Chuyên đề 9. Quản lý đánh giá kết quả học tập và rèn luyện
của sinh viên trong trường đại học, cao đẳng
(Số tiết học: 15)
Người biên soạn: Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
Khoa QL Học viện QLGD
A. Mục tiêu của chuyên đề:
Sau khi học chuyên đề ngày, học viên có khả năng:
Kiến thức
- Hiểu và giải thích được các qui định về kiểm tra, đánh giá sinh viên trong
đào tạo ĐH, CĐ; Yêu cầu đổi mới phương pháp, hình thức kiểm tra đánh giá kết
quả học tập và rèn luyện của sinh viên trong quá trình đào tạo
- Phân biệt hai nhóm phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận. Biết
sử dụng các phương pháp đánh giá kết hợp với giảng dạy để giúp sinh viên nắm
được vấn đề nhằm đạt được mục tiêu học tập, xác định được các quan điểm
đúng đắn khi tiến hành các phương pháp đánh giá trong quá trình dạy và học.
Kỹ năng
- Có khả năng tổ chức thực hiện kiểm tra đánh giá đánh kết quả học tập và
rèn luyện của sinh viên đảm bảo yêu cầu khoa học, khách quan, đúng qui chế
hiện hành.
Thái độ
Ý thức được các yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập và rèn
luyện của sinh viên; chủ động quyết tâm trong thực hiện đổi mới hoạt động này,
chống tiêu cực và bệnh thành tích trong đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng
GD đáp ứng nhu cầu xã hội.
B. Tóm tắt nội dung chuyên đề:
Bao gồm phân loại các phương pháp đánh giá trong giáo dục; đánh giá
trong tiến trình kế hợp với giảng dạy và đánh giá tổng kết; quản lý đánh giá kết
quả học tập của sinh viên đại học, cao đẳng; đánh giá kết quả rèn luyện của sinh
viên trong trường ĐH, CĐ; kinh nghiệm thực tế về quản lý đánh giá kết quả học
tập, rèn luyện của sinh viên trong trường đại học, cao đẳng.
1
C. Nội dung chi tiết chuyên đề
1. Tiếp cận hiện đại trong đánh giá kết quả học tập của sinh viên ĐH, CĐ
1.1. Phân loại các phương pháp đánh giá trong giáo dục
Bất kỳ một quá trình giáo dục nào mà một con người tham gia cũng nhằm
tạo ra những biến đổi nhất định trong con người đó. Muốn biết những biến đổi
đó xảy ra ở mức độ nào phải đánh giá hành vi của người đó trong một tình
huống nhất định. Việc đánh giá cho phép chúng ta xác định, một là mục tiêu
giáo dục được đặt ra có phù hợp hay không và có đạt được hay không, hai là
việc giảng dạy có thành công hay không, sinh viên có tiến bộ hay không…
Có nhiều kiểu phân loại các phương pháp đánh giá trong giáo dục, tùy
theo góc độ xem xét và mục tiêu phân loại. Ở đây đề cập một số kiểu phân loại
các phương pháp đánh giá trong giáo dục .
(1) Theo cách thực hiện việc đánh giá, có thể phân chia các phương pháp
đánh giá làm ba loại lớn: loại quan sát, loại vấn đáp và loại viết (sơ đồ H.1).
- Loại quan sát giúp đánh giá các thao tác, các hành vi, các phản ứng vô
thức, các kỹ năng thực hành và cả một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách
giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu.
- Loại vấn đáp có tác dụng tốt để đánh giá khả năng ứng đáp các câu hỏi
được nêu một cách tự phát trong một tình huống cần kiểm tra, cũng thường được
sử dụng khi sự tương tác giữa người hỏi và người đối thoại là quan trọng, chẳng
hạn để xác định thái độ người đối thoại
- Loại viết thường được sử dụng nhiều nhất, vì nó có các ưu điểm sau:
. cho phép kiểm tra nhiều thí sinh cùng một lúc;
. cho phép thí sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời;
. có thể đánh giá một số loại tư duy ở mức độ cao;
. cung cấp các bản ghi trả lời của thí sinh để nghiên cứu kỹ khi chấm;
. dễ quản lý vì người chấm không tham gia trực tiếp vào bối cảnh kiểm tra.
Loại đánh giá viết lại được chia thành hai nhóm chính:
2
a- Nhóm các câu hỏi tự luận (TL): Các câu hỏi buộc phải trả lời theo dạng
mở, thí sinh phải tự mình trình bày ý kiến trong một bài viết để giải quyết vấn đề
mà câu hỏi nêu ra.
b- Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm khách quan (TNKQ): Đề thi thường bao
gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu lên vấn đề và những thông tin cần thiết để
thí sinh có thể trả lời từng câu một cách ngắn gọn.
Ở nước ta nhiều người thường gọi tắt trắc nghiệm khách quan là “trắc
nghiệm”. Thuận theo thói quen ấy, từ nay về sau trong chuyên đề này khi dùng
từ “trắc nghiệm” sẽ được hiểu là TNKQ.
(2) Theo mục tiêu của việc đánh giá có thể phân chia các phương pháp
đánh giá làm hai nhóm: đánh giá trong tiến trình (formative) và đánh giá tổng
kết (summative).
Đánh giá trong tiến trình được sử dụng trong quá trình dạy và học để
nhận được các phản hồi từ sinh viên, xem xét mức độ thành công của việc dạy
và học, chỉ ra trở ngại và tìm cách khắc phục.
Đánh giá tổng kết nhằm tổng kết những gì sinh viên đạt được, xếp loại
SV, lựa chọn sinh viên thích hợp để tiếp tục đào tạo hoặc sử dụng trong tương
lai, chứng tỏ hiệu quả của khóa học và của việc dạy của giảng viên, đề ra mục
tiêu tương lai cho sinh viên.
Hai nhóm đánh giá nêu trên được tiến hành theo những cách hoàn toàn
khác nhau. Trong giảng dạy ở nhà trường, các đánh giá trong tiến trình thường
gắn chặt với giảng viên, còn các đánh giá kết thúc thường bám sát vào mục tiêu
dạy học đã được đề ra, và có thể tách khỏi giảng viên.
(3) Theo phương hướng sử dụng kết quả đánh giá, có thể phân chia ra
đánh giá theo chuẩn (norm-referrenced) và đánh giá theo tiêu chí (criterion-
referrenced)
- Đánh giá theo chuẩn: là đánh giá được sử dụng để xác định mức độ
thực hiện của một cá nhân nào đó so với các cá nhân khác trong một nhóm mà
trên đó việc đánh giá được thực hiện.
3
- Đánh giá theo tiêu chí: là đánh giá được sử dụng để xác định mức độ
thực hiện của một cá nhân nào đó so với các tiêu chí xác định cho trước.
1.2.Trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận
Ở 1.1 đã nêu việc phân chia trắc nghiệm viết thành hai loại trắc nghiệm
khách quan và tự luận. Trong bảng ở H.1 sau đây có chỉ rõ các phương pháp thể
hiện hoặc viết các câu hỏi trắc nghiệm khách quan và tự luận.
H.1. Phân loại các phương pháp đánh giá thành quả học tập
Đối với TNKQ còn có thể phân chia theo các nhóm sau đây:
(1) Theo cách chuẩn bị đề trắc nghiệm, có thể phân chia thành trắc
nghiệm tiêu chuẩn hoá và trắc nghiệm dùng ở lớp học.
- Trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá thường do các chuyên gia trắc nghiệm soạn
thảo, thử nghiệm, tu chỉnh, do đó mỗi câu trắc nghiệm được gắn với các chỉ số
cho biết thuộc tính và chất lượng của nó (độ khó, độ phân biệt, phản ánh nội
dung và mức độ kỹ năng nào), mỗi đề thi trắc nghiệm có gắn với một độ tin cậy
xác định, ngoài ra có những chỉ dẫn cụ thể về cách triển khai trắc nghiệm và
giải thích kết quả trắc nghiệm.
- Trắc nghiệm dùng ở lớp học (hoặc trắc nghiệm do giáo viên soạn) là trắc
nghiệm do giáo viên tự viết để sử dụng trong quá trình giảng dạy, có thể chưa
4
Cung cấp thông tin
QUAN SÁT
VIẾT VẤN ĐÁP
TRẮC NGHIỆM KHÁCHQUAN
(Objective tests)
TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN
(Essay tests)
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ HỌC TẬP
Tiểu luận
Ghép đôi
Điền khuyết
Trả lời ngắn Đúng sai
Nhiều lựa chọn
được thử nghiệm và tu chỉnh công phu, thường chỉ sử dụng trong các kỳ kiểm
tra với số lượng học sinh không lớn và không thật quan trọng.
(2) Theo mức độ đảm bảo thời gian để làm trắc nghiệm, có thể phân chia
loại trắc nghiệm theo tốc độ và trắc nghiệm không theo tốc độ.
- Trắc nghiệm theo tốc độ thường hạn chế thời gian, chỉ một ít thí sinh
làm nhanh mới có thể làm hết số câu của đề trắc nghiệm, nhằm đánh giá khả
năng làm nhanh của thí sinh.
- Trắc nghiệm không theo tốc độ thường cung cấp đủ thời gian cho phần
lớn thí sinh có thể kịp suy nghĩ để làm hết bài trắc nghiệm.
* So sánh các phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận
TL cho phép có một sự tự do tương đối nào đó để trả lời một CH được
đặt ra, nhưng đồng thời lại đòi hỏi học sinh phải nhớ lại hơn là nhận biết thông
tin, và phải biết sắp xếp và diễn đạt ý kiến của họ một cách chính xác và sáng
sủa. Bài TL thường được chấm điểm một cách chủ quan và các điểm cho bởi
những người chấm khác nhau có thể không thống nhất. Thông thường một đề tự
luận gồm ít CH hơn là một đề trắc nghiệm (ĐTN) khách quan do phải cần nhiều
thời gian để trả lời mỗi câu hỏi.
TNKQ thường có nhiều phương án trả lời được cung cấp cho mỗi CH của
ĐTN nhưng chỉ có một phương án duy nhất là đúng hoặc tốt nhất, phù hợp nhất.
Bài trắc nghiệm được chấm điểm bằng cách đếm số lần mà người làm trắc
nghiệm đã chọn được phương án trả lời đúng trong số những phương án trả lời
đã được cung cấp. Trắc nghiệm như vậy được gọi là khách quan vì việc cho
điểm là khách quan chứ không chủ quan như đối với trắc nghiệm tự luận. Có thể
nói là kết quả chấm điểm sẽ như nhau, không phụ thuộc vào việc ai chấm bài
trắc nghiệm đó. Thông thường ĐTN KQ gồm có nhiều CH hơn đề TL, và mỗi
CH thường có thể được trả lời bằng cách đánh dấu đơn giản.
Có một câu hỏi thường nẩy sinh: trong hai phương pháp TNKQ và TL,
phương pháp nào tốt hơn? Cần phải khẳng định ngay rằng không thể nói
phương pháp nào hoàn toàn tốt hơn; mỗi phương pháp có các ưu điểm và nhược
5
điểm nhất định. Bảng so sánh dưới đây cho thấy tuỳ theo từng vấn đề, ưu thế
thuộc về phương pháp nào.
Vấn đề
Ưu thế thuộc về phương
pháp
trắc nghiệm tự luận
Ít tốn công ra đề thi
Đánh giá được khả năng diễn đạt, đặc biệt
là diễn đạt tư duy hình tượng
Đề thi phủ kín nội dung môn học
Ít may rủi do trúng tủ, trật tủ
Ít tốn công chấm thi
Khách quan trong chấm thi
Áp dụng được công nghệ mới trong việc
nâng cao chất lượng kỳ thi, giữ bí mật đề
thi, hạn chế quay cóp khi thi, hạn chế tiêu
cực trong chấm thi và giúp phân tích kết
quả thi
Qua những điều đã tìm hiểu có thể thấy rằng cả hai phương pháp, TNKQ
và TL, đều là những phương pháp hữu hiệu để đánh giá kết quả học tập. Cần
nắm vững bản chất và công nghệ triển khai cụ thể từng phương pháp để có thể
sử dụng mỗi phương pháp đúng lúc, đúng chỗ.
Các chuyên gia về đánh giá cho rằng phương pháp tự luận nên dùng
trong các trường hợp sau:
1. Khi TS không quá đông;
2. Khi muốn khuyến khích và đánh giá cách diễn đạt;
3. Khi muốn tìm hiểu ý tưởng của TS hơn là khảo sát thành quả học tập;
4. Khi có thể tin tưởng khả năng chấm bài tự luận của giáo viên là chính
xác;
5. Khi không có nhiều thời gian soạn đề nhưng có đủ thời gian để chấm bài.
Phương pháp trắc nghiệm nên dùng trong những trường hợp sau:
1. Khi số TS rất đông;
2. Khi muốn chấm bài nhanh;
6
3. Khi muốn có điểm số đáng tin cậy, không phụ thuộc vào người chấm bài;
4. Khi phải coi trọng yếu tố công bằng, vô tư, chính xác và muốn ngăn chặn
sự gian lận trong thi cử;
5. Khi muốn kiểm tra một phạm vi hiểu biết rộng, muốn ngăn ngừa nạn học
tủ, học vẹt và giảm thiểu sự may rủi.
1.3. Đánh giá trong tiến trình kết hợp với giảng dạy và đánh giá tổng kết
Như đã trình bày ở phần 1.1, theo mục tiêu của việc đánh giá có thể phân
chia đánh giá ra làm hai dạng: đánh giá trong tiến trình và đánh giá tổng kết.
1.3.1. Sử dụng đánh giá trong tiến trình để nâng cao chất lượng học
tập
Đánh giá trong tiến trình được thực hiện trong suốt quá trình giảng dạy,
mục tiêu quan trọng là nâng cao chất lượng dạy và học, giúp đỡ sinh viên đạt
mục tiêu đề ra đối với môn học.
Với đánh giá trong tiến trình không nên dùng kiểu đánh giá theo chuẩn
(norm-referenced), vì không có nhu cầu phân chia SV theo thứ bậc. Không nên
lưu ý đến việc xếp loại, nhất là đối với những sinh viên kém, vì làm như vậy sẽ
làm họ nản lòng, làm mất động lực học tập của họ, vì rằng dù họ học kém nhưng
có thể kết quả học tập của họ vẫn đạt theo tiêu chí. Do đó với đánh giá trong tiến
trình nên dùng kiểu đánh giá theo tiêu chí (criteria-referenced). Khi sử dụng
đánh giá theo tiêu chí để đánh giá trong tiến trình, điều lý tưởng nhất là mọi
sinh viên đều đạt yêu cầu theo tiêu chí đã đề ra.
Một số người chậm hiểu đôi khi muốn học được học những điều đơn giản
có thể phải mất thời gian nhiều gấp 5, 6 lần những người khác. Tuy nhiên, B.
Bloom cho rằng nếu được hướng dẫn thích hợp thì những sinh viên chậm hiểu
cũng sẽ đạt yêu cầu với thời gian cỡ gấp đôi. Ông ta chứng minh rằng nếu được
hướng dẫn thỏa đáng, chỉ ra những sai lầm thiếu sót mà người chậm hiểu vấp
phải trong học tập thì 90% người chậm hiểu sẽ qua được các kỳ thi với số điểm
khoảng 90% (quy tắc 90-90).
Muốn đạt được kết quả như trên cần theo các nguyên tắc sau đây (G.
Petty, 1998):
7
- Hướng dẫn tối đa cho cá nhân sinh viên như họ cần;
- Cho họ thực tập tối đa khi họ thấy cần;
- Xác định chính xác các kỹ năng mà sinh viên cần có để đạt được yêu cầu;
- Chỉ rõ cho sinh viên xem vì sao họ không đạt yêu cầu để họ biết sửa lỗi
hay lấp các lỗ hổng kiến thức, phát triển kỹ năng chưa đạt;
- Cho phép họ làm lại bao nhiêu lần tùy ý.
Quy trình học để nắm được vấn đề (mastery learning) nên tổ chức như sau:
- Trước hết phải xác định mục tiêu: mục tiêu chỉ nên ở mức mà cả lớp đều
sẽ đạt được sau một thời gian đủ để học và thực hành có chỉnh sửa. Nên giới hạn
các kỹ năng chỉ ở mức cần thiết. Bài kiểm tra phải thiết kế theo các tiêu chí đó.
- Khi giảng dạy: Cần cá thể hóa việc dạy và học để sinh viên có thể làm
việc theo tốc độ của mình. Những sinh viên đã đạt chuẩn sẽ nhanh chóng được
giao thêm các hoạt động để phát triển cao hơn mức nắm được vấn đề, hoặc sẽ
tập trung vào các mục tiêu phát triển. Các hoạt động mở rộng này không cần
thêm giảng viên hỗ trợ, nhưng phải được thiết kế cẩn thận, không phải chỉ để lấp
thời gian trống. Đối với các sinh viên gặp khó khăn nên hướng dẫn họ làm thêm
bài tập hoặc nhờ bạn bè hỗ trợ. Nếu cần, có thể chia sinh viên thành các nhóm
có tốc độ học tập như nhau hoặc làm việc theo từng đôi có cùng trình độ.
Thực chất của chiến lược học để nắm vấn đề chính là sự hướng dẫn theo
nhóm có sự hỗ trợ của thông tin phản hồi thường xuyên và giúp đỡ chỉnh sửa
cho từng cá nhân khi sinh viên cần.
- Kiểm tra chẩn đoán: Nên có nhiều lần kiểm tra không chính thức và
chính thức để lấy thông tin phản hồi, giúp sinh viên chỉnh sửa sai sót. Không
nên ra bài kiểm tra khó. Không dùng kiểm tra để xếp hạng, chỉ xét đạt hay
không đạt.
- Giúp đỡ sửa chữa: Một yếu tố quan trọng của quá trình học tập để đạt
mức nắm vấn đề là phải yêu cầu sinh viên tự sửa các lỗi và thiếu sót của mình đã
được chỉ ra trong bài kiểm tra. Điều này làm cho quy trình học tập biến thành
một hệ thống tự sửa chữa. Nếu đa số sinh viên làm sai một câu hỏi nào đó trong
bài kiểm tra chẩn đoán thì nhiều khả năng có lỗi ở tài liệu học tập, của sự hướng
8
dẫn của giảng viên, hay thiếu sót trong chính đề kiểm tra. Giảng viên phải điều
chỉnh sai sót đó. Những sinh viên không đạt yêu cầu đối với một bài kiểm tra
chẩn đoán sẽ phải làm một bài tương tự vài ngày sau đó.
Quá trình học tập có chỉnh sửa cần được tiếp tục cho đến khi sinh viên đạt
yêu cầu.
Sự đạt được mức nắm vấn đề làm cho sinh viên tự tin, tăng động lực học
tập, tăng tính kiên trì. Họ còn học được cách học, tìm được lỗi của mình và biết
sửa sai. Cách dạy và học để đạt mức nắm vấn đề như trên đòi hỏi phải chuẩn bị
rất nhiều, nhưng khẳng định được ý tưởng là mọi người đều có thể học nếu
muốn và nếu có nỗ lực, có sửa sai và đủ thời gian.
Nhà tâm lý học nổi tiếng B.F. Skinner có nói: "Nếu một học sinh không
học được thì đó là lỗi của người thầy. Với sự hướng dẫn thích hợp, mọi học sinh
đều có thể đạt điểm ưu."
- Cho điểm: Khi cho điểm và trả bài nên lưu ý không làm nản sinh viên và
tạo động cơ để họ phấn đấu. Chẳng hạn, nếu điểm 8/10 là điểm đạt, thì khi sinh
viên chỉ đạt điểm 4/10 giảng viên không nên bảo là họ không đạt, mà nên nhận
xét: "Em hãy làm lại các câu 4 và 5 để nhận được điểm đạt".
- Sinh viên tự đánh giá: Một phương thức khác thuộc về đánh giá trong
tiến trình là sinh viên tự đánh giá. Nội dung của cách đánh gía này là sinh viên
tự nhận xét điểm mạnh điểm yếu của mình, tự xác định mục tiêu mà bản thân
phải hoàn thiện. Nên quy định định kỳ việc gặp gỡ thảo luận một thầy một trò để
trò tự đánh giá, thầy góp ý nhận xét thêm.
Cần lưu ý rằng nếu không có thông tin phản hồi tin cậy thì việc giảng dạy
sẽ không bao giờ có hiệu quả.
1.3.2. Các phương pháp được sử dụng trong đánh giá tổng kết
Đánh giá tổng kết được thực hiện cuối môn học hay năm học, để tổng kết
những gì sinh viên đạt được (đánh giá theo tiêu chí) hoặc sắp xếp phân hạng
sinh viên (đánh giá theo chuẩn).Trong đánh giá tổng kết người ta thường sử
dụng các phương pháp và công cụ sau đây:
9
(1) Hồ sơ (profiles): Hồ sơ có thể sử dụng cả để đánh giá trong tiến trình
cũng như đánh giá tổng kết. Hồ sơ cũng giống mọi báo cáo khác, có thể rất chủ
quan, nhưng nó giúp cung cấp những thông tin không thể thu thập được trong
các đo lường đánh giá khách quan. Các hồ sơ này do sinh viên tự viết ra và
thông qua giảng viên. Thường hồ sơ phải cung cấp các thông tin sau đây:
- Sự phát triển về mặt cá nhân và xã hội, ý thức về bản thân và các kỹ
năng xã hội;
- Những tiến bộ đạt được, động cơ;
- Khát vọng về nghề nghiệp;
- Đam mê và sở thích, cả trong và ngoài nhà trường;
- Mức độ đạt được các kỹ năng cốt lõi: giải quyết vấn đề, giao tiếp, công
nghệ thông tin, tính toán, sự khéo tay ….
Tốt nhất là sinh viên tự đánh giá và đặt mục tiêu cho chính mình, và kết
quả được ghi vào hồ sơ. Hồ sơ là lài sản riêng của sinh viên, họ có thể sử dụng
sau này khi đi xin việc làm. Trong hồ sơ sinh viên có thể có những bản liệt kê
các kỹ năng cốt lõi. Mỗi trường thường thiết kế hồ sơ theo kiểu riêng của mình.
Nhiều người phê phán hồ sơ vì nó phản ánh thiếu khách quan, tuy nhiên nếu biết
chọn lọc và phân tích thì hồ sơ sinh viên cho nhiều thông tin bổ ích.
Có một dạng đánh giá theo hồ sơ khác được sử dụng trong một số trường
đại học Mỹ như sau. Đối với nhiều sinh viên đã kinh qua các hoạt động xã hội
hoặc nghề nghiệp, những kết quả hoạt động của họ liên quan đến các môn học ở
nhà trường có thể được đánh giá và cho điểm, và được công nhận tương đương
với một số tín chỉ. Thường sinh viên phải tập hợp các công trình và hoạt động
liên quan của họ trong một bộ hồ sơ, và một nhóm giáo chức được đề cử để
xem xét và cho điểm theo các bộ hồ sơ đó.
(2) Bảng danh mục năng lực: Thường sử dụng cho các cơ sở đào tạo
những năng lực có tính chất kỹ năng nghề nghiệp. Bảng danh mục liệt kê các
năng lực cụ thể, sinh viên ghi và trình bày cho giảng viên, giảng viên xác nhận.
Các hội đồng đánh giá kỹ năng của các hội nghề nghiệp ở Mỹ thiết kế những
công cụ rất cụ thể để ghi nhận những năng lực nghề nghiệp này.
10
(3) Đánh giá liên tục: Đây là một quy trình đánh giá những phần công
việc do giảng viên giao và được sinh viên thực hiện trong suốt khóa học. Đánh
giá này được xem là một phần của đánh giá tổng kết. Đánh giá liên tục là việc
làm rất vất vả đối với giảng viên nhưng nó có tác dụng rất tốt trong việc tăng
cường động cơ học tập của sinh viên.
(4) Vấn đáp: Vấn đáp thường là giữa một sinh viên và giáo chức dạy họ,
cũng có thể giữa một sinh viên và một hội đồng thành viên giáo chức. Các ưu
điểm của phương pháp vấn đáp là: - tăng cường sự trao đổi giữa sinh viên và
giáo chức; - làm giảm rất nhiều khả năng sinh viên hiểu sai lệch câu hỏi; - cho
phép nêu những câu hỏi theo trình tự; - có thể hỏi theo chiều rộng, chiều sâu và
bất kỳ kỹ năng nào mà giảng viên quan tâm; - cung cấp sự phản hồi tức thời cho
sinh viên. Nhược điểm của phương pháp vấn đáp là: - có thể tạo thuận lợi hơn
cho các sinh viên ăn nói lưu loát; - tốn nhiều thời gian; - có thể làm sinh viên lo
lắng, sợ hãi; - khó giữ câu hỏi bí mật vì tất cả sinh viên không thi cùng một lúc;
- là một kiểu thi khó cho sinh viên chuẩn bị; - không thể so sánh sinh viên với
nhau một cách đáng tin cậy nếu không ghi âm; - nó dựa trên sự đánh giá chủ
quan; - các điều kiện thi và câu hỏi thi khác nhau đối với các sinh viên khác
nhau.
(5) Các kỳ thi: Kỳ thi kết thúc sẽ sử dụng theo hình thức nào, TNKQ hay
TL, phải cho sinh viên biết trước. Trong quá trình giảng dạy cần có những bài
kiểm tra bằng dạng thức tương tự để sinh viên làm quen, có sửa chữa để sinh
viên nhận dạng sai lầm. Một hình thức rất tốt là viết các câu hỏi trên bảng rồi
yêu cầu một số sinh viên trả lời, sau đó sửa chữa.
Trong các kỳ thi có loại kỳ thi tổng hợp. Một số trường đại học Mỹ (ví dụ
trường St. John; Trường Đại cương ở Viện Đại học Minnesota) tổ chức thi về
giáo dục đại cương hoặc về thành quả của giai đoạn 1 vào cuối năm thứ hai; một
vài nơi (chẳng hạn Trường đại học Reed) tổ chức thi năm thứ ba về các chuyên
ngành chính để đảm bảo chất lượng nhằm được làm luận văn năm thứ tư…Ưu
điểm của các kỳ thi tổng hợp: - buộc sinh viên phải tích hợp và tổng hợp kiến
thức nhiều hơn là một môn học; - tạo một thời kỳ để tổng kết và kiểm điểm về
11
sự giáo dục của trường đại học; - cung cấp cho sinh viên một sự đánh giá chung
hiếm có về thành tích của họ bởi giáo chức; Những nhược điểm của chúng là: -
kỳ thi tổng hợp làm cho sinh viên lo lắng; - tốn nhiều thời gian và công sức.
(6) Các bài viết: Bài viết rất đa dạng: từ các bài viết được giao thực hiện
một vài trang đến các dự án theo học kỳ. Loại hình này bao gồm nhiều ưu điểm
của bài trắc nghiệm TL đã nói trên đây, và có cả những thế mạnh của riêng
chúng. Những ưu điểm và thế mạnh đó là chúng cho phép kiểm tra sinh viên về:
- các kỹ năng cao cấp như kỹ năng viết, giải quyết vấn đề, phân tích, giải đoán,
tổng hợp kiến thức; - chiều sâu kiến thức; - khả năng nghiên cứu. Cách đánh giá
này xem sinh viên là trung tâm, tạo cơ hội cho họ chứng tỏ nhận thức và khả
năng của mình. Những nhược điểm của bài viết là: - Đòi hỏi nhiều thời gian để
chấm điểm; - ít khi chúng bao trùm được đủ chiều rộng của một giáo trình; - có
thể bị gian lận, làm hộ; - chúng thiên về các lĩnh vực thuộc thế mạnh của sinh
viên; - chúng tác dụng kém đối với các sinh viên yếu về kỹ năng viết hoặc
nghiên cứu; - chúng có thể khuyến khích sinh viên tập trung vào chuẩn bị bài
viết hơn là tập trung vào môn học liên quan; - việc đánh giá mang nặng tính chủ
quan.
Một loại bài viết quan trọng là các khoá luận hoặc đề án tốt nghiệp. Đây
là loại đánh giá rất phổ biến trong các trường đại học. Các khoá luận và đề án tốt
nghiệp có thể bao gồm việc nghiên cứu ở phòng thí nghiệm, dịch thuật từ các
công trình của nước ngoài, thực hiện biểu diễn về nghệ thuật, các bài viết phê
bình và bài viết nghiên cứu. Ưu điểm của các khóa luận và đề án tốt nghiệp là: -
cung cấp cho sinh viên một cơ hội nghiên cứu độc lập vững chắc; - cho sinh
viên một dịp để hoàn thành một công trình học thuật hoặc sáng tạo của chính họ;
- cung cấp cho sinh viên một cảm xúc về một công việc hoàn thành (phần lớn
các đề án là đạt kết quả); và - tác dụng rất tốt đối với quan hệ giáo chức và sinh
viên. Nhược điểm của khoá luận hoặc đề án là: - đòi hỏi nhiều thời gian của
giáo chức; - gây bất lợi cho những sinh viên yếu về kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng
viết hoặc khả năng tiến hành nghiên cứu độc lập; - một số sinh viên học sau đại
12
học sẽ lặp lại công việc; - làm cho việc học tập ở cấp đại học trở nên chuyên
môn hoá sâu hơn.
(7) Các trắc nghiệm tâm lý: Có thể sử dụng một số trắc nghiệm tâm lý để
đánh giá bổ sung, như trắc nghiệm chỉ số thông minh IQ, nhưng nhưng không
nên dựa quá nhiều vào các trắc nghiệm này, vì kết quả của chúng thường không
ổn định và có một số yếu tố không được tính tới (động cơ…).
2. Quản lý đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học, cao đẳng
2.1. Mục đích, yêu cầu của đánh giá kết quả học tập của sinh viên
Kiểm tra - đánh giá là hoạt động thu thập thông tin định tính và định
lượng về kết quả học tập của sinh viên trong suốt quá trình học tập môn học đối
chiếu với mục tiêu môn học làm cơ sở cho việc xếp hạng sinh viên và các qui
định quản lí khác. Kiểm tra - đánh giá là một bộ phận cấu thành của mọi phương
pháp dạy học và rèn luyện các kiến thức và kĩ năng mà giảng viên mong muốn
sinh viên phải đạt được.
* Mục đích:
Như vậy kiểm tra đánh giá kết quả học tập của SV nhằm mục đích:
Để biết:
• Dạy học có hiệu quả hay không,
• Sinh viên có cần được được hướng dẫn thêm hay không,
• Sinh viên có sẵn sàng học tiếp hay không,
• Có cần phải áp dụng phương pháp khác hay không, và
13
• Bài học tiếp theo cần được cải tiến như thế nào?
Thông qua kiểm tra, đánh giá để GV có thể:
• Cung cấp phản hồi mang tính xây dựng và chẩn đoán cho người
học,
• Chu thập thông tin cho mục đích báo cáo (điểm),
• Xác định mức độ thích hợp cho sinh viên mới (xếp lớp),
• Xác định xem liệu sinh viên có đáp ứng yêu cầu của chương
trình không (bằng cấp), và thúc đẩy sinh viên học tập và tiến bộ bền
vững.
Đối với SV, Kiểm tra đánh giá kết quả học tập nhằm giúp SV:
• Biết những gì được mong đợi ở họ,
• Biết họ cần làm gì để cải thiện khả năng thể hiện của mình,
• Hiểu được điểm số của khoá học bao gồm những yếu tố nào và
• Hiểu được rằng đánh giá là công bằng và có ý nghĩa.
* Yêu cầu:
- Đánh giá kết quả học tập của SV phải được thực hiện đảm bảo khách
quan, chính xác, nghiêm túc, đúng qui chế;
- Phải xây dựng một chiến lược đánh giá trong nhà trường
Mỗi khóa học hoặc môn học đều cần một chiến lược đánh giá. Chiến lược
đánh giá phụ thuộc vào chủ đích và mục tiêu của khóa học hay môn học, và phải
trả lời được các câu hỏi:
- Mục tiêu của đánh giá là gì? Để phân loại sinh viên hay để chẩn đoán,
để tạo động lực học tập, thu thập các phản hồi, ghi nhận những tiến bộ, đánh giá
khóa học hay kết hợp một số trong những mục tiêu nói trên.
- Cần đánh giá cái gì? Cần tiến hành đánh giá như thế nào? Ai sẽ đánh giá
ai? Khi nào? Điểm thu được dùng để báo cáo hay điều chỉnh?
- Sau khi đánh giá điều gì sẽ xảy ra? đặc biệt là đối với những người làm
rất tốt hay rất tồi?
14
Các đề kiểm tra, thi và các biểu điểm được thiết kế cần lưu giữ để so sánh
và sử dụng cho những năm sau.
Khi xây dựng chiến lược đánh giá nên cân nhắc những gì quan trọng phải
được đánh giá, vì đôi khi việc đánh giá có tác dụng điều khiển trở lại quá trình
dạy và học. Quá trình đánh giá không nên biến một số sinh viên trở thành những
kẻ thất bại, vì điều đó sẽ hủy hoại động cơ học tập của họ, dần dần biến họ thành
những kẻ từ chối những quy tắc chung của xã hội và chấp nhận những tệ nạn xã
hội, có thể trở thành tội phạm. Các chương trình giảng dạy nặng về lý thuyết và
cách đánh giá theo chuẩn thường thiên về thành công của những người có khả
năng, không thừa nhận và tặng thưởng cho những phẩm chất khó đo lường của
một số người bị loại bỏ. Nên bổ sung bằng hệ thống đánh giá dựa trên năng lực,
dựa trên hồ sơ, hệ thống học tập và đánh giá nhằm đạt mức nắm được vấn đề, và
các phương thức kiểm tra khác, sao cho ghi nhận được những nỗ lực và thành
công của mọi sinh viên, khơi dậy ở họ lòng tin vào bản thân, vì đó là điểm tựa
trong việc học tập và sự nghiệp của họ trong tương lai.
2.2. Nội dung đánh giá và thang điểm
* Đối với đào tạo theo niên chế:
- Các học phần chỉ có lý thuyết hoặc có cả lý thuyết và thực hành: Điểm
tổng hợp đánh giá học phần (gọi tắt là điểm học phần) bao gồm: điểm kiểm tra
thường xuyên trong quá trình học tập, điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham
gia thảo luận, điểm đánh giá phần thực hành, điểm chuyên cần, điểm thi giữa
học phần, điểm tiểu luận và điểm thi kết thúc học phần, trong đó điểm thi kết
thúc học phần là bắt buộc cho mọi trường hợp và phải có trọng số không dưới
50% của điểm học phần.
Việc lựa chọn các hình thức đánh giá bộ phận và trọng số của các điểm
đánh giá bộ phận cũng như cách tính điểm tổng hợp đánh giá học phần do giảng
viên đề xuất, được Hiệu trưởng phê duyệt và phải được quy định trong đề cương
chi tiết của học phần.
15
- Các học phần thực hành: sinh viên phải tham dự đầy đủ các bài thực
hành. Trung bình cộng điểm của các bài thực hành trong học kỳ được làm tròn
đến phần nguyên là điểm học phần loại này.
- Giảng viên trực tiếp ra đề thi, đề kiểm tra và cho điểm đánh giá bộ phận,
trừ bài thi kết thúc học phần.
Điểm đánh giá bộ phận và điểm học phần được chấm theo thang điểm 10
(từ 0 đến 10), làm tròn đến phần nguyên.
* Đối với đào tạo theo tín chỉ:
Kết quả học tập của sinh viên được đánh giá sau từng học kỳ qua các tiêu
chí sau:
- Số tín chỉ của các học phần mà sinh viên đăng ký học vào đầu mỗi học kỳ
(gọi tắt là khối lượng học tập đăng ký).
- Điểm trung bình chung học kỳ là điểm trung bình có trọng số của các học
phần mà sinh viên đăng ký học trong học kỳ đó, với trọng số là số tín chỉ tương
ứng của từng học phần.
- Khối lượng kiến thức tích lũy là khối lượng tính bằng tổng số tín chỉ của
những học phần đã được đánh giá theo thang điểm chữ A, B, C, D tính từ đầu
khóa học.
- Điểm trung bình chung tích lũy là điểm trung bình của các học phần và
được đánh giá bằng các điểm chữ A, B, C, D mà sinh viên đã tích lũy được, tính
từ đầu khóa học cho tới thời điểm được xem xét vào lúc kết thúc mỗi học kỳ.
- Đối với các học phần chỉ có lý thuyết hoặc có cả lý thuyết và thực hành:
Tùy theo tính chất của học phần, điểm tổng hợp đánh giá học phần (sau đây gọi
tắt là điểm học phần) được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các điểm đánh
giá bộ phận, bao gồm: điểm kiểm tra thường xuyên trong qúa trình học tập;
điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham gia thảo luận; điểm đánh giá phần thực
hành; điểm chuyên cần; điểm thi giữa học phần; điểm tiểu luận và điểm thi kết
thúc học phần, trong đó điểm thi kết thúc học phần là bắt buộc cho mọi trường
hợp và có trọng số không dưới 50%.
16
Việc lựa chọn các hình thức đánh giá bộ phận và trọng số của các điểm
đánh giá bộ phận, cũng như cách tính điểm tổng hợp đánh giá học phần do giảng
viên đề xuất, được Hiệu trưởng phê duyệt và phải được quy định trong đề cương
chi tiết của học phần.
- Đối với các học phần thực hành: Sinh viên phải tham dự đầy đủ các bài
thực hành. Điểm trung bình cộng của điểm các bài thực hành trong học kỳ được
làm tròn đến một chữ số thập phân là điểm của học phần thực hành.
- Giảng viên phụ trách học phần trực tiếp ra đề thi, đề kiểm tra và cho điểm
đánh giá bộ phận, trừ bài thi kết thúc học phần.
Điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo
thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân.
Điểm học phần là tổng điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của học
phần nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một chữ số thập
phân, sau đó được chuyển thành điểm chữ theo qui định của qui chế hiện hành.
2.3. Phân loại kết quả và quy trình đánh giá kết quả học tập
Qui trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV là trình tự sử dụng các
hình thức kiểm tra - đánh giá khác nhau trong suốt quá trình dạy học môn học
nhằm rèn luyện việc đạt các mục tiêu đã xác định trong đề cương môn học. Có 2
hình thức kiểm tra - đánh giá: 1) Kiểm tra - đánh giá thường xuyên; 2) Kiểm tra
- đánh giá định kỳ.
Kiểm tra - đánh giá thường xuyên là hoạt động của giảng viên sử
dụng các kĩ thuật đánh giá khác nhau trong các hình thức tổ chức thực hiện giờ
tín chỉ (lí thuyết, thảo luận, thực hành, thí nghiệm, hoạt động theo nhóm, tự học,
tự nghiên cứu, ) hay giờ lên lớp trong đào tạo theo niên chế, như một bộ phận
của phương pháp dạy học nhằm rèn luyện và kiểm tra việc rèn luyện các kiến
thức, kĩ năng đã được xác định trong mục tiêu của môn học.
Kiểm tra - đánh giá định kì là hoạt động của giảng viên vào những thời
điểm đã được qui định trong đề cương môn học, gắn các mục tiêu cụ thể trong
từng giai đoạn với những phương pháp kiểm tra - đánh giá tương ứng nhằm
đánh giá, định hướng việc đạt mục tiêu môn học ở giai đoạn tương ứng của sinh
17
viên. Kết quả kiểm tra - đánh giá định kì được xem là kết quả học tập môn học
của sinh viên và là cơ sở để xếp hạng sinh viên sau khi kết thúc môn học.
Mọi hình thức kiểm tra - đánh giá đều được thực hiện theo qui trình sau:
(i). Xác định mục đích đánh giá;
(ii). Xác định mục tiêu (tiêu chí) đánh giá;
((iii). Thiết kế công cụ (đề, bài tập đánh giá, );
(iv). Tổ chức thực hiện;
(v). Đối chiếu thông tin thu được (kết quả bài kiểm tra) với mục
tiêu (tiêu chí);
(vi). Hình thành những qui định cuối cùng (cho điểm, xếp hạng ).
Phân loại kết quả đánh giá được thực hiện theo qui chế hiện hành tương
ứng với từng hình thức tổ chức đào tạo.
2.4. Tổ chức đánh giá và sử dụng kết quả đánh giá
Thủ trưởng đơn vị đào tạo thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Quản lí, kiểm tra việc thực hiện quy trình kiểm tra - đánh giá;
- Đảm bảo nguồn tài chính thực hiện quy trình kiểm tra - đánh giá;
- Báo cáo việc xây dựng, áp dụng và cập nhật quy trình kiểm tra - đánh
giá kết quả học tập môn học.
Tổ chức đánh giá kết quả học tập của SV:
Các trường ĐH, CĐ căn cứ qui chế đào tạo hiện hành và qui chế tổ chức
hoạt động của các đơn vị thuộc cơ sở đào tạo để tổ chức kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của SV.
- Việc đánh giá định kỳ: do GV trực tiếp đánh giá; các Bộ môn, Khoa
giám sát thực hiện việc này
- Việc đánh giá kết thúc học phần/ tín chỉ do Phòng ĐT, Phòng (hay TT
khảo thí) phối hợp với các Khoa/ Bộ môn trực thuộc BGH thực hiện theo qui
định cụ thể của từng trường phù hợp với qui chế đào tạo hiện hành.
- Kết thúc mỗi giai đoạn đánh giá phải công bố kết quả đánh giá đến SV
kịp thời theo đúng qui định của qui chế đào tạo.
18
- Việc tổ chức thi lại áp dụng theo qui chế tương ứng với từng hình thức
tổ chức đào tạo;
- Xử lý vi phạm của SV trong các kỳ thi áp dụng theo qui chế.
Sử dụng kết quả đánh giá:
- Để làm căn cứ quyết định việc cho SV học tiếp hay tạm ngừng học hay
thôi học trả về địa phương (theo qui định của Qui chế đào tạo)
- Để làm căn cứ cho phép sinh viên đăng ký học tập theo tiến độ nhanh
hay chậm hay học cùng lúc hai chương trình;
- Để làm căn cứ xét cấp học bổng cho SV từng học kỳ theo qui chế;
- Để làm cơ sở xếp loại tốt nghiệp cho SV khi hoàn thành chương trình
đào tạo và đảm bảo các điều kiện khác theo qui định của Qui chế hiện hành
3. Đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên trong trường ĐH, CĐ
3.1. Mục đích, yêu cầu đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên
- Việc đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên các trường đại
học, cao đẳng nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẫm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Việc đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên là việc làm
thường xuyên ở các trường. Quá trình đánh giá phải đảm bảo chính xác, công
bằng, công khai và dân chủ.
3.2. Nội dung đánh giá và thang điểm
- Xem xét, đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên là đánh giá
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của từng học sinh, sinh viên theo các mức
điểm đạt được trên các mặt:
a. Ý thức học tập.
b. Ý thức và kết quả chấp hành nội quy, quy chế trong nhà trường.
c. Ý thức và kết quả tham gia các hoạt động chính trị – xã hội, văn hóa,
văn nghệ, thể thao, phòng chống các tệ nạn xã hội.
19
d. Phẩm chất công dân và quan hệ với cộng đồng.
e. Ý thức và kết quả tham gia phụ trách lớp học sinh, sinh viên, các đoàn
thể, tổ chức khác trong nhà trường.
- Điểm rèn luyện được đánh giá bằng thang điểm 100. Hiệu trưởng các
trường căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của từng trường quy định các tiêu chí và
mức điểm chi tiết phù hợp với các nội dung đánh giá và không vượt quá khung
điểm của Quy chế hiện hành.
3.3. Phân loại kết quả và quy trình đánh giá kết quả rèn luyện
Việc đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên được thực hiện theo qui
trình:
(1) Từng sinh viên căn cứ vào kết quả rèn luyện, tự đánh giá theo mức
điểm chi tiết do trường quy định.
(2) Tổ chức họp lớp có giảng viên phụ trách/ trợ lý công tác sinh viên
(hoặc cố vấn học tập, rèn luyện), tham gia, tiến hành xem xét và thông qua mức
điểm của từng sinh viên trên cơ sở phải được qúa nửa ý kiến đồng ý của tập thể
đơn vị lớp và phải có biên bản kèm theo.
(3)Kết quả điểm rèn luyện của từng sinh viên được Trưởng khoa xem xét,
xác nhận, trình Hiệu trưởng.
Đối với trường có số lượng sinh viên lớn thì thành lập Hội đồng đánh giá
kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên cấp khoa để giúp Trưởng khoa xem xét
trước khi trình Hiệu trưởng.
(4). Hiệu trưởng xem xét và công nhận sau khi đã thông qua Hội đồng
đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên cấp trường.
(5). Kết quả đánh giá, phân loại rèn luyện của sinh viên phải được công
bố công khai và thông báo cho học sinh, sinh viên biết.
Phân loại kết quả rèn luyện của sinh viên được thực hiện theo qui chế
hiện hành.
3.4. Tổ chức đánh giá và sử dụng kết quả đánh giá
Tổ chức đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên
20
- Việc đánh giá kết quả rèn luyện của từng sinh viên được tiến hành theo
từng học kỳ, năm học và toàn khóa học theo qui trình đã nêu
- Điểm rèn luyện quy đổi toàn khóa học (ĐRLqđTK
)
của sinh viên là kết
quả trung bình chung của ĐRLqđTK các năm học đã nhân hệ số và được tính
theo công thức và xếp loại qui định trong Qui chế
- Việc xét công nhận kết quả rèn luyện của SV do các Hội đồng thực hiện.
Hội đồng đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên cấp trường (học viện)
- Hội đồng đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên cấp trường là cơ quan
tham mưu giúp Hiệu trưởng xem xét, công nhận kết quả rèn luyện của từng học
sinh viên và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hiệu trưởng.
- Thành phần Hội đồng gồm:
Chủ tịch Hội đồng: Hiệu trưởng hoặc Phó Hiệu trưởng được Hiệu trưởng
ủy quyền.
Thường trực Hội đồng: Trưởng phòng Công tác Chính trị – học sinh,
sinh viên hoặc bộ phận làm công tác chính trị – học sinh, sinh viên do Hiệu
trưởng quyết định.
Các ủy viên: Đại diện các Khoa, phòng (ban) có liên quan. Đoàn Thanh
niên và Hội sinh viên cấp trường (nếu có).
- Nhiệm vụ của Hội đồng đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên cấp
trường: căn cứ vào các quy định hiện hành, trên cơ sở đề nghị của các Trưởng
khoa, tiến hành xem xét, đánh giá kết quả rèn luyện của từng sinh viên, đề nghị
Hiệu trưởng công nhận.
Hội đồng đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên cấp khoa (nếu có) có
nhiệm vụ giúp Trưởng khoa xem xét, đánh giá kết quả rèn luyện của từng sinh
viên.
- Thành phần Hội đồng gồm:
Chủ tịch Hội đồng: Trưởng khoa hoặc Phó trưởng khoa được Trưởng
khoa ủy quyền.
21
Các ủy viên : Trợ lý Trưởng khoa theo dõi công tác sinh viên/ giảng viên
phụ trách (hoặc cố vấn học tập, rèn luyện), đại diện Liên chi Đoàn Thanh niên,
Chi hội hoặc Liên chi Hội Sinh viên (nếu có)
Sử dụng kết quả rèn luyện
- Kết quả phân loại rèn luyện năm học của từng sinh viên là một trong
những tiêu chuẩn để xét học tiếp, ngừng học, xét thi đua khen thưởng
- Kết quả phân loại rèn luyện toàn khóa học của từng sinh viên là một
trong những tiêu chuẩn để xét tốt nghiệp, được lưu trong hồ sơ quản lý sinh viên
của trường và ghi vào bảng điểm kết quả học tập và rèn luyện của từng học sinh,
sinh viên khi ra trường.
- Sinh viên có kết quả rèn luyện cao được nhà trường xem xét biểu dương,
khen thưởng. Sinh viên bị xếp loại rèn luyện kém trong cả năm học thì phải
ngừng học ở năm học tiếp theo và nếu bị xếp loại rèn luyện kém cả năm lần thứ
hai thì sẽ bị buộc thôi học.
4. Kinh nghiệm thực tế về đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên
trong trường đại học, cao đẳng
4.1. Xây dựng qui trình tổ chức thi, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của SV
(Đại học Công nghiệp Hà Nội)
22
23
24
4.2. Xây dựng qui định việc xử lý học tập của SV của trường ĐH Bách Khoa
Hà Nội
QUY ĐỊNH VIỆC XỬ LÝ HỌC TẬP
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
(Kèm theo Quyết định số: 2717/QĐ- ĐHBKHN - ĐTĐH ngày 26/7/2004)
A. Về việc thi kết thúc học kỳ: Cuối mỗi học kỳ trường tổ chức thi kết thúc học
kỳ.
+ Để được dự thi lần 1 kết thúc học kỳ cần có đủ các điều kiện sau:
1. Có mặt ở lớp ít nhất là 80% thời gian quy định cho học phần đó.
2. Dự đủ số lần kiểm tra theo quy định của thầy giáo và ít nhất có 50% số lần
kiểm tra đạt yêu cầu. Đối với học phần có 1 lần kiểm tra thì kết quả phải từ 5
điểm trở lên.
3. Phải có kết quả kiểm tra đạt thí nghiệm, bài tập lớn hoặc tiểu luận đối với các
môn có các phần đó.
4. Phải hoàn thành học phí của học kỳ trước ngày thi môn đầu tiên 07 ngày.
• Đối với các sinh viên không được dự thi lần 1, muốn được dự thi lần 2
thì phải trả nợ hết các nguyên nhân không được thi lần 1.
• Kỷ luật thi: Điểm thi cuối kỳ nếu bị kỷ luật thi: Khiển trách trừ 25%,
cảnh cáo trừ 50%, đình chỉ trừ 100% số điểm của môn thi bị kỷ luật. Người
thi hộ và người nhờ thi hộ đều bị đình chỉ học tập.
B. Điểm rèn luyện: Cuối mỗi học kỳ trường sẽ tổ chức xét điểm rèn luyện.
1. Điểm rèn luyện được đánh giá theo thang điểm 100 (theo thang điểm và tiêu
chí đã phổ biến), sinh viên bị kỷ luật khiển trách thuộc nội dung phần nào thì
điểm rèn luyện không vượt quá 50% điểm tối đa của phần đó. Sinh viên bị kỷ
luật cảnh cáo Khoa, Ký túc xá trở lên thì học kỳ đó xếp loại rèn luyện cao nhất là
yếu và học kỳ tiếp theo nếu có tiến bộ rõ rệt thì xếp loại cao nhất là trung bình
khá.
2. Điểm rèn luyện của năm học là điểm trung bình cộng của 2 học kỳ.
3. Điểm rèn luyện toàn khoá là điểm trung bình cộng của các học kỳ của khoá
học; trong đó điểm 4 học kỳ đầu có hệ số 1; điểm 2 học kỳ cuối cùng có hệ số 2;
25