MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH với mục tiêu đến
năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện
đại hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực Việt
Nam được phát triển cả về số lượng, chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí
được nâng cao. Vì vậy, phải chăm lo đến nguồn lực con người, chuẩn bị lực
lượng lao động có những phẩm chất và năng lực đáp ứng đòi hỏi của đất nước.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH, HĐH trong những năm qua chi NSNN
cho hoạt động giáo dục giáo dục nói chung, các trường THPT công lập ở Ninh
Bình nói riêng đã không ngừng tăng lên góp phần quan trọng vào quá trình
phát triển giáo dục của Ninh Bình. Tuy nhiên trong khi nền kinh tế đất nước ta
đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN được hơn 20 năm thì cơ
chế tài chính của giáo dục thực tế vẫn chưa có sự thay đổi về chất so với thời
kỳ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục
THPT công lập chưa gắn chặt với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo: đội
ngũ giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất…, chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi
phí đào tạo giữa nhà nước và người học; việc xây dựng định mức chi và phân
bổ ngân sách cho giáo dục chủ yếu dựa trên kinh nghiệm; chế độ học phí được
thực hiện từ năm 1998 đến nay vẫn chưa thay đổi; Cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính trong các cơ sở giáo dục công
lập nhìn chung còn hạn chế về tác dụng. Với nguồn ngân sách cấp hàng năm
còn hạn hẹp và mức thu học phí rất thấp và cố định nhiều năm, các trường
không thể tiết kiệm để thu nhập tăng thêm cho giáo viên và tăng cường cơ sở
vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
1
Xuất phát từ những yêu cầu, trên tác giả chọn vấn đề: “Hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính đối với các trường trung học phổ thông công lập trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục THPT công lập,
tầm quan trọng của giáo dục nói chung và giáo dục THPT công lập nói riêng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt
động giáo dục THPT công lập. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích, đánh giá thực
trạng và hạn chế của cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động giáo dục
THPT công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua. Từ đó, rút ra
những nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu cùng các điều kiện
thực hiện nhằm hoàn thiện hơn cơ chế quản lý tài chính đối với các trường
THPT công lập.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung. Kết hợp lý
luận với thực tiễn, phân tích tổng hợp, lịch sử và logic. Ngoài ra còn vận dụng
các phương pháp khoa học khác như: Phương pháp thống kê, đối chiếu, so
sánh và phương pháp phân tích với tổng hợp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan về
giáo dục trung học phổ thông công lập, các nguồn tài chính đầu tư cho giáo
dục phổ thông và công tác quản lý, sử dụng các nguồn tài chính đó trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình.
Từ nhận thức những quan điểm, lý luận về cơ chế quản lý tài chính
giáo dục trung học phổ thông nói chung và thực trạng cơ chế quản lý tài
2
chính giáo dục trung học phổ thông công lập trên địa bàn Ninh Bình để phân
tích, đánh giá và đề ra giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài
chính giáo dục trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
trong thời gian tới.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn, luận văn đã có những đóng góp sau:
- Luận văn hệ thống hóa và phát triển những vấn đề lý luận về giáo dục
trung học phổ thông công lập, các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục trung
học phổ thông công lập và cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung
học phổ thông công lập.
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng các
trường trung học phổ thông công lập cũng như nguồn tài chính đầu tư cho các
trường trung học phổ thông công lập và cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời
gian qua; xác định những thành tựu đã đạt được cũng như nguyên nhân của
những yếu kém còn tồn tại.
- Trên cơ sở xác định những định hướng và quan điểm về phát triển các
trường trung học phổ thông công lập của cả nước nói chung và tỉnh Ninh Bình
nói riêng, luận văn đi sâu phân tích, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới và
nâng cao chất lượng cơ chế quản lý tài chính các trường trung học phổ thông
công lập Ninh Bình trong thời gian tới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày thành 3 chương:
3
Chương 1: Giáo dục trung học phổ thông công lập và cơ chế quản lý tài
chính đối với các trường trung học phổ thông công lập.
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung
học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường trung học phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4
Chương 1
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP VÀ CƠ CHẾ
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG CÔNG LẬP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VÀ
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.1. Vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội
Lịch sử phát triển và tiến bộ của xã hội loài người cho thấy: xã hội
muốn duy trì và phát triển thì con người trong xã hội cần được giáo dục liên
tục để tiếp thu, cập nhật và phát triển kiến thức và kỹ năng mà loài người đã
tích lũy được. Giáo dục là hiện tượng xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn
liền với sự phát triển và tiến bộ không ngừng của xã hội.
Giáo dục được hiểu là quá trình nhằm hình thành, phát triển nhân cách
con người, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các
hoạt động và các quan hệ giữa người dạy học và người học nhằm để người học
lĩnh hội những tri thức và kinh nghiệm mà loài người đã tích lũy trong lịch sử.
Giáo dục tạo cho người học có kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp
với sự phát triển xã hội và môi trường nghề nghiệp. Vai trò của giáo dục đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, giáo dục góp phần tạo nguồn nhân lực có trình độ và chuyên
môn kỹ thuật, một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững.
Các học thuyết phát triển kinh tế từ trước cho đến nay cơ bản đều thống
nhất quan điểm cho rằng để phát triển kinh tế, xã hội cần có ba nguồn lực cơ
5
bản: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực tài chính. Vị trí của các
nguồn lực này thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Trong nền kinh tế
nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò cơ bản, quyết định mức sản
lượng tạo ra. Đến nền kinh tế công nghiệp, vị trí hàng đầu thuộc về nguồn lực
tài chính. Ngày nay, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, nguồn
lực tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, tiền vốn vẫn đóng vai trò quan
trọng, nhưng vai trò quyết định sẽ thuộc về nguồn vốn con người - nguồn nhân
lực. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết định năng lực cạnh tranh, tăng trưởng
và phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế, phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng luôn được coi là vấn đề ưu tiên trong chiến
lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn nhân lực.
Theo các chuyên gia của UNDP, các nhân tố đó là: giáo dục – đào tạo; sức
khỏe và dinh dưỡng; môi trường; việc làm; và sự giải phóng con người. Năm
nhân tố trên có khả năng tạo ra những giá trị cho sự phát triển nguồn nhân lực,
chúng gắn bó với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó, giáo dục – đào tạo là
cơ sở của các nhân tố khác. Bởi lẽ, giáo dục là điều kiện thiết yếu để cải thiện
sức khỏe và dinh dưỡng, để duy trì một môi trường có chất lượng cao, để mở
rộng, cải thiện lao động và để duy trì sự đáp ứng về kinh tế - chính trị nhằm
giải phóng con người. Vì lẽ đó, giáo dục được xem như là nền tảng cho sự
phát triển nguồn nhân lực, là điều kiện không thể thiếu nhằm hình thành nguồn
vốn con người có chất lượng.
Giáo dục còn thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua việc nâng cao trình
độ và khả năng thành thạo của người lao động, tức là góp phần tăng năng suất
lao động. Mức độ ảnh hưởng của giáo dục đối với năng suất lao động được
tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra
trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó trải qua một khóa
6
đào tạo với chi phí của khóa đào tạo đó. Kết quả này được gọi là tỷ suất lợi
nhuận xã hội đầu tư cho giáo dục vào khoảng 8-10%, cao hơn so với tỷ suất
lợi nhuận trung bình của xã hội đầu tư cho các lĩnh vực khác xét về dài hạn.
Giáo dục còn được coi là nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững. Khác
với vốn vật chất, vốn con người khi được sử dụng sẽ tích lũy ngày càng nhiều
kinh nghiệm, tri thức. Vì thế, giáo dục không ngừng làm tăng giá trị và có
đóng góp ngày càng lớn hơn đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ hai, giáo dục góp phần xóa đói giảm nghèo
Nghèo, đói là vấn đề lớn của cả nhân loại, đặc biệt đối với các nước
đang phát triển. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, bao gồm cả những
nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Trình độ học vấn thấp làm tăng độ sâu của nghèo, đói. Ngay chính bản
thân người nghèo khi được phỏng vấn cũng thừa nhận gia đình và cá nhân họ
nghèo một phần là do ít được học hành. Người nghèo có thu nhập thấp một
phần do năng lực và kinh nghiệm làm việc thấp, một phần do bị phân biệt đối
xử trên thị trường lao động. Giáo dục có thể giải quyết được vấn đề thứ nhất
và cải thiện vấn đề thứ hai. Vì thế, giáo dục có khả năng góp phần vào công
cuộc xóa đói, giảm nghèo. Giáo dục mang lại các kỹ năng, kiến thức và quan
điểm giúp nâng cao năng suất của lực lượng lao động nghèo.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý một điều rằng, hiệu ứng giảm nghèo của giáo
dục phát huy trong khoảng thời gian dài sau khi kết thúc khóa đào tạo. Nhà
kinh tế học người Mỹ, Schultz, T.W cho rằng các nguồn lực đầu tư vào giáo
dục ngày hôgm nay chỉ có thể dẫn đến giảm nghèo trong một khoảng thời gian
sau khi năng lực của những người được giáo dục nâng cao và mang lại lợi ích
từ tăng thu nhập, tăng khả năng tự tìm, tự tạo việc làm và nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực của gia đình.
7
Thứ ba, giáo dục mở rộng khả năng thích ứng của nhân lực với thị
trường lao động .
Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển nhanh
chóng của khoa học công nghệ, thị trường lao động trở nên năng động hơn bao
giờ hết. Nhiều ngành nghề bị mất đi và thay vào đó là những ngành nghề mới,
với yêu cầu cao hơn về trình độ. Điều kiện tham gia vào thị trường lao động
nhiều hơn và khắt khe hơn. Trong bối cảnh đó, người lao động cần được đào
tạo cơ bản và luôn được đào tạo lại nhằm hình thành năng lực thích ứng với sự
vận động không ngừng của thị trường. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế
học Schultz, T.Ư, Mincer, J. và các chuyên gia của ngân hàng thế giới đã
khẳng định những công nhân được đào tạo khả năng thích ứng một cách có
hiệu quả hơn với sự biến động của thị trường lao động, với mức lương họ nhận
được cũng cao hơn so với lao động phổ thông.
Thứ tư, giáo dục góp phần tạo lập sự công bằng trong xã hội.
Bên cạnh xóa đói, giảm nghèo, giáo dục còn góp phần tạo lập một xã hội
công bằng hơn. Giáo dục mang lại các kỹ năng, kiến thức và quan điểm nhận
thức xã hội, đó chính là những nhân tố quyết định nâng cao khả năng tham gia
vào thị trường lao động của lực lượng lao động nghèo. Công bằng trong giáo
dục góp phần đem lại sự công bằng trong phân phối thu nhập. Schultz, T.W
cho rằng một xã hội có thể đầu tư vào các công dân của mình thông qua các
khoản chi tiêu cho giáo dục. Giáo dục tiểu học phổ cập không mất tiền là cách
thức chủ yếu để tái phân bổ nguồn lực có lợi cho người nghèo.
Thứ năm, giáo dục góp phần tăng sức khỏe và nâng cao chất lượng sinh
sản.
Giáo dục và y tế có mối qun hệ mật thiết với nhau. Những người được
giáo dục thường có xu hướng tiếp cận nhiều hơn và khôn ngoan hơn đến các
dịch vụ y tế. Nguyên nhân là do họ có thu nhập cao hơn, trình độ nhận thức
8
cũng như quan điểm về vai trò của y tế đối với sức khỏe nói chung là tốt hơn.
Có một thực tế lý thú rằng, tuổi thọ trung bình của người dân sống ở nước giàu
thường cao hơn nước nghèo.
Giáo dục ảnh hưởng đến mức độ sinh sản do làm tăng tuổi lập gia đình
và tăng việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Một phụ nữ càng được giáo dục
thì càng có xu hướng ít sinh con. Bên cạnh đó, trình độ học vấn của cha mẹ,
liên quan mật thiết với tình trạng sức khỏe của trẻ em. Mức giáo dục của
người mẹ tăng lên làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh.
Cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân được thiết lập nhằm thực hiện các mục tiêu
giáo dục, đáp ứng yêu cầu đào tạo con người của đất nước, tập hợp các ngành
học, bậc học, cấp học, từ nhà trẻ đến sau đại học một cách liên tục thống nhất.
Đối với Việt Nam, đó là một hệ thống 5-4-3-4, hay nói cách khác, một học
sinh phải trải qua toàn bộ hệ thống giáo dục từ lớp 1 lên đến đại học, không bỏ
học hoặc lưu ban lớp nào, sẽ phải trải qua 16 năm theo học. Trong đó, giai
đoạn giáo dục phổ thông phải trải qua 12 năm, bắt đầu với 5 năm tiểu học, tiếp
đến là 4 năm THCS và 3 năm trung học phổ thông. (Xem sơ đồ 1.1).
Luật giáo dục hiện hành quy định trẻ em bắt đầu đi học lớp một lúc 6
tuổi. Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân, mỗi công dân không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội
hoặc hoàn cảnh kinh tế, đều bình đẳng về cơ hội học tập.
9
GD sau ĐH: Thạc sĩ, Tiến sĩ
………………………………………………………
ĐH:
Đại học
Cao đẳng
……………………………………………………….
GDPT
THPT, GD nghề nghiệp (THCN, DN)
THCS
Tiểu học
……………………………………………………….
GDMN
Mẫu giáo
Nhà trẻ
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức hệ thống GD – ĐT của Việt Nam
Các loại hình nhà trường gồm có: Trường công lập và trường ngoài
công lập.
* Trường công lập: Trương thuộc sở hữu nhà nước, do cơ quan có nhà
nước cấp Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp quận
huyện quản lý. Mọi chi phí hoạt động của nhà trường do NSNN cấp và một
phần chi phí do học sinh đóng góp.
* Trường ngoài công lập: Là một loại hình nhà trường nằm trong hoạt
động giáo dục quốc dân, tự trang trải chi phí hoạt động. Có 3 loại hình trường
gồm: Trường bán công, dân lập và tư thục.
Tất cả các loại hình nhà trường này đều chịu sự quản lý nhà nước của
các cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân công, phân cấp của Nhà nước.
Trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân, Nhà
nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân mở trường dân lập, tư thục nhằm đáp
ứng nhu cầu học tập của xã hội. Nhà trường được thành lập khi đảm bảo các
10
điều kiện về cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất, và năng lực tài chính
theo quy định của Chính phủ.
1.1.2. Đặc điểm của giáo dục THPT
- Vị trí, vai trò của giáo dục THPT
Để thực hiện các mục tiêu giáo dục của mình, mỗi nước có một hệ
thống giáo dục quốc dân đặc trưng. Hệ thống giáo dục quốc dân là toàn bộ các
thiết chế GD - ĐT của một quốc gia do Nhà nước thiết lập quản lý dưới hình
thức cụ thể khác nhau và được cấu trúc theo bậc, cấp, ngành phương thức
giảng dạy và quản lý. Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, các bậc học
được phân ngành: Giáo dục tiền học đường, giáo dục phổ thông, giáo dục
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, giáo dục đại học và sau đại học.
Giáo dục trung học phổ thông dành cho trẻ em đã hoàn thành và tốt
nghiệp THCS, ở độ tuổi 15, được thực hiện trong 3 năm từ lớp 10 đến lớp 12,
tương ứng với cấp học giáo dục phổ thông là các trường trung học phổ thông.
Theo cách hiểu chung nhất thì giáo dục trung học phổ thông là một bộ
phận cấu thành quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ, trang bị những tri thức và kỹ năng phổ thông
cơ bản nhất về khoa học, văn hóa, nghệ thuật hay đi vào cuộc sống lao động
sản xuất, thực hiện nghĩa vụ công dân.
Mục tiêu giáo dục nói chung, giáo dục trung học phổ thông nói riêng
của mỗi quốc gia tùy thuộc vào quan điểm phát triển giáo dục và chế độ chính
trị của quốc gia đó. Do vậy, mỗi quốc gia có thể lựa chọn mục tiêu phát triển
giáo dục trung học phổ thông theo các định hướng phát triển nguồn nhân lực
phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Trên cơ sở đó, mỗi quốc gia
có một hệ thống giáo dục riêng phản ánh quan điểm giáo dục của quốc gia
mình. Đối với Việt Nam giáo dục phổ thông nói chung giáo dục trung học phổ
11
thông nói riêng là nền tảng văn hóa của một đất nước, là sức mạnh tương lai
của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện của con
người Việt Nam XHCN, đồng thời chuẩn bị lực lượng lao động dự trữ và
nguồn tuyển chọn để đào tạo công nhân và cán bộ cần thiết cho sự nghiệp xây
dựng kinh tế, phát triển văn hóa và tăng cường quốc phòng
- Các loại hình trường THPT
+ Trường THPT công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất, bảo đảm kinh phí chủ yếu cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
+ Trường THPT dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm kinh phí hoạt động và có thể chỉ được hỗ trợ
một phần.
+ Trường THPT tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế hoạt động bằng vốn ngoài NSNN.
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều
được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục ở Việt Nam. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai
trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân (Điều 48, luật Giáo dục 2005).
1.1.3. Đầu tư và tài chính cho phát triển giáo dục - đào tạo
* Đặc điểm đầu tư vào giáo dục.
Một là, đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển con người
Ở một mức độ khái quát nhất, mục đích phát triển của bất kỳ quốc gia
nào cũng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Con người trở
thành trung tâm của sự phát triển, là nhân tố chi phối quyết định chính sách
của mỗi quốc gia.
12
Chất lượng cuộc sống được phản ánh thông qua Chỉ số phát triển con
người (HDI). Đây là một chỉ số tổng hợp, được đo lường bằng trung bình cộng
của thu nhập bình quân đầu người (chỉ tiêu kinh tế), tuổi thọ trung bình (chỉ
tiêu y tế) và tỷ lệ biết chữ (chỉ tiêu giáo dục). Giáo dục trở thành một trong ba
khía cạnh cơ bản khẳng định chất lượng cuộc sống, là căn cứ để so sánh cuộc
sống của cư dân thuộc các quốc gia và các địa phương khác nhau.
Chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cần hướng trọng tâm vào giáo
dục, coi đây là nhân tố chính thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, ngược lại sự
phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo nâng cao cuộc sống của con người.
Như vậy, có thể nói, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư vào con người, vì con
người và cho sự phát triển của con người.
Hai là, đầu tư giáo dục là đầu tư phát triển
Giáo dục không chỉ là mục đích mà còn là điều kiện cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Giáo dục được xem như là một bộ phận của cơ sở hạ tầng xã
hội, nền tảng quan trọng và điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế
nhanh và bền vững. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh thế giới đang chuyển sang
nền kinh tế tri thức, trong đó tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng
đầu và là nguồn tài nguyên vô giá cho sự phát triển.
Kinh nghiệm thực tiễn của thế giới cho thấy, những nước nghèo muốn
tăng trưởng kinh tế nhanh và rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ học vấn của người dân. Tổ chức UNESCO
đã rút ra nhận định với nội dung: Không có sự tiến bộ và thành đạt nào có thể
tách rời sự tiến bộ và thành đạt trong giáo dục. Quốc gia nào coi nhẹ giáo dục
hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu
quả thì tụt hậu so với sự phát triển của thế giới là điều khó tránh khỏi.
13
Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội Đảng và Nhà nước ta đã sớm có quan điểm coi “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu” và “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững”.
Ba là, đầu tư phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội
Giáo dục là quyền được thụ hưởng của con người, nhưng mỗi người
đều trách nhiệm xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục chung của quốc
gia. Giáo dục ngày nay không còn là khu vực chỉ có một chủ thể cung cấp
duy nhất là Nhà nước. Giáo dục cũng không còn bó hẹp trong độ tuổi đến
trường, mà được mở rộng, diễn ra trong suốt cuộc đời con người. Trong nền
kinh tế thị trường, Nhà nước không thể và không nên đảm bảo toàn bộ kinh
phí cho hoạt động giáo dục, mà cần xác định nhiệm vụ chi của mình ở mức
độ thích hợp sao cho đảm bảo được sự công bằng trong giáo dục và tạo động
lực, định hướng cho các chủ thể khác cùng tham gia phát triển giáo dục. Nhà
nước có thể huy động, khuyến khích sự tham gia của các chủ thể thông qua
các hoạt động như yêu cầu người học trang trải một phần chi phí giáo dục
bằng các khoản thu dưới dạng phí, cho phép các cá nhân, tổ chức đủ điều
kiện thành lập cơ sở giáo dục, kêu gọi sự đóng góp của cộng đồng nhằm
giảm tài chi ngân sách
Ngày nay, chính sách và quan điểm về giáo dục của thế giới đang có sự
thay đổi sâu sắc khi mà hầu hết các quốc gia đều mong muốn xây dựng một xã
hội học tập, phát động tư tưởng học tập suốt đời và thực thi cam kết giáo dục
cho mọi người. Những đổi mới trong chính sách phát triển giáo dục đã từng
bước biến một số khía cạnh của giáo dục từ lĩnh vực phúc lợi sang lĩnh vực
đầu tư. Giáo dục trở thành một ngành dịch vụ mà mọi chủ thể trong xã hội đều
14
có quyền tham gia (ở mức độ nhất định), trong đó Nhà nước với vai trò đặc
biệt của mình điều tiết và định hướng sự phát triển của cả hệ thống giáo dục
theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
* Tài chính đối với sự phát triển của giáo dục
Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ
thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong
phân phối các nguồn lực tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ
tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính có tác dụng kìm hãm hay thúc đẩy sự phát triển của một
ngành hay một lĩnh vực. Đối với giáo dục, tài chính có vai trò quan trọng, tài
chính tác động đến quy mô, mục tiêu và chất lượng của hệ thống giáo dục.
Điều này được thể hiện cụ thể trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính đảm bảo duy trì hoạt động của hệ thống
giáo dục
Để duy trì hoạt động giáo dục, phải có những trang thiết bị phục vụ cho
quá trình dạy học như trường, lớp, thư viện, phòng thí nghiệm hệ thống sách
giáo khoa, giáo trình…phải trả lương cho đội ngũ giáo viên và các nhà quản lý
giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục của mỗi quốc gia trong những thời kỳ
nhất định phải được xây dựng dựa trên cơ sở khả năng cung ứng tài chính.
Thiếu yếu tố tài chính, những đề xuất, cả tiến khó có thể thực hiện được.
Nguồn lực tài chính ảnh hưởng quan trọng và trực tiếp đến sự phát triển
giáo dục. Thông thường, những quốc gia có cơ chế, chính sách huy động được
nhiều nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục thì hệ thống giáo dục của quốc
gia đó phát triển sản phẩm giáo dục có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động. Ngược lại, những quốc gia có nguồn lực tài
chính không đáp ứng đủ nhu cầu của giáo dục, nền giáo dục thường lạc hậu,
15
chất lượng thấp hơn một cách tương đối do với những nước có nguồn tài chính
dồi dào. Điều này đúng cả về lý thuyết và thực tiễn. Chính vì lẽ đó, hầu hết các
quốc gia trên thế giới hiện nay ngoài việc ngày càng dành nhiều nguồn lực hơn
cho giáo dục còn tạo môi trường thuận lợi để huy động nguồn lực từ các chủ
thể khác ở trong nước cũng như ngoài nước.
Thứ hai, chính sách tài chính góp phần điều phối hoạt động giáo dục
Giáo dục được xem là một bộ phận của kết cấu hạ tầng xã hội, có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của một quốc gia. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
có hướng đích và phải đạt được những yêu cầu cụ thể nào đó. Ở mỗi giai đoạn
phát triển khác nhau, mục đích, yêu cầu đặt ra cho giáo dục không giống nhau.
Với chức năng phân phối vốn có của mình, tài chính phân bổ hợp lý các
nguồn lực, đảm bảo cung cấp đủ nhân lực và vật lực cho hoạt động giáo dục.
Điều phối hay tăng cường nguồn lực tài chính cho ngành học hay cấp học nào
sẽ giúp cho ngành học hay cấp học đó phát triển, từ đó tạo nên hợp lực thúc
đẩy sự phát triển của toàn hệ thống giáo dục.
Tài chính còn góp phần thực hiện công bằng trong giáo dục, đảm bảo
cho “ai cũng được học hành”. Công bằng trong giáo dục đang là yêu cầu đặt ra
đối với các quốc gia, khi mà sự phân bố của cải trong xã hội ngày càng có xu
hướng tập trung vào một bộ phận nhỏ dân cư, khiến cơ hội hưởng thụ giáo dục
không đồng đều giữa người dân sống trong cùng một nước. Nhờ có chức năng
phân phối của tài chính Nhà nước có thể tăng cường đầu tư hoặc ban hành
những cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo được tiếp
cận giáo dục. Từ đó, giảm sự mất công bằng trong giáo dục, góp phần quan
trọng tạo lập sự công bằng trong xã hội.
Công bằng trong giáo dục thường được thực hiện ở các cấp học thấp,
nơi mà hầu hết nhân dân đều có khả năng tiếp cận; ở nước ta giáo dục tiểu học
được phổ cập, do đó không thu học phí. Ở nhiều nước khác trên thế giới: giáo
16
dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là bắt buộc, nhà nước đảm bảo chi
tiêu 100%.
Thứ ba, tài chính kiểm tra, giám sát hoạt động giáo dục, hướng hoạt
động giáo dục đến những mục tiêu đã định một cách hiệu quả nhất
Kiểm tra, giám sát tài chính là kiểm tra, giám sát việc huy động và sử
dụng tiền cho giáo dục. Người ta có thể tiến hành kiểm tra, giám sát cơ sở giáo
dục một cách thường xuyên, liên tục và trên một bình diện rộng. Thông qua
công tác kiểm tra, giám sát, có thể nắm bắt nhanh chóng tình hình hoạt động
của cơ sở giáo dục.
Giáo dục là vấn đề lớn của quốc gia, cũng là vấn đề nhạy cảm được xã
hội quan tâm. Những biểu hiện sai lệch trong đầu tư phát triển giáo dục để lại
hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội mà công tác khắc phục tiêu tốn nhiều
thời gian và tiền của. Kiểm tra, giám sát tài chính, với những đặc tính ưu việt
của nó, giúp các cơ sở giáo dục đề xuất những giải pháp tình huống, cũng như
chiến lược nhằm sử dụng các nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục một cách
hợp lý, vì sự tiến bộ của con người và sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
* Các nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục
Muốn cho giáo dục phát triển thì cần phải được đầu tư thích đáng, đầu tư
càng nhiều thì giáo dục càng có điều kiện thuận lợi phát triển. Ngược lại, nếu
đầu tư ít, lại sử dụng không hợp lý, dẫn đến giáo dục chậm phát triển, ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế và như vậy tiếp tục sự nghèo nàn lạc hậu.
Đây chính là cái vòng kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Sự chuyển đổi nền kinh tế đã làm thay đổi một cách căn bản quan điểm
đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục không chỉ là một nguồn gần như là
duy nhất là ngân sách nhà nước như trước đây, mà một xã hội học tập, nhất
17
thiết đầu tư cho giáo dục phải bao gồm tổng thể nhiều nguồn khác nhau như
Luật giáo dục (2005) đã khẳng định:
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư giáo
dục, khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước
ngoài đầu tư cho giáo dục. NSNN phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn
lực đầu tư cho giáo dục.
Với quan điểm trên, nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục trong giai đoạn
hiện nay bao gồm:
- Nguồn ngân sách nhà nước
Giáo dục luôn là yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Do đó hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đặt giáo dục ở vị trí
hàng đầu trong các ưu tiên, phát triển kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã
coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; vì vậy việc đầu tư cho giáo dục cũng được
ưu tiên hàng đầu.
Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi nhằm đảm bảo duy trì
và phát triển các hoạt động sự nghiệp giáo dục trong cả nước, do các đơn vị sự
nghiệp giáo dục đảm nhận. Các khoản chi cho sự nghiệp giáo dục tập trung
chủ yếu ở các trường công lập và các khoản chi thực hiện các chương trình
trọng điểm của ngành giáo dục. Hiện nay, nguồn vốn NSNN chiếm vị trí chủ
đạo trong các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục, thể hiện ở các mặt sau:
+ Đây là nguồn chính cơ bản, to lớn và ổn định nhằm duy trì và phát
triển hệ thống giáo dục - đào tạo theo định hướng, mục tiêu của Đảng và Nhà
nước đặt ra trong từng thời kỳ.
+ Giải quyết những vấn đề thuộc chính sách xã hội, công bằng trong
giáo dục - đào tạo, mà đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện như vấn đề quyền lợi
18
được hưởng giáo dục của mọi người dân, ưu tiên cho con em gia đình chính
sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn…
+ Giải quyết những vấn đề phát triển của hệ thống giáo dục - đào tạo ở
tầng lớp quốc gia như thực hiện chương trình mục tiêu chương trình quốc gia
như xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục… và những vấn đề ở tầm khu vực mà
các thành phần kinh tế khác chưa đủ khả năng thực hiện hoặc chưa quan tâm
đầu tư.
- Nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện NSNN có hạn, nhu cầu chi tiêu cho các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng hàng năm ngày càng lớn thì việc khuyến khích
huy động các nguồn ngoài NSNN cho sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo
dục trung học phổ thông nói riêng đang trở thành vấn đề cấp thiết. Mặt khác,
giáo dục là sự nghiệp của toàn dân do dân và vì dân. Do đó, quan tâm đến giáo
dục là trách nhiệm của toàn xã hội với định hướng phát triển giáo dục, thực
hiện xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cho giáo
dục cho phép huy động mọi nguồn lực trong xã hội cho phát triển giáo dục
nhằm chia sẻ bớt gánh nặng đối với Nhà nước. Đó là những nguồn sau:
- Học phí, lệ phí tuyển sinh, tiền đóng góp xây dựng trường: là khoản tiền
đóng góp của gia đình hoặc bản thân học sinh để cùng với Nhà nước đảm bảo các
hoạt động giáo dục. Nguồn thu này ngày càng trở thành nguồn tài chính quan
trọng đóng góp cho sự phát triển của giáo dục nhưng đồng thời cũng là một rào
cản đối với người nghèo đến với giáo dục. Vì vậy, việc xóa bỏ thu học phí ở giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở đang là mục tiêu của các nước.
- Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, tư vấn và kinh doanh
dịch vụ. Công tác nghiên cứu khoa học, tư vấn và kinh doanh dịch vụ tập trung
chủ yếu trong các cơ sở đào tạo, hiện chiếm 3% - 4% tổng số kinh phí nghiên
cứu khoa học của cả nước. Đây là một tỷ lệ rất thấp. Các sản phẩm nghiên cứu
19
lại không được tiếp thị nên nhiều đề tài rất có ý nghĩa đối với cuộc sống nhưng
không được áp dụng. Cơ chế đầu tư cho nghiên cứu khoa học nói chung còn bị
phân tán, hiệu quả thấp, chậm đổi mới.
- Nguồn đầu tư đóng góp tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước. Để tăng cường nguồn đầu tư cho phát triển giáo dục; thực hiện đa dạng
hóa các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy
động và tạo điều kiện để các tổ chức, các nhân tham gia phát triển sự nghiệp
giáo dục cần thiết phải tranh thủ nguồn tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho
giáo dục từ Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, các tổ chức
quốc tế và các nước.
1.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP
1.2.1. Khái niệm, vai trò của cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường THPT công lập.
- Khái niệm
Cơ chế là thuật ngữ chỉ phương thức tồn tại và hoạt động của một hệ
thống, trong đó có sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành của hệ
thống, nhờ đó mà hệ thống có thể tồn tại, vận hành và phát triển.
Cơ chế quản lý được hiểu là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện
pháp tác động lên một hệ thống quản lý nhằm đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại
hoạt động hiệu quả phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn khách quan
của môi trường tự nhiên KTXH để đạt được những mục tiêu đã định trước. Cơ
chế quản lý bao gồm cơ chế tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý và cơ chế tồn tại, vận hành của đối tượng trong quản lý.
20
Cơ chế tài chính là phương thức tồn tại và hoạt động của tổng thể các
hoạt động tài chính và sự tương tác giữa chúng trong quá trình hoạt động ở một
tổ chức, đơn vị, lĩnh vực KTXH nào đó hoặc của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cơ chế quản lý tài chính là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện
pháp tác động lên các hoạt động tài chính phát sinh và phát triển trong quá
trình hoạt động ở một tổ chức, đơn vị, lĩnh vực KTXH hay toàn bộ nền kinh tế
quốc dân nhằm đảm bảo cho hoạt động tài chính vận động và phát triển đạt
được những mục tiêu đã định.
Mục tiêu của cơ chế quản lý tài chính là nhằm tổ chức định hướng, điều
chỉnh cơ chế tồn tại, vận động và phát triển của hoạt động tài chính nhằm phù
hợp với các quy luật khách quan và thực tiễn khách quan của môi trường tự
nhiên, kinh tế xã hội để đạt được mục tiêu quản lý đã định. Những bất cập của
cơ chế tài chính hiện tại luôn đặt ra yêu cầu phải không ngừng hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính. Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính là hoàn thiện các
hình thức, phương pháp, biện pháp tác động có tính chủ quan của con người
đến các hoạt động tài chính nhằm điều chỉnh cơ chế tồn tại, vận động và phát
triển của các hoạt động tài chính để đạt được mục tiêu đã định.
Có thể hiểu rằng cơ chế quản lý tài chính trong giáo dục đào tạo là hệ
thống các hình thức, phương pháp biện pháp để tổ chức, điều chỉnh các quá
trình tạo lập và sử dụng các nguồn tài chính liên quan đến công tác giáo dục
đào tạo nhằm đạt được các mục tiêu đã định. Cơ chế quản lý tài chính này có
tác động quyết định đến phương thức tồn tại và vận động của các hoạt động tài
chính trong quá trình thực hiện các hoạt động giáo dục đào tạo. Sự tác động đó
diễn ra theo hai hướng, tích cực và tiêu cực. Theo hướng tích cực có nghĩa là
cơ chế quản lý tài chính đó là hợp lực của các hình thức, phương pháp, biện
pháp có tác động cùng chiều, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
trong quá trình thực hiện giáo dục và đào tạo, thúc đẩy nền giáo dục Quốc dân
21
phát triển cả về quy mô, cả về chất lượng và hiệu quả. Theo hướng tiêu cực có
nghĩa là cơ chế quản lý đó là hợp lực của các hình thức, phương pháp, biện
pháp có tác động ngược chiều nhau, cản trở lẫn nhau và nảy sinh các mặt tiêu
cực trong quá trình thực hiện các hoạt động đào tạo, kìm hãm sự phát triển của
nền giáo dục Quốc dân.
- Vai trò của cơ chế quản lý tài chính đối với các trường THPT công lập:
+ Cơ chế quản lý tài chính có vai trò cân đối giữa việc tạo lập, phân
phối, và sử dụng các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu phát triển nền giáo
dục quốc dân nói chung và các trường THPT công lập nói riêng. Khơi dậy và
huy động các nguồn tài chính trong xã hội, NSNN và ngoài NSNN đầu tư vào
phát triển giáo dục, trong đó có các trường THPT công lập. Do đó các trường
chủ động thu hút, khai thác, tạo lập nguồn vốn NSNN và ngoài NSNN, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính đầu tư cho nhà trường.
+ Cơ chế quản lý tài chính tác động đến quá trình chi tiêu ngân quỹ
quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ của đơn
vị vì vậy các trường THPT công lập chịu sự quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám
sát tài chính của cơ quan chủ quản cấp trên, cơ quan tài chính trong quá trình
tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính của các trường THPT công
lập, phải đảm bảo tuân thủ theo quy định của Nhà nước và điều chỉnh, ngăn
chặn các sai phạm, lành mạnh hóa và nâng cao hiệu quả các hoạt động tài
chính của các trường THPT công lập.
+ Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường THPT
công lập trong việc tạo lập, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư từ
NSNN và ngoài NSNN cho các trường THPT công lập một cách tiết kiệm và
hiệu quả cao, lành mạnh hóa các hoạt động tài chính đảm bảo các nguồn kinh
phí được đầu tư được sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả cao, ngăn
22
chặn các hiện tượng vụ lợi trong hoạt động tài chính của các trường THPT
công lập.
1.2.2. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường THPT công lập
1.2.3.1. Cơ chế thu
Trong các trường THPT công lập, nguồn tài chính của nhà trường bao
gồm chủ yếu từ nguồn từ NSNN và nguồn học phí của người học.
+ Đối với nguồn từ NSNN
Theo đặc điểm hình thành các nguồn tài chính trong các trường THPT
công lập có thể khái quát hóa thành hai loại cơ chế quản lý tài chính, tạm gọi
là cơ chế quản lý tài chính “cứng” và cơ chế cơ chế quản lý tài chính ‘mềm”.
Cơ chế quản lý tài chính “cứng” được áp dụng đối với nguồn tài chính
từ NSNN và có nguồn gốc từ NSNN. Goi là cơ chế quản lý tài chính cứng vì
khi thiết lập và vận hành cơ chế này đều phải tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc theo
những quy định các văn bản pháp luật về sử dụng NSNN. Cơ chế này không
đặt mạnh về quyền lựa chọn của lãnh đạo nhà trường sử dụng nguồn lực của
NSNN. Ngược lại coi trọng trách nhiệm trong công việc điều hành, sử dụng
nguồn lực tài chính mà nhà nước cấp cho trường. Cơ chế quản lý tài chính
cứng được thể hiện trong quá trình lập dự toán thu chi dựa trên những quy
định về chế độ, tiêu chuẩn định mức do Nhà nước và các chỉ tiêu các nhiệm vụ
mà Nhà nước giao cho trường phải đảm nhận.
Nói chung cơ chế quản lý tài chính cứng trong các trường THPT công
lập chủ yếu do Nhà nước quy định từ khâu lập, tổ chức chấp hành dự toán đến
khâu quyết toán nguồn tài chính mà Nhà nước cấp cho các nhà trường. Nhà
trường chỉ có quyền vận dụng sao cho phù hợp với hoàn cảnh của nhà trường
đảm bảo kỷ cương, kỷ luật tài chính.
23
- Đối với chi thường xuyên
Đây là khoản chi tiêu công nằm trong tổng thể nguồn tài chính công và
không mang tính bồi hoàn trực tiếp. Việc phân bổ NSNN cho các trường
THPT công lập dựa trên cơ sở Nhà nước giao ổn định trong thời gian 3 năm,
mức tăng hàng năm do Thủ tướng chính phủ quyết định. Ngoài ra căn cứ vào
các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ khác mà Nhà nước giao ngân sách.
- Đối với chi đầu tư phát triển
Là các khoản chi được quản lý theo quy định của vốn đầu tư xây dựng
cơ bản: chi đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc phục
vụ trực tiếp cho giảng dạy và học tập.
+ Đối với nguồn ngoài NSNN cấp:
Cơ chế quản lý tài chính gọi là “mềm” được áp dụng để huy động và sử
dụng nguồn lực tài chính ngoài NSNN cấp. Gọi là cơ chế quản lý tài chính
“mềm” có phần mang ý nghĩa thị trường hơn, linh hoạt hơn không hoàn toàn
chịu sự chi phối trực tiếp bởi những quy định của Nhà nước như cơ chế tài
chính áp dụng cho nguồn tài chính được ngân sách cấp. Với cơ chế quản lý tài
chính mềm thì vai trò của thủ trưởng, các tổ chức công đoàn, và hội đồng nhà
trường có ý nghĩa quyết định. Đây là một loại cơ chế quản lý trong các trường
THPT công lập mà tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của Hiệu trưởng rất cao.
1.2.3.2. Cơ chế chi
Cơ chế quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính được hình thành thông qua
hoạt động tạo nguồn. Hoạt động quản lý, sử dụng nguồn tài chính trong các
trường THPT công lập có tác động đến toàn bộ hoạt động của nhà trường theo
hai chiều thuận nghịch khác nhau, điều đó tùy thuộc vào công tác tổ chức các
hoạt động tài chính trong các trường THPT công lập, hay nói một cách khác là
tùy thuộc vào cơ chế quản lý tài chính trong các trường THPT công lập. Tùy
24
thuộc vào đặc điểm của các nguồn tài chính trong các trường THPT công lập
mà có thể hình thành các loại cơ chế quản lý tài chính khác nhau sao cho việc
tạo lập và quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính trong các trường THPT công
lập phù hợp với đặc điểm của từng nguồn tài chính, phù hợp với hoạt động của
nhà trường đảm bảo việc sử dụng nguồn lực tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.
Cơ chế quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính đối với các trường THPT
công lập bao hàm quyền tự chủ và tính tự chịu trách nhiệm của các trường
THPT công lập, cụ thể:
+ Khuyến khích đa dạng hóa và tăng các nguồn thu. Nguồn thu được
phép giữ lại để bổ sung kinh phí cho các hoạt động giáo dục của các trường.
+ Tự quyết định các khoản chi tiêu theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
+ Khả năng phân bổ lại các nguồn kinh phí trong nội bộ. Khi được chấp
thuận về mức phân bổ NSNN hàng năm, các trường THPT có quyền làm chủ
các nguồn kinh phí chi thường xuyên không ràng buộc của cơ quan quản lý
nhà nước. Thực tế họ thường bị cản trở bởi hệ thống ngân sách quy định cứng
nhắc theo từng mục chi tiêu.
• Quản lý theo chu trình ngân sách
Là một bộ phận của ngân sách nhà nước, quản lý tài chính của các trường
THPT công lập cũng được quản lý theo ba khâu: quản lý quá trình lập và phân
bổ dự toán, quản lý quá trình chấp hành và quản lý quá trình quyết toán.
- Quản lý quá trình lập dự toán
Việc lập dự toán ngân sách các trường THPT công lập hiện nay được
thực hiện theo quy trình từ cấp thấp lên cấp cao (Trường - Sở Giáo dục và Đào
tạo - Sở Tài chính). Cụ thể các trường tiến hành lập dự toán thu, chi thuộc
nhiệm vụ được giao gửi Sở Giáo dục và Đào tạo; tiếp theo Sở Giáo dục và
25