổ vỡ vẫn
được giao dịch bình thường trong một khoảng thời gian theo quy định. Và các khoản nợ của khách
hàng vẫn được tiếp tục thanh toán như thường lệ. Việc này chứng tỏ vai trò to lớn của FDIC với
cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ nói riêng và khủng hoảng tài chính toàn cầu nói chung.
Trang 17
Tuy đạt được những thành tựu đáng kể ở trên nhưng hoạt động BHTG ở Mỹ cũng không
tránh khỏi những hạn chế trong quá trình hoạt động. Hạn chế đáng kể nhất chính là trong chính
sách hỗ trợ tài chính với các ngân hàng.
Hiện nay FDIC đang duy trì một chính sách mà giới ngân hàng cho là thiếu công bằng, đó là chính
sách “quá lớn không thể phá sản”. Thực hiện chính sách này, FDIC tiến hành xếp loại các tổ chức
được bảo hiểm và xếp các ngân hàng lớn nhất vào loại không thể phá sản, tức là FDIC sẽ bảo lãnh
để không một người gửi tiền hay chủ nợ nào của các ngân hàng này bị tổn thất nếu các ngân hàng
này mất khả năng thanh toán. Để làm được điều này khi phát hiện ra trong một số các ngân hàng
thuộc loại không thể phá sản có dấu hiệu mất khả năng thanh toán, FDIC sẽ tìm người chung mua
lại ngân hàng này và rót những khoản vốn cứu trợ khổng lồ với thiệt hại lên tới hàng tỷ USD.
Cơ sở để thực hiện chính sách này là nếu FDIC cho phép các ngân hàng lớn vỡ nợ thì tác
động đến thị trường tài chính sẽ vô cùng to lớn. Người gửi tiền sẽ lao đến rút tiền ở các ngân hàng
khác vì họ cho rằng ngân hàng lớn vỡ nợ thì các ngân hàng nhỏ cũng dễ dàng bị mất khả năng
thanh toán. Trong thực tế các ngân hàng lớn thường là trung tâm thanh toán thu hút tiền gửi của các

ngân hàng nhỏ hơn, do vậy khi các ngân hàng lớn bị phá sản thì cũng có thể gây ra những tổn thất
lớn cho các ngân hàng nhỏ này và trực tiếp tác động lên các khoản tiền gửi tại các ngân hàng nhỏ.
Do vậy khi các ngân hàng lớn bị mất khả năng thanh toán, FDIC không đặt vấn đề chi phí lên hàng
đầu mà ưu tiên cho mục tiêu ổn định hệ thống tài chính.
4.2 HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI MỸ
Tuy nhiên chính sách này vô hình dung đã tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho các
ngân hàng lớn và cản trở hoạt động của các ngân hàng chuyên doanh trong một lĩnh
vực hoặc khu vực kinh tế nhỏ. Những người gửi tiền nhận thức được rằng nếu gửi tiền
vào các ngân hàng lớn thì tiền của họ sẽ đƣợc bảo hiểm toàn bộ, giới hạn bảo hiểm
tiền gửi không có ý nghĩa gì do vậy sẽ đổ xô vào gửi tiền tại các ngân hàng lớn.
Chính sách này cũng làm tăng rủi ro đạo đức. Các ngân hàng lớn biết được rằng
chính phủ và tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ không bao giờ để cho họ bị phá sản do đó đã
tham gia vào các hoạt động đầu tư nhiều rủi ro để mang lại lợi nhuận lớn. Đồng thời, chi
phí bỏ ra để cứu các ngân hàng lớn có thể làm cạn quỹ bảo hiểm. Như vậy, các ngân
hàng nhỏ đóng phí nhưng các ngân hàng lớn lại được hưởng lợi.
Tuy có hạn chế như trên nhưng nhìn chung BHTG kể từ khi thành lập đến nay luôn
phát huy vai trò của nó trong việc phát triển và bảo vệ hệ thống ngân hàng, ổn định thì
trường tài chính, giúp kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định và phát triển. Những chính sách
mà FDIC đưa ra rất kịp thời và phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước Mỹ, điều đó đã giúp
hệ thống tài chính Mỹ tránh được những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
SO SÁNH CƠ BẢN
ĐÚC KẾT TỪ MỸ
IV
CHO VIỆT NAM
Trang 18
1. SO SÁNH CƠ BẢN GIỮ BẢO HIỂM TIỀN GỬI MỸ VÀ VIỆT NAM
VIỆT NAM
MỸ
LOẠI TIỀN THUỘC ĐỐI
TỰNG ĐƯỢC BẢO HIỂM

Đồng Việt Nam
Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu các hình thức
tiền gửi khác theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng – chỉ
cá nhân
Đô la Mỹ
Checking Accounts
Savings Accounts (both
statement and passbook)
Mon ey M a rk e t Dep osi t
Accounts (MMDAs), and
Certificates of Deposit (CDs)
HẠN MỨC CHI TRẢ
Tối đa 50.000.000VND
Tối đa 250.000USD
NĂNG LỰC TÀI CHÍNH
Vốn điều lệ do Ngân sách Nhà
nước cấp, phí bảo hiểm tiền
gửi, đầu tư, nguồn thu khác.
Nguồn vốn: vốn ban đầu do
phát hành trái phiếu, thu phí từ
ngân hàng, đầu tư, nguồn thu
khác.
Được đảm bảo khoản tín dụng
dự phòng trị giá 30 tỷ USD do
Cục dự trữ Liên bang và Bộ Tài
chính Hoa Kỳ cấp.

PhÍ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Đồng hạng (với tỷ lệ 0,15%
trên tổng số dư tiền gửi thuộc
đối tượng được bảo hiểm)
Mức phí hàng năm cho các tổ
chức này dao động từ 0,00%
đến 0,27% tổng số dư tiền
gửi thuộc đối tượng bảo hiểm
tại mỗi ngân hàng.
MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG
Thuộc quyền quản lí của
ngân hàng nhà nước.
Vị trí ngang bằng với FED, linh
hoạt trong chính sách. FDIC
trự c th uộc c hí n h phủ .
MÔ HÌNH TỔ CHỨC
Mô hình chi trả với quyền
hạng mở rộng
Mô hình giảm thiểu rủi ro
TIÊU CHÍ
Trang 19
Trang 20
Hạn mức BHTG tại Việt Nam đã được điều chỉnh từ 30 lên 50 triệu đồng/một người gửi tiền
tại một tổ chức tham gia BHTG vào năm 2005. Việc điều chỉnh hạn mức BHTG vào thời điểm này
cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đến quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời cũng phù hợp với
sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hạn mức này đã không thay đổi trong suốt gần 10 năm qua.
Trong khi đó, các tiêu chí như GDP bình quân đầu người, lạm phát, tích lũy đã có những thay đổi
đáng kể. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về điều chỉnh tăng hạn mức BHTG, nhằm bảo vệ và cải
thiện niềm tin của người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng phù hợp với tình
hình mới.

Về vấn đề này, cơ quan quản lý Nhà nước có thể cân nhắc đưa ra một lộ trình tăng hạn mức.
Theo đó, công bố công khai thời điểm tăng hạn mức trong tương lai. Cách làm như vậy sẽ đảm bảo
việc tăng hạn mức diễn ra thuận lợi mà không gây ra yếu tố tâm lý và các dư luận trái chiều.
2.1 HẠN MỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI CẦN ĐÁP ỨNG SỰ THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA NỀN KINH TẾ
2. NHỮNG ĐÚC KẾT CƠ BẢN CHO BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
Cơ chế xử lý mà một số nước như Mỹ, Nhật,… thực thi trong thời gian qua được xem là một trong
những mô hình tốt cho các nước đang muốn xây dựng một cơ chế xử lý hiệu quả đối với các tổ
chức tín dụng khi gặp những vấn đề tương tự. Từ kinh nghiệm của Mỹ,… có thể rút ra một số bài
học cho Việt Nam như sau:
- Trong một số trường hợp, FDIC, DICJ,… có thể sử dụng nguồn vốn của mình để xử lý thông
qua biện pháp chi trả hoặc tiếp nhận và mua lại. Tại Việt Nam, Luật BHTG cho phép BHTGVN có
thể tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng. Quy định này nên được hướng dẫn
cụ thể hơn, để BHTGVN có thể góp phần tích cực trong quá trình xử lý nợ xấu, giảm thiểu rủi ro đổ
vỡ của các TCTD, nhất là các TCTD có quy mô nhỏ.
- Trong quá trình xử lý tổ chức tài chính đổ vỡ, nguyên tắc chi phí thấp nhất (như sử dụng
biện pháp tiếp nhận và mua lại nhiều hơn biện pháp chi trả) cần được thực thi nghiêm ngặt.
2.2 XÂY DỰNG MỘT CƠ CHẾ XỬ LÝ ĐỖ VỠ VÀ GIẢM THIỂU RỦI RO NGÂN HÀNG
HIỆU QUẢ
Trong một hệ thống tài chính mở cửa hội nhập, các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo
hiểm thường có mối quan hệ giao thoa với nhau. Vì vậy, nên xây dựng một cơ chế phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan có trách nhiệm quản lý, giám sát khu vực tài chính, ngân hàng và bảo vệ
người gửi tiền theo mô hình Mạng an toàn tài chính. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động phối hợp
có thể thông qua một đạo luật tổng thể hoặc qua Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa các cơ quan.
2.3 XÂY DỰNG CƠ CHẾ PHỐI HỢP CHẶT CHẼ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN MẠNG AN
TOÀN TÀI CHÍNH

×