Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT LIỆU
XÂY DỰNG THÁI BÌNH
I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT LIỆU XÂY DỰNG THÁI BÌNH
Công ty cổ phần Vật liệu xây dựng (VLXD) Thái Bình tiền thân là Công ty sản
xuất kinh doanh VLXD Thái Bình được chuyển đổi theo Quyết định số 1352/QĐ-UB
ngày 23/10/2001 của UBND Tỉnh Thái Bình mà nền móng ban đầu là Xí nghiệp gạch
Nghĩa Chính được thành lập tháng 10/1969.
Từ khi thành lập đến năm 1992 trong suốt 23 năm xí nghiệp gạch Nghĩa Chính
luôn hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh mà UBND tỉnh giao cho và cũng là lá
cờ đầu của ngành Xây dựng Thái Bình những năm đầu đổi mới 1989 đến 1993. Do đó
UBND tỉnh Thái Bình đã giao cho xí nghiệp phải tiếp nhận một số đơn vị trong ngành
Xây dựng Thái Bình làm ăn thua lỗ kéo dài là Xí nghiệp gạch Quốc Tuấn, Xí nghiệp
vật liệu huyện Vũ Thư và tổ chức xây dựng 1 phân xưởng sản xuất gạch giúp tỉnh bạn
Lào Cai (tỉnh mới tái lập ). Từ việc sát nhập 1 số đơn vị do vậy phạm vi hoạt động
rộng, số công nhân lao động tăng thêm, thời gian này thực hiện Nghị định 388/NĐ-CP
của Chính phủ về sắp xếp thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước. Xí nghiệp được thành
lập lại với với mô hình tổ chức là Công ty sản xuất kinh doanh Vật liệu xây dựng Thái
Bình theo thông báo số 330/TB- XD ngày 17/11/1992 của Bộ trưởng Bộ xây dựng và
quyết định 434/QĐ-UB ngày 20/11/1992 của chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình. Đến
tháng 01/1993 thể theo đề nghị của UBND huyện Vũ Thư được UBND tỉnh Thái Bình
chấp thuận cho phép đơn vị tiếp nhận xí nghiệp vật liệu xây dựng của huyện Vũ Thư.
Từ đó Công ty được UBND tỉnh cho cơ cấu tổ chức tại quyết định số 193/QĐ-UB
ngày 10/5/1994 của chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình
Công ty có 4 xí nghiệp trực thuộc, 1 phân xưởng, với 4 phòng nghiệp vụ gồm:
o XN gạch Nghĩa Chính: Tổ 14 - Phường Phú Khánh - Thành Phố Thái Bình.
o XN Quốc Tuấn : Xã Quốc Tuấn - huyện Kiến Xương- tỉnh Thái Bình.
o XN Vũ Hội : Xã Vũ Hội - huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình.
1
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
o XN gạch không nung Vũ Thư - thị trấn Vũ Thư - tỉnh Thái Bình.
o Phân xưởng gạch Từ Châu - xã Hoà Bình - huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình.
Về bộ máy lãnh đạo các xí nghiệp có giám đốc, phó giám đốc, Phân xưởng có quản
đốc, cửa hàng có cửa hàng trưởng, 4 xí nghiệp trực thuộc có con dấu trực thuộc Công
ty.
Văn phòng công ty có 4 phòng:
+ Phòng Tổ chức hành chính.
+ Phòng Tài vụ - kế toán.
+ Phòng Kế hoạch kỹ thuật.
+ Phòng Kinh tế thị trường.
Về các tổ chức chính trị Công ty có Đảng bộ và 5 chi bộ trực thuộc, có Công
đoàn cơ sở và công đoàn bộ phận của các đơn vị trực thuộc, có đoàn thanh niên công
sản Hồ Chí Minh và các chi đoàn, có hội Cựu chiến binh (có 95 bộ đội xuất ngũ
chuyển ngành qua các thời kỳ). Có hội khuyến học Công ty. Từ khi thành lập năm
1969 đến năm 2001 trong suất thời gian 32 năm xây dựng và phát triển Công ty luôn
hoàn thành kế hoạch sản xuất, nghĩa vụ đối với Nhà nước và người lao động.
Trong thời gian 32 năm xây dựng và trưởng thành tập thể cán bộ CNV toàn Công
ty đã được Nhà nước tặng thưởng hai Huân chương lao động hạng ba và hạng hai,
được Chính phủ tặng cờ thi đua, Bộ Xây dựng tặng bằng khen, Tỉnh uỷ Thái Bình tặng
cờ Đảng bộ vững mạnh xuất sắc UBND tỉnh tặng cờ thi đua xuất sắc trong 6 năm liền
đơn vị dẫn đầu ngành xây dựng. Đảng bộ luôn giữ vững Đảng bộ trong sạch vững
mạnh xuất sắc, tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên cũng được tặng thưởng nhiều cờ
thi đua và bằng khen của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và trung ương Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Song điều quan trọng hơn là từ khi Công ty được chuyển đổi sang Công ty cổ
phần sự phát triển lại càng bền vững và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn các năm chưa cổ
phần hoá.
II. THỰC TRANG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VLXD
THÁI BÌNH
2.1. Phân tích nguồn vốn.
2.1.1.Phân tích cơ cấu nguồn vốn
Nhìn vào bảng 2.1 ta sẽ thấy được kết cấu NV của Công ty, đó là:
2
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Ta thấy tỷ trọng NV nợ phải trả chiếm trong tổng số NV của Công ty không ổn
định năm 2007 là 79,6%, đến năm 2008 giảm xuống còn 70,2 %, đến năm 2009 tỷ
trọng này có nhích lên hơn năm 2008 là 4,5% với tốc độ tăng là 6,02%. Tuy không ổn
định song tỷ trọng của toàn bộ số tiền vay nợ của Công ty chiếm trong tổng NV là còn
khá lớn, điều này làm cho Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn về tình hình tài chính và làm
cho rủi ro tài chính của Công ty sẽ tăng lên
Biểu 2.1 : Phân tích cơ cấu nguồn vốn
ĐVT:triệu
Xem xét tỷ trọng nợ ngắn hạn chiếm trong nợ phải trả: Qua biểu trên ta thấy
khá rõ rằng, nợ ngắn hạn của Công ty tăng nhanh và đặc biệt cao vào năm 2008 với
tốc độ tăng hơn so với năm 2007 là 60,95% nhưng đến năm 2009 tỷ trọng này có giảm
xuống so với năm 2008 mức giảm là 11%. Tỷ trọng của nợ ngắn hạn chiếm trong nợ
phải trả tăng cao, điều này làm ảnh hưởng nhiều tới khả năng thanh toán của Công ty,
nợ phải trả cho vốn lưu động của Công ty càng cao.
Chỉ tiêu
Thực hiện So sánh
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
2008/2007 2009/2008
Số
tuyệt
đối (±)
Số tương
đối (%)
Số
tuyệt
đối
(±)
Số
tương
đối
(%)
1. Nợ phải trả 15.520 11.359 12.975 -4.161 - 26,81 1.616 14,3
2. Tổng TS (tổng NV ) 19.492 16.173 17.375 - 3.319 - 17,73 1.202 7,43
3. Tỷ trọng nợ phải trả
chiếm trong tổng số NV
( ½ )
79,6 70,2 74,7 - 9,4 - 11,88 4,5 6,02
4. Nợ ngắn hạn 8.505 10.022 10.011 1.517 17,84 - 11 - 0,11
5. Tỷ trọng nợ ngắn hạn
chiếm trong nợ phải trả
(4/1 )
54,8 88,2 77,2 33,4 60,95 - 11 - 12,47
6. Vốn chủ sở hữu 3.972 4.814 4.401 842 21,19 - 413 - 8,58
7. Hệ số cơ cấu nguồn
vốn ( 6/2 )
20,38 29,75 25,33 9,37 45,98 - 4,42 - 14,86
3
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty cũng không ổn định qua các năm, tỷ trọng
của NV chủ sở hữu chiếm trong tổng NV cũng tăng, cụ thể là: năm 2007 là 20,38 %
đến năm 2008 tăng đến 29,75 % và đến năm 2009 có giảm xuống nhưng vẫn tăng hơn
so với năm 2007 là 4,95 %. Việc tỷ trọng NV chủ sở hữu tăng thì điều đó chứng tỏ
rằng tình hình tài chính của Công ty đang đi vào ổn định, Công ty có thể chủ động
trong việc đảm bảo vốn cho nhu cầu của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và rủi ro
về tài chính của Công ty sẽ giảm.
2.1.2 Phân tích quy mô nguồn vốn
Để phân tích sự biến động quy mô nguồn vốn, ta lập biểu sau:
Biểu 2.2 : Phân tích sự biến động quy mô nguồn vốn của Công ty
ĐVT:triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện So sánh
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
2008/2007 2009/2008
Số
tuyệt
đối (±)
Số tương
đối (%)
Số
tuyệt
đối
(±)
Số
tương
đối
(%)
A. Nợ phải trả 15.520 11.359 12.975 -4.161 - 26,81 1.616 14,3
I. Nợ ngắn hạn 8.505 10.022 10.011 1.517 17,84 - 11 - 0,11
1. Vay ngắn hạn
2. Phải trả cho người
bán
1.149 1.243 1.307 94 0,82 64 5,15
3. Người mua trả tiền
trước
1.497 2.905 3.121 1.408 94,05 216 7,44
4. Thuế và các khoản
phải nộp ngân sách
26 192 203 166 638,46 11 5,73
5. Phải trả CNV 3.529 3.257 3.163 - 272 - 8,35 - 94 - 2,89
6. Chi phí phải trả 38 55 62 17 44,74 7 12,73
7. Phải trả, phải nộp
khác
2.266 2.370 2.155 104 4,59 - 215 - 9,07
II. Nợ dài hạn 7.015 1.337 2.964 - 5.678 - 80,94 1.627 121,69
B. Nguồn vốn CSH 3.972 4.814 4.401 842 21,19 - 413 - 8,58
1. Nguồn vốn kinh
doanh, quỹ
3.972 4.774 4.361 802 21,19 - 413 - 8,58
2. Nguồn vốn XDCB 0 40 40 40 0 0
Tổng cộng NV 19.492 16.173 17.375 - 3.319 - 17,73 1.202 7,43
Từ bảng phân tích trên, ta thấy quy mô nguồn vốn giảm năm 2007 tổng nguồn
vốn của Công ty đạt mức 19.492 triệu đồng. Số vốn này bị giảm dần trong năm 2008,
4
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
2009 mức giảm lớn nhất là trong năm 2008 với tỷ lệ giảm là 17,73% so với năm 2007 .
Đó là do, nợ phải trả giảm từ 15.520 tr.đồng xuống còn 11.359 tr.đồng mức giảm tuyệt
đối là 4.161 tr.đồng tương ứng với giảm 26,81%. Điều này chứng tỏ rằng Công ty đã
thanh toán được một số các khoản nợ đến hạn phải trả, tức là số vốn Công ty đi chiếm
dụng giảm. Trong khi nợ phải trả giảm thì nguồn vốn chủ sở hữu lại tăng, nguyên nhân
là do việc kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển, lợi nhuận chưa phân phối tăng
cao dẫn tới việc làm tăng nguồn vốn của chủ sở hữu. Tuy nhiên sang đến năm 2009
tình hình lại có xu hướng không tốt vì khoản nợ phải trả năm 2009 lại tăng hơn so với
năm 2008 là 1.616 tr.đồng, ngược lại vốn chủ sở hữu của Công ty năm 2009 giảm hơn
năm 2008 là 413 tr.đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 8,58%. Vấn đề này Công ty cần
phải tìm giải pháp để cải thiện tình hình trên. Nhưng nhìn chung lại là tổng nguồn vốn
đang giảm, vì thế yêu cầu đặt ra là Công ty phải có những quyết định cần thiết để huy
động thêm các nguồn vốn vào quá trình kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý tài chính của Công ty.
2.2. Phân tích tài sản.
2.2.1 Phân tích kết cấu tài sản
Phân tích kết cấu về tài sản của công ty là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan
trọng. nếu doanh nghiệp có kết cấu vốn hợp lý thì không chỉ sử dụng vốn có hiệu quả
mà còn tiết kiệm được vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Để phân tích kết cấu tài sản ta đi tính các chỉ tiêu sau:
Tỷ trọng của TSLĐ và đầu 12.248
tư tài chính ngắn hạn chiếm = x 100 = 62,8 %
trong tổng TS (năm 2007) 19.492
Tương tự ta cũng có:
Tỷ trọng của TSLĐ và đẩu tư tài chính ngắn hạn chiếm trong tổng TS năm 2008
là: 70,5 % và năm 2009 là: 65,1 %.
Qua số liệu ở trên ta thấy, tỷ trọng của TSLĐ và đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm
trong tổng TS năm 2007 là 62,8%, tỷ trọng này chỉ tăng thêm 7,7 % so với năm 2007
và đến năm 2009 đã giảm đi 5,4 % so với năm 2008. Điều này cho thấy TSLĐ và đầu
5
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
tư tài chính ngắn hạn của Công ty là cũng khá cao tuy không ổn định nhưng cũng làm
tăng khả năng thanh toán của Công ty.
Tỷ trọng TSCĐ và đầu tư 7.245
tài chính dài hạn chiếm = x 100 = 37,2 %
trong tổng TS (năm 2007) 19.492
Tương tự ta cũng có: tỷ trọng của TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn chiếm
trong tổng TS năm 2008 là: 29,5 % và năm 2009 là 34,9 %.
Qua các số liệu ở trên, ta thấy: tỷ trọng của TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn
giảm dần qua các năm từ 37,2 % vào năm 2007 đến năm 2008 chỉ còn 29,5 %, năm
2009 là 34,9%. Điều này chứng tỏ rằng: Công ty chưa chú trọng đến việc đầu tư vào
TSCĐ, cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty còn thấp kém làm ảnh hưởng trực tiếp tới
năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty. Vì thế, để công việc kinh doanh có hiệu
quả cao, Công ty cần đầu tư hơn vào TSCĐ, thay thế, sửa chữa những máy móc thiết
bị đã hết thời gian sử dụng, hay hỏng hóc.
2.2.2 Phân tích quy mô tài sản
Biểu 2.3 : Bảng phân tích sự biến động quy mô tài sản
ĐVT:triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện So sánh
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
2008/2007 2009/2008
Số
tuyệt
đối (±)
Số tương
đối (%)
Số
tuyệt
đối
(±)
Số
tương
đối
(%)
A. Tài sản ngắn hạn 12.247 11.410 11.306 - 837 - 6,83 - 104 - 0,91
1. Vốn bằng tiền 1.150 840 614 - 310 - 26,96 - 226 - 26,9
2. Đầu tư tài chính ngắn
hạn
0 1.700 1.700 1.700 - 0 0
3. Các khoản phải thu 5.196 4.996 5.959 - 200 - 3,85 963 19,28
4. Hàng tồn kho 5.902 3.874 3.033 - 2.028 - 34,36 - 841 - 21,71
B. Tài sản dài hạn 7.245 4.763 6.069 - 2.482 - 34,26 1.306 27,42
1. Tài sản cố định 7.240 4.458 5.764 - 2.782 - 38,43 1.306 27,42
2. Đầu tư tài chính dài
hạn
5 305 305 300 6000 0 0
Tổng cộng tài sản 19.492 16.173 17.375 - 3.319 - 17,73 1.202 7,43
6
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Từ biểu 2.3 ta thấy, Tương tự như nguồn vốn tổng tài sản của Công ty có sự giảm
sút dần cụ thể năm 2007 tổng tài sản là 19.492 tr.đồng năm 2008 giảm 3.319 tr.đồng
năm 2009 có tăng thêm 1.202 tr.đồng tương đương với tăng 7,43%. Việc giảm tài sản
là do cả tài sản lưu động và tài sản cố định của Công ty cụ thể.
* Tài sản lưu động năm 2008 giảm hơn năm 2007 là 837 tr.đồng, năm 2009
giảm so với năm 2008 là 104 đồng. Sự sụt giảm này là do các khoản phải thu của
Công ty giảm đặc biệt là năm 2008 các khoản phải thu giảm hơn năm 2007 là 200
tr.đồng với tốc độ giảm 3,85%. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho Công ty trong việc thu
hồi vốn hay nói cách khác là công ty đã ít bị khách hàng chiếm dụng vốn, đến năm
2009 các khoản phải thu của Công ty lại đặc biệt tăng nhanh cụ thể năm 2009 tăng hơn
năm 2008 là 963 tr.đồng. Mặt khác trong năm 2008 hàng tồn kho của Công ty giảm
hơn năm 2007 là 2.028 tr.đồng với tỷ lệ giảm là 34,36%, năm 2009 lại lượng hàng tồn
kho của Công ty lại tiếp tục giảm hơn năm 2008 là 841 tr.đồng. Điều này chứng tỏ
Công ty đã có những biện pháp hợp lý trong khâu tiêu thụ sản phẩm tuy nhiên do quá
chú trọng đến khâu tiêu thụ sản phẩm nên khâu thu hồi vốn của Công ty trong năm
2009 bị ứ đọng hay nói cách khác Công ty đã bị chiếm dụng vốn. Việc tài sản lưu
động của Công ty giảm dần trong ba năm từ 2007- 2009 chứng tỏ được Công ty đã sử
dụng tài sản lưu động khá hiệu quả.
Sự giảm sút của tài sản lưu động còn do một số các khoản mục có biến động lớn.
Đầu tư tài chính ngắn hạn năm 2008, 2009 tăng 1.700.000.000 đồng trong khi
đó năm 2007 Công ty không đầu tư vào đây.
* Tài sản cố định của Công ty không giảm liên tục trong ba năm, năm 2007
giá trị tài sản cố định là 7.245 tr.đồng đến năm 2008 giảm xuống còn 4.763 tr.đồng
với tốc độ giảm là 34,26% ; năm 2009 tài sản cố định đã được đầu tư mới cụ thể giá
trị tài sản cố định của Công ty đạt 6.069 tr.đồng tăng hơn năm 2008 là 1.306 tr.đồng
tương ứng với mức tăng là 27,42% . Chỉ tiêu này giảm là do việc thanh lý các tài sản
đã hết thời gian sử dụng, trong khi Công ty chưa đầu tư thêm các trang thiết bị thay
thế khác. Do vậy sau khi thanh lý tài sản cố định đã hết thời gian sử dụng Công ty đã
nhanh chóng đầu tư thêm tài sản cố định mới để phục kịp thời cho sản xuất trong
năm 2009. Tuy tài sản cố định của Công ty giảm nhưng ta thấy đầu tư tài chính dài
hạn năm 2007 chỉ có 5.000.000 đồng nhưng đến năm 2008,2009 đã tăng lên đến
305.000.000 tương đương với tăng 6000%.
7
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Tóm lại: qua phân tích ở trên ta thấy được quy mô tài sản của Công ty đang giảm
dần, để có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất cũng như mở rộng sản xuất Công ty cần
đầu tư thêm vào tài sản cố định, thu hồi nhanh các khoản nợ phải thu, mở rộng mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm để hạn chế lượng hàng tồn kho giúp Công ty quay vòng vốn
nhanh để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.3. Phân tích khả năng sinh lợi.
Ngoài việc xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ TS, hiệu quả sử dụng
vốn còn được xem xét cả dưới góc độ NV. Dưới góc độ này, hiệu quả sử dụng vốn
được nhìn nhận ở khả năng sinh lợi. Và để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn, ta tính
và so sánh các chỉ tiêu sau:
Biểu 2.4: Bảng phân tích khả năng sinh lợi
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện So sánh
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
2008/2007 2009/2008
Số
tuyệt
đối (±)
Số
tương
đối
(%)
Số
tuyệt
đối (±)
Số
tương
đối
(%)
1. Lợi nhuận sau thuế
721 1.454 670 733 101,66 - 784 - 53,92
2. Doanh thu thuần
19.865 23.190 24.627 3.325 16,74 1.437 6,20
3.HS doanh lợi doanh
thu ( 3=1/2 )
0,04 0,06 0,03 0,02 50 - 0,03 - 50
4. Lãi vay phải trả
441 218 272 - 223 - 50,57 54 24,77
5. Tổng tài sản
19.492 16.173 17.375 - 3.319 -17,03
1.202 7,43
6. Hệ số doanh lợi tài
sản
( 6= (1+4)/5)
0,06 0,1 0,05 0,04 66,67 - 0,05 - 50
7.Vốn CSH
3.972 4.814
4.401
842 21,2 - 413 - 8,58
8. Hệ số sinh lợi VCSH
( 8= 1/7 )
0,18 0,3 0,15 0,12 66,67 - 0,15 - 50
Từ biểu 2.4 ta thấy các hệ số sinh lợi của Công ty đều rất nhỏ và không được
duy trì ổn định trong ba năm 2007 – 2009 cụ thể:
+ Hệ số sinh lợi doanh thu năm 2007 là 0,04 đến năm 2008 là 0,06 tăng hơn năm
2007 là 0,02 tương ứng với tỷ lệ tăng là 50%. Năm 2009 tình hình trở lên xấu hơn khi
8
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
hệ số sinh lợi doanh thu giảm mất 0,03 so với năm 2008 với tỷ lệ tăng là 50%. Đây là
dấu hiệu rất đáng lo cho Công ty vì điều này cho thấy trung bình trong một năm cứ
một đồng doanh thu sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế và số lợi nhuận
thu được trên doanh thu không được Công ty duy trì tăng dần trong các năm hay nói
cách khác kết quả kinh doanh của Công ty không ổn định. Năm 2007 cứ một đồng
doanh thu thì sẽ tạo ra được 0,04 đồng lợi nhuận sau thuế, năm 2008 là 0,06 đồng và
năm 2009 là 0,03 đồng. Tỷ lệ này tuy chưa cao nhưng với diễn biến phức tạp chứng tỏ
Công ty sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhưng không giữ vững trong ba năm liên
tiếp. Đây là khiếm khuyết mà Công ty cần được khắc phục trong những năm tiếp theo.
+ Hệ số doanh lợi tài sản có cao hơn hệ số sinh lợi doanh thu và cũng không ổn
định. Năm 2008 hệ số này đặc biệt tăng mạnh với tốc độ tăng là 66,67% so với năm
2007 nguyên nhân do tổng tài sản của Công ty năm 2008 giảm hơn so với năm 2007
đồng thời lợi nhuận của năm 2008 tăng hơn so với năm 2007 là 733 triệu đồng tương
ứng với tỷ lệ tăng là 101,66%. Hệ số doanh lợi tài sản năm 2009 thấp hơn năm 2008 là
0,05. Như vậy Công ty đã sử dụng tài sản có hiệu quả. Từ năm 2007 đến năm 2009
trung bình cứ một đồng vốn đầu tư vào tài sản thì sẽ tạo ra được là 0,06 đồng lợi nhuận
sau thuế trong năm 2007, năm 2008 là 0,1 đồng và năm 2009 là 0,05 đồng. Việc đầu tư
và sử dụng hợp lý tài sản còn được thể hiện thông qua lợi nhuận sau thuế hàng năm.
Công ty đã luôn đạt được lợi nhuận trong ba năm và số lợi nhuận đạt được là khá cao.
Chứng tỏ Công ty đang phát triển vững mạnh.
+ Hệ số khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu quan trọng tổng quát
phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu nói riêng và khả năng sinh lợi của toàn
bộ vốn của doanh nghiệp nói chung. Thông qua chỉ tiêu này, người phân tích có thể
đánh giá khả năng sinh lợi và hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Sau đây ta đi phân tích cụ thể xem khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu của
Công ty có cao hay không và ảnh hường như thế nào tới tình hình tài chính của Công ty.
Năm 2007 hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu là 0,18 đến năm 2008 đã tăng lên nhanh
chóng ở mức 0,3; năm 2009 là 0,15. Như hai hệ số sinh lợi trên thông qua hệ số sinh lợi
vốn chủ sở hữu ta thấy trung bình trong một năm cứ một đồng vốn chủ sở hữu sẽ tạo ra
được bao nhiêu đồng lợi nhuân sau thuế. Năm 2007 cứ một đồng vốn chủ sở hữu sẽ tạo
ra được 0,18 đồng lợi nhuận sau thuế , năm 2008 lợi nhuận sau thuế được tạo ra trên
9
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
một đồng vốn chủ sở hữu hơn năm 2007 là 0,12 đồng; năm 2009 lợi nhuận sau thuế
được tạo ra trên một đồng vốn chủ sở hữu là 0,15 đồng có giảm hơn năm 2008
Và để làm rõ hơn về khă năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu ta đi xem tiếp chỉ tiêu:
suất hao phí của vốn.
3.703
Suất hao phí của vốn (năm 2007) = = 1,018
3.637
Và chỉ tiêu này trong của năm 2008là: 0,901; năm 2009 là 1,025. Như vậy là suất
hao phí của vốn đã giảm từ 1,018 xuống 0,901 vào năm 2008. Tức là vào năm 2007 để
có một đồng lợi nhuận thì Công ty phải hao phí (đầu tư) 1,018 đồng vốn. Nhưng đến
năm 2008 thì đế có một đồng lợi nhuận Công ty chỉ phải hao phí 0,901 đồng vốn và
đến năm 2009để có một đồng lợi nhuận thì Công ty phải hao phí (đầu tư) 1,025 đồng
vốn . Như vậy là: cùng với một đồng lợi nhuận nhận được nhưng giờ đây Công ty sẽ
phải hao phí ít vốn hơn, chứng tỏ khả năng sinh lợi của Công ty đang tăng mặc dù còn
chậm nhưng điều này Công ty cũng chỉ duy trì được trong năm 2008 vì đến năm 2009
tình hình lại trở lại như năm 2007.
2.4. Phân tích khả năng rủi ro về tài chính của Công ty
Trong quá trình hoạt động DN sử dụng vốn vay hay nợ vay, một mặt nhằm bù
đắp sự thiếu hụt vốn, mặt khác nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận chủ sở hữu
hoặc thu nhập trên một cổ phần nhưng đồng thời cũng làm tăng thêm rủi ro cho DN,
đó là rủi ro tài chính.
Việc sử dụng vốn vay tạo ra khả năng cho DN tăng được tỷ suất lợi nhuận vốn
chủ sở hữu nhưng cũng làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu có thể có mức độ
dao động lớn hơn. Khi tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản ( ROA
E
) mà DN tạo ra lớn
hơn chi phí sử dụng vốn vay sẽ làm gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, nhưng
nếu tỷ suất sinh lời của tài sản thấp hơn chi phí sử dụng vốn vay thì càng làm giảm sút
nhanh hơn tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Mặt khác DN sử dụng vốn vay làm nảy
sinh nghĩa vụ tài chính phải thanh toán lãi vay cho các chủ nợ bất kể DN đạt được mức
độ lợi nhuận trước lãi vay và thuế là bao nhiêu, đồng thời DN phải có nghĩa vụ hoàn
trả gốc cho các chủ nợ đúng hạn. DN càng sử dụng nhiều vốn vay thì nguy cơ mất khả
năng thanh toán càng lớn. Như vậy việc sử dụng vốn vay đã ẩn chứa rủi ro tài chính
mà DN có thể gặp phải trong quá trình kinh doanh.
10
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Để phân tích được tình hình rủi ro của Công ty, ta đi tính và so sánh các chỉ tiêu sau:
2.4.1 Phân tích rủi ro thông qua các hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
Các hệ số thanh toán nợ ngắn hạn phản ánh rất rõ nét khả năng thanh toán của
Công ty, vì vậy để thấy rõ khả năng thanh toán ta sẽ đi phân tích các hệ số thanh toán.
Ta lập biểu sau:
Biểu 2.5 : Một số các hệ số tài chính
Theo biểu 2.5 ta thấy:
3.972
Hệ số tài trợ (năm 2007) = = 0,204
19.492
Tương tự ta cũng tính được hệ số tài trợ của năm 2008 là 0,3 ; năm 2009 là 0,253.
Hệ số tài trợ của Công ty có sự biến đổi tăng từ 0,204 đến 0,3. Tuy nhiên hệ số
này còn thấp, chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của Công ty chưa cao, hầu hết
tài sản của Công ty đều được tài trợ bằng số vốn đi chiếm dụng. Như vậy, nợ vay còn
chiếm tỷ trọng cao trong cơ cầu nguồn vốn. Hệ số tài trợ tuy tăng ít nhưng cũng là một
dấu hiệu tốt vì Công ty đang cố gắng độc lập hơn về tài chính
Hệ số nợ trên tổng TS năm 2008 đã giảm so với năm 2007 là 0,094 đồng tương
ứng với giảm 11,8 %. Và như vậy ta thấy: vào năm 2007 cứ một đồng tổng TS thì có
đến 0,796 đồng do vay - nợ mà có, đến năm 2008 thì giảm xuống còn 0,702 đồng vay -
nợ trong một đồng tổng TS. So với nhiều công ty khác, thì hệ số này của Công ty là
lớn, điều đó làm ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của Công ty và làm tăng rủi ro
Chỉ tiêu
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Ch/ lệch
(2008/2007
Chênh lệch
(2009/2008)
1 2 3 4 5= 3-2 6 = 4 - 3
1. HS tài trợ 0,204 0,3 0,253 0,096 - 0,047
2. HS khả năng t/ toán
nợ ngắn hạn
1,44 1,138 1,129 -0,302 - 0,009
3. Hệ số khả năng t/toán
nhanh
0,746 0,582 0,657 - 0,164 0,075
4. HS khả năng t/ toán
hiện hành
0,135 0,093 0,061 - 0,042 - 0,032
11
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
cho Công ty. Bởi vậy, để hạn chế rủi ro về tài chính Công ty phải tăng nhanh quy mô
vốn chủ sở hữu, mặt khác phải giảm các khoản vay - nợ của Công ty.
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn năm 2007 là 1,44 nhưng năm 2008 lại
giảm xuống chỉ còn 1,138, năm 2009 tiếp tục giảm xuống còn 1,129 điều này cho thấy,
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của Công ty là khá tốt. Năm 2008 giảm 0,302 so với
năm 2007, năm 2009 giảm 0,009 so với năm 2008 điều này sẽ ảnh hưởng không tốt tới
tình hình thanh toán của Công ty, nguyên nhân là do vòng quay của tiền chậm và hiệu
quả sử dụng vốn không cao.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Ta thấy hệ số thanh toán nhanh năm 2007 là
0,746 đến năm 2008 giảm còn 0,582 nhưng lại tăng chậm vào năm 2009 với mức tăng
là 0,075. Trị số của chỉ tiêu này nhỏ, vì thế nên Công ty có thể đang gặp nhiều khó
khăn trong việc thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn và do đó, có thể phải bán
gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán . Vì thế, trong thời gian
tới Công ty cần quan tâm tới quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, tránh tình trạng ứ
đọng vốn và phải thu hồi được vốn nhanh để kết quả kinh doanh đạt hiệu quả.
Bên cạnh các hệ số trên, thì hệ số khả năng thanh toán hiện hành cũng phản ánh
khá rõ nét về tình hình tài chính. Theo biểu 2.6 hệ số này là 0,135 vào năm 2007, đến
năm 2008 là 0,093 và đến năm 2009 là 0,061. Vậy là hệ số này qua các năm đều giảm,
điều này chứng tỏ: với toàn bộ giá trị thuần của tài sản hiện có, Công ty có thể khó
đảm bảo được khả năng thanh toán các khoản nợ.
2.4.2 Phân tích rủi ro thông qua tình hình thanh toán.
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, ít bị
chiếm dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn và ngược lại.
12
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Biểu 2.6 : Bảng phân tích tình hình thanh toán
ĐVT: triệu đồng
13
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Chỉ tiêu
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
Số
tuyệt
đối (±)
Số
tương
đối
(%)
Số tuyệt
đối (±)
Số
tương
đối
(%)
I. Các khoản
phải thu
- Phải thu từ
khách hàng
- Trả trước cho
người bán
- Phải thu nội
bộ
- Các khoản
phải thu khác
- D/phòng các
khoản phải thu
khó đòi
II. Các khoản
phải trả
2.1. Nợ DH
- Vay và nợ dài
hạn
- Dự phòng trợ
cấp mất việc
làm
2.2. Nợ ngắn
hạn
- Vay và nợ
ngắn hạn
- Phải trả cho
người bán
- Người mua trả
tiền trước
- Thuế và các
khoản phải nộp
Nhà nước
- Phải trả công
nhân viên
5.196
3.703
-
139
1.949
- 595
15.520
7.016
6.838
178
8.505
-
1.149
1.497
27
3.529
4.996
2.384
1.144
203
2.566
- 1.300
11.359
1.337
1.040
297
10.022
-
1.244
2.905
191
3.256
5.959
3.987
997
203
2072
- 1.300
12.975
2.964
2.635
329
10.010
-
1.307
3.121
203
3.163
- 200
-1.320
1.144
64
617
- 705
- 4.161
- 5.679
- 5.974
297
1.517
-
95
1.408
164
- 272
-3,85
- 35,63
100
46,08
31,61
-118,4
- 26,81
- 80,94
-85,18
100
17,84
-
8,3
94,08
611,28
-7,71
963
1.603
- 147
0
- 494
0
1.616
1.627
1.595
32
- 12
-
63
216
12
- 93
19,27
67,24
-12,85
0
- 19,25
0
14,23
121,69
153,37
10,77
- 0,11
-
5,06
7,44
6,25
-2,86
14
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Nhìn vào bảng phân tích 2.6 ta thấy các khoản phải thu năm 2008 giảm 200 tr.đồng
so với năm 2007 tương ứng với giảm 3,85 % tức là Công ty đã đi chiếm dụng thêm
200 tr.đồng trong đó số mà Công ty đi chiếm dụng của người mua là 1.320 tr.đồng,
năm 2009 tình hình bị lật ngược khi khoản phải thu của Công ty tăng rất nhanh so với
năm 2008 mức tăng là 1.603 tr.đồng. đây là dấu hiệu xấu trong việc thu hồi vốn của
Công ty. Trả trước cho người bán năm 2007 không phát sinh nhưng đến năm 2008 lại
phát sinh với lượng lớn đến 1.144 tr. đồng, năm 2009 trả trước cho người bán giảm
xuống còn 997 tr.đồng. Các khoản phải thu nội bộ tăng thêm 64 tr.đồng tương đương
với tăng 46,08 % và không tăng trong năm 2009. Các khoản phải thu khác cũng tăng
khá cao tăng 31,61 % tương đương với tăng 617 tr.đồng, đến năm 2009 khoản mục
này đã giảm hơn năm 2008 là 494 tr.đồng.
Để xem xét các khoản phải thu biến động có ảnh hưởng như thế nào đến tình
hình tài chính của Công ty ta đi so sánh các chỉ tiêu sau:
Tỉ lệ các khoản nợ phải 5.196
thu so với các khoản nợ = x 100% = 33,48 %
phải trả (năm 2007) 15.520
Tương tự ta cũng tính được chỉ tiêu trên trong năm 2008 là: 43,98 %, năm 2009
là 45,93%. Nhìn vào tỉ lệ này ta thấy chỉ tiêu tăng lên 10,5 % so với năm 2007, 1, 95%
so với năm 2008, mặc dù có tăng nhưng không đáng kể. Và ta thấy, tỉ lệ các khoản nợ
phải thu so với các khoản nợ phải trả nhỏ hơn 100% chứng tỏ số vốn doanh nghiệp bị
chiếm dụng nhỏ hơn số vốn đi chiếm dụng và nó phản ánh tình hình tài chính của
Công ty không lành mạnh.
Ta tính chỉ tiêu:
5.196
Tỷ suất nợ phải thu (năm 2007) = = 0,266
19.492
Tương tự ta có: Tỷ suất nợ phải thu năm 2008 là: 0,309; năm 2009 là 0,343. Ta
thấy chỉ tiêu này của năm 2008 cao hơn năm 2007 là 0,043 hay tương ứng với 4,3 %;
năm 2009 cao hơn năm 2008 là 0,034 . Chỉ tiêu này cho biết là cứ một đồng TS của
Công ty thì có bao nhiêu đồng nợ phải thu. Theo như phân tích ở trên, thì năm 2007 cứ
1 đồng TS thì có 0,266 đồng là nợ phải thu và đến năm 2008 tăng lên là 0,309 đồng
trên 1 đồng TS, năm 2009 là 0,343. Việc tăng chỉ tiêu này đã chứng tỏ tình hình tài
15
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
chính của Công ty đang xấu đi, các khách hàng mua chịu và chưa thanh toán cho Công
ty còn nhiều. Công ty cần phải có biện pháp để thu hồi nhanh số vốn bị chiếm dụng
Đối với các khoản phải trả thì: năm 2008 đã giảm hơn so với năm 2007 là 4.161
tr.đồng tương ứng với giảm 26,81 %. Nhìn vào các chỉ tiêu trên bảng phân tích, ta thấy
khoản vay nợ dài hạn có biến động lớn nhất: năm 2007 là 7.016 tr.đồng đến năm 2008
giảm xuống chỉ còn 1.040 tr.đồng tức là đã giảm 5.976 tr. đồng tương ứng với giảm
85,18 %. Điều này cho thấy Công ty đã thanh toán được một phần lớn các khoản vay
nợ dài hạn, năm 2009 vay dài hạn của Công ty lại có xu hướng tăng nhẹ mức tăng là
1.627 tr.đồng. Nhưng Công ty lại chiếm dụng một số lớn vốn của khách hàng: năm
2007 chỉ tiêu người mua trả tiền trước là 1.497 tr.đồng, năm 2008 là 2.905 tr.đồng tăng
hơn so với năm 2007 là 1.498 tr.đồng tương ứng với 94,08 %, năm 2009 người mua
trả tiền trước đạt mức 3.121 tr.đồng . Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước cũng tăng
cao đến 611,28 % tương ứng với 164 tr.đồng, còn chi phí phải trả cũng tăng 44,65 %.
Như vậy, ta thấy rằng % tăng các khoản phải thu tăng chậm hơn rất nhiều so với các
khoản phải trả nên phần vốn Công ty đi chiếm dụng vẫn lớn hơn so với phần vốn mà
các doanh nghiệp khác chiếm dụng của Công ty và điều này làm ảnh hưởng không tốt
tới tình hình tài chính.
Để làm rõ hơn về ảnh hưởng của các khoản phải trả đến tình hình tài chính của
Công ty ta phân tích một số chỉ tiêu sau:
15.520
Tỷ suất nợ phải trả (năm 2007) = = 0,796
19.492
Tương tự ta có tỷ suất này của năm 2008 là: 0,702, năm 2009 là 0,747. Nhìn
vào số liệu trên ta thấy tỷ suất nợ phải trả giảm. Tức là trong 1 đồng nguồn vốn của
Công ty thì đồng nợ phải trả giảm, và nó phản ánh khái quát nhất tình hình công nợ
của Công ty. Chỉ tiêu này dù có giảm nhưng vẫn còn khá cao, điều đó chứng tỏ công
nợ của Công ty là khá lớn. Công ty cần phải xác định rõ những nguyên nhân làm khê
đọng các khoản phải trả và cần sớm có biện pháp xử lý kịp thời các khoản công nợ,
góp phần làm lành mạnh hoá tình hình hoạt động tài chính của Công ty.
Tỷ lệ % các khoản phải 15.520
trả so với các khoản = = 1,823
nợ ngắn hạn (năm 2007) 8.505
16
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Tương tự ta cũng có chỉ tiêu trên của năm 2008 là: 1,133, năm 2009 là 1,296.
Chỉ tiêu này giảm từ 1,823 năm 2007 xuống còn 1,133, vào năm 2008; năm 2009 tăng
lên 1,296. Điều này chứng tỏ các khoản nợ phải trả của Công ty có không ổn định
xong vẫn ở mức cao.
2.4.3 Phân tích rủi ro thông qua các tỷ số nợ
Để làm rõ nét hơn tình hình thanh toán của Công ty, ta đi phân tích các tỷ số nợ sau:
Biểu 2.7 : Bảng phân tích các tỷ số nợ
ĐVT: %
Chỉ tiêu
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
1. Tỷ số nợ 79,62 70,24 74,7 - 9,38 4,46
2. Tỷ số khả năng t/ toán
của TSLĐ
9,38 7,36 7,12 - 2,02 - 0,24
Tỷ số nợ cho ta biết, so với tổng TS hoặc so với tổng NV thì nợ phải trả chiếm
bao nhiêu. Theo bảng phân tích ở trên ta thấy tỷ số nợ từ 79,62 % năm 2007 xuống
còn 70,24 % năm 2008 và đến năm 2009 tăng 4,46 % so với năm 2008 làm cho tỷ số
nợ còn 74,7 % . Tuy nhiên trị số của chỉ tiêu này còn cao dẫn tới mức độ độc lập về tài
chính của Công ty còn khá thấp tức là nguồn vốn của Công ty trên 70% là các khoản
nợ phải trả chưa đến hạn trả mà Công ty đang chiếm dụng. như vậy cần có những biện
pháp khác để chủ động hơn về vốn. Nói theo cách khác Công ty cần phải nâng cao khả
năng thanh toán các khoản nợ để % nợ phải trả chiếm trong tổng TS hoặc tổng NV
hoặc nguồn vốn chủ sở hữu giảm, từ đó nâng cao mức độ độc lập về mặt tài chính của
Công ty.
Biểu 2.8 : Bảng phân tích tình hình rủi ro của Công ty
Chỉ tiêu
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
(±) % (±) %
1. Hệ số nợ trên tổng
TS
0,796 0,702 0,747 - 0,094 - 11,8 0,045 6,41
2. Hệ số nợ ngắn hạn
trên tổng TSLĐ
0,694 0,878 0,885 0,184 26,51 0,007 0,79
3. Hệ số thu hồi nợ 3,772 4,559 4,983 0,787 20,86 0,424 9,3
17
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
4. Hệ số quay vòng
hàng tồn kho
2,7 4,7 6,26 2 74 1,56 33,19
Qua bảng phân tích trên ta đi xem xét từng chỉ tiêu:
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính, trước hết ta so sánh tổng số nguồn vốn.
Ta thấy, năm 200 tổng nguồn vốn của Công ty là 19.492 đồng, và giảm dần cho đến
năm 2009 còn 17.375 đồng, điều này chứng tỏ quy mô vốn của Công ty giảm dần cũng
như khả năng huy động vốn của Công ty giảm. Tuy nhiên, chỉ tiêu “Tổng số nguồn
vốn” có thể tăng, giảm do nhiều nguyên nhân nên chưa thể biểu hiện đầy đủ tình hình
tài chính của Công ty được.
Hệ số nợ ngắn hạn trên tổng TSLĐ: theo số liệu đã được phân tích ở trên thì cứ
một đơn vị tổng TSLĐ của Công ty đang sử dụng vào qúa trình sản xuất kinh doanh
thì có 0,694 đồng vào năm 2007; 0,878 đồng vào năm 2008 và 0,885 đồng vào năm
2009 là do vay nợ mà có. Ta thấy, hệ số này của năm 2008 lại tăng hơn so với năm
2007 là 0,184 đồng tương đương với 26,51 %, năm 2009 tiếp tục tăng thêm 0,007 so
với năm 2008. Hiện tượng hệ số nợ ngắn hạn trên tổng TSLĐ tăng làm cho rủi ro về
tài chính của Công ty càng lớn.
Về hệ số thu hồi nợ: Năm 2007 hệ số này là 3,772 đến năm 2008 đã được tăng
thêm 0,787 với tốc độ tăng là 20,86%; năm 2009 tăng hơn so với năm 2008 là 0,424
đồng tương ứng với tăng 9,3 %. Việc hệ số thu hồi nợ tăng làm cho tình hình tài chính
của Công ty có chút khả quan hơn vì giảm được rủi ro tài chính.
Chỉ tiêu cuối cùng ta phân tích là: Hệ số quay vòng hàng tồn kho năm 2007 hệ số
này là 2,7 vòng đến năm 2008 là 4,7 vòng và đến năm 2009 là 6.26 vòng. Ta thấy hệ
số này trong năm 2008,2009 đã tăng nhanh so với năm 2007. Hệ số quay vòng hàng
tồn kho năm 2008 cao hơn năm 2007 là 2 vòng, năm 2009 cao hơn năm 2008 là 1,56
vòng tương ứng với 33,19 % . Điều này chứng tỏ, Công ty đã rút ngắn được chu kỳ
sản xuất kinh doanh, sản xuất sản phẩm và tiêu thụ nhanh chóng đã làm giảm lượng
hàng tồn kho. Do đó, đã làm cho vòng quay hàng tồn kho tăng và như vậy sẽ làm cho
rủi ro về tài chính của Công ty sẽ giảm. Đồng thời, khi hệ số này tăng lên, thời gian
sản phẩm nằm trong kho ngắn lại sẽ làm giảm chi phí bảo quản, giảm được hao hụt
tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty.
18
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN VLXD THÁI BÌNH
3.1 Những thành tựu về công tác phân tích đã đạt được của Công ty cổ phần
VLXD Thái Bình.
Qua nghiên cứu thực trạng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần VLXD
Thái Bình chúng ta có thể rút ra những kết quả mà Công ty đã đạt được như sau:
- Hoạt động công tác tài chính của Công ty đã sử dụng nhiều nguồn thông tin có
giá trị, từ đó đã đưa ra những nội dung phân tích cơ bản, tuy chưa đầy đủ nhưng nội
dung này dễ hiểu, dễ thực hiện, phục vụ tương đối tốt mục tiêu quản lý tài chính của
Công ty là hoạt động kinh doanh có lãi, đảm bảo tăng trưởng doanh thu và mở rộng
hoạt động.
- Công ty đã thiết lập dược một số mục tiêu phân tích theo yêu cầu của hoạt động
kinh doanh. Các mục tiêu này đã giúp Công ty nắm bắt tình hình tài chính trên hai mặt
chủ yếu là khả năng có lãi và khả năng tài trợ cho các hoạt động của mình. Do đó hoạt
động của Công ty luôn được tài trợ bằng nguồn vốn tương đối ổn định và đảm bảo có
lợi nhuận.
- Về các phương pháp phân tích, Công ty đã sử dụng một số phương pháp cơ bản
như phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ. Những phương pháp này còn được áp
dụng ở mức độ sơ khai, chỉ đủ đưa ra những thông tin phục vụ cho quản lý tài chính ở
mức độ chi tiết mà chưa đem lại một cách đánh giá xác thực tình hình tài chính của
toàn bộ Công ty. Tuy vậy, nó cũng giúp ban lãnh đạo Công ty nắm được những điểm
cơ bản về thực trạng tài chính theo nhu cầu quản lý.
3.2 Những hạn chế và nguyên nhân trong công tác phân tích tài chính của Công
ty cổ phần VLXD Thái Bình
Ngoài những thành tựu đạt được trên, công tác phân tích tài chính của Công ty
còn có những hạn chế nhất định và nguyên nhân của hạn chế.
* Những hạn chế:
Nhược điểm lớn nhất đối với công tác phân tích của Công ty cổ phần VLXD
Thái Bình là Công ty chưa coi công tác phân tích tài chính như một hoạt động chính
thức, mang ý nghĩa cung cấp thông tin phục vụ quản lý và hơn nữa còn có thể định
hướng cho hoạt động kinh doanh của Công ty cả trước mắt cũng như lâu dài. Chính vì
vậy, việc phân tích tài chính của Công ty còn mang tính cảm tính. Các mục tiêu chưa
19
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
được xây dựng một cách đầy đủ, do đó ban lãnh đạo Công ty chưa nhận thức được tất
cả những vấn đề nảy sinh trong hoạt động tài chính của Công ty.
Những nội dung phân tích tài chính chưa đầy đủ và toàn diện, do đó việc đánh
giá tình hình tài chính còn mang tính phiến diện. Đặc biệt, vấn đề quản lý vốn lưu
động nói chung và hiệu quả sử dụng vốn chưa được đề cập một cách chi tiết trong nội
dung phân tích tài chính của Công ty. Điều đó thể hiện trên những khía cạnh sau:
+ Công ty chưa thực hiện phân tích một số nội dung như: phân tích diễn biến
nguồn và sử dụng vốn, phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh
doanh, dự đoán nhu cầu tài chính.
+ Công ty chưa quan tâm nhiều đến việc phân tích nguồn tài trợ cho hoạt động
kinh doanh qua việc xác định các khoản mục thanh toán của khách hàng và nguồn vốn
vay ngân hàng, từ đó có thể thấy rằng Công ty chưa kết hợp hài hoà việc phân tích lợi
nhuận và nguồn tài trợ.
+ Thực tế cho thấy khi càng mở rộng hoạt động (tăng trưởng doanh thu), doanh
nghiệp lại càng phải cần quản lý chặt chẽ những khoản công nợ phải thu, phải trả. Tuy
nhiên đối với Công ty cổ phần VLXD Thái Bình, việc phân tích mức tăng trưởng
doanh thu chưa đi đôi với việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ các khoản công nợ.
+ Việc phân tích khả năng thanh toán của Công ty chỉ chú trọng tới các khoản
đến hạn vay nợ ngân hàng. Còn các khoản khác, Công ty chưa quan tâm một cách
đúng mức. Việc thanh toán của Công ty dựa trên giả thiết thu được những khoản phải
thu đúng hạn. Do vậy,những đánh giá về khả năng thanh toán của Công ty chưa thực
sự chính xác.
Các phương pháp phân tích tài chính của Công ty còn đơn giản, chưa tạo ra
một công cụ mạnh để đánh giá hoạt động tài chính. Một số phương pháp phân tích các
chi tiêu vận dụng chưa chính xác. Để phân tích khả năng thanh toán trên cơ sở các số
liệu của báo cáo tài chính, Công ty sử dụng các tỷ lệ khả năng thanh toán ngắn hạn và
hệ số thanh toán nhanh.Các chỉ tiêu trên mang tính thời điểm, nghĩa là có thể thường
xuyên thay đổi. Đối với Công ty hoạt động có tính thời vụ cần phải tính các hệ số có
khả năng thanh toán trên cả hai thời điểm: khi hoạt động bình thường và khi vào thời
vụ hoạt động. Tuy vậy việc phân chỉ tiêu trên ở Công ty cổ phần VLXD Thái Bình chỉ
vào một thời điểm duy nhất là cuối năm tài chính. Do vậy chưa thể nắm bắt khả năng
thanh toán và diễn bién của nó trong một kỳ hoạt động tài chính.Như vậy, các phương
20
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
pháp phân tích mà Công ty tiến hành còn rất đơn giản sơ khai, do vậy chưa có khả
năng đưa ra được nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân sâu xa của thực trạng tình hình tài
chính doanh nghiệp.
Nguồn thông tin được sử dụng trong phân tích chưa đầy đủ. Các báo cáo tài
ciisnh chỉ được đưa ra phân tích vào thời điểm cuối năm tài chính. Còn báo cáo được
đưa ra phân tích hàng tháng và quý mang nặng ý nghĩa của báo cáo kết quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do vậy, thông tin để phân tích chưa đề cập đến các khoản
công nợ, hàng tồn kho còng như các khoản tài trợ cho các tài sản của Công ty.
* Các nguyên nhân:
Nguyên nhân chủ quan: Chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác phân tích
tài chính. Đội ngũ cán bộ kế toán đa số là trẻ, có kiến thức và nắm vững chế độ kế toán
của nhà nước nhưng còn thiếu kinh nghiệm, chưa nắm vững phương thức lập báo cáo
phân tích tài chính. Việc phân tích tài chính của Công ty chủ yếu do các nhân viên của
phòng kế toán làm với sự hướng dẫn của kế toán trưởng. Tuy nhiên, bản thân lãnh đạo
Công ty cũng chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác phân tích tài
chính doanh nghiệp. Do đó công tác phân tích tài chính nội bộ trong Công ty chưa
được chú trọng. Điều đó đã hạn chế rất nhiều đến hiệu quả của công tác phân tích tài
chính với ý nghĩa là phục vụ công tác quản lý tài chính và quản lý hoạt động kinh
doanh của Công ty.
Nguyên nhân khách quan: Chế độ kế toán và tài chính nhà nước áp dụng với
các doanh nghiệp hiện nay cũng có nhiều điểm bất cập. Điều đó được thể hiện trên
những điểm sau:
+ Bảng cân đối kế toán là báo cáo chính tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị tài sản
và các nguồn vốn tại một thời điểm. Bản thân số liệu phản ánh của nó hoàn toàn phụ
thuộc vào các nguyên tắc hạch toán kế toán. Vì vậy giá trị hiện hành của toàn bộ tài
sản không phản ánh đúng thực tế . Bảng cân đối kế toán chưa phản ánh đầy đủ các tài
sản, các khoản mục có giá trị tài chính trên thực tế như: nguồn nhân lực, kỹ năng quản
lý, chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp…
+ Do việc thực hiện pháp lệnh kế toán ở Việt Nam chưa nghiêm nên tài liệu kệ
toán tài chính thiếu tính trung thực và độ chính xác chưa cao. Vì vậy dẫn đến phân tích
tài chính thiếu tính thuyết phục.
21
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Ngoài ra còn một nguyên nhân khách quan khá quan trọng đó là các thông tin về
ngành chưa được thống kê thường xuyên và chưa được đưa vào so sánh khi Công ty
tiến hành phân tích tài chính.
IV. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH Ở
CÔNG TY CỔ PHẦN VLXD THÁI BÌNH.
Để đưa ra giải pháp hoàn thiện đối với công tác phân tích tài chính của một
doanh nghiệp, cần phải xem xét đánh giá mối quan hệ giữa công tác phân tích tài chính
doanh nghiệp với đặc điểm hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đặc điểm hoạt động
tài chính của doanh nghiệp là cơ sở đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Thực trạng đó tốt hay xấu phụ thuộc vào công tác quản lý tài chính của những người
có trách nhiệm. Mà để thực hiện quản lý tài chính tốt lại phụ thuộc vào công tác phân
tích tài chính. Do vậy, cần xuất phát từ thực trạng hoạt động tài chính để đưa ra những
nội dung, mục tiêu và phương pháp phân tích phù hợp.
Ta sẽ thấy rõ điều này qua những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích
tài chính ở Công ty cổ phần VLXD Thái Bình.
4.1. Hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ phân tích tài chính
Nhằm đạt hiệu quả cao trong phân tích tài chính, các thông tin phục vụ cho nó
cần phải đầy đủ, kịp thời và chính xác. Để thực hiện được điều kiện này, Công ty cổ
phần VLXD Thái Bình phải hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ phân tích. Với đặc
điểm của Công ty diễn ra trên phạm vi khá rộng, bao gồm nhiều đầu mối tiêu thụ hàng
hoá, việc thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ, toàn diện là cần thiết nhưng sẽ gặp
khó khăn trong thu thập thông tin. Tuy nhiên Công ty có thể thực hiện tổng hợp và
phân tích thông tin tài chính theo từng tháng. Theo đó, Công ty có thể nắm bắt được
diễn biến tiêu thụ hàng hoá, diễn biến việc sử dụng các nguồn vốn mà Công ty cung
cấp cho các chi nhánh và đại lý. Bên cạnh đó, Công ty cũng có thể nắm bắt được tình
hình công nợ, các khoản phải thu, phải trả, để từ đó có kế hoạch thu, chi cho từng chi
nhánh, đơn vị trực thuộc.
Trên thực tế, việc phân tích tài chính doanh nghiệp phải dựa trên báo cáo tài
chính, trong đó bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan trọng. Tuy nhiên, với đặc
diểm hoạt động của Công ty là sản xuất kinh doanh, các khoản mục cần tập trung chủ
yếu vào các khoản mục công nợ phải thu, phải trả, Công ty có thể hoàn toàn tập hợp
được các số liệu này từ các đơn vị trực thuộc theo định kỳ hàng tháng. Việc phân tích
22
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
tình hình tài chính từng tháng chắc chắn sẽ giúp ban lãnh đạo Công ty có căn cứ để
điều hành hoạt động tài chính, hoạt động kinh doanh của mình.
4.2. Đào tạo cán bộ chuyên trách công tác phân tích tài chính
Đội ngũ kế toán của Công ty chủ yếu là trẻ còn thiếu kinh nghiệm và chưa thực
sự tiếp cận được với công tác phân tích tài chính của công ty. Do đó công tác phân tích
tài chính không được thực hiện thường xuyên dẫn đến có những quyết định về tài
chính đưa ra không bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như không phù hợp
với thực trạng kinh tế của Công ty.
Hiện nay Công ty chưa có cán bộ chuyên trách phân tích tài chính , việc phân tích
tài chính chủ yếu được thực hiện bằng việc thuê các công ty kiểm toán . Đội ngũ kế
toán của Công ty hầu hết chỉ làm công việc là thu thập số liệu, tổng hợp, tính toán kết
quả và thực hiện các nghiệp vụ kế toán đơn giản. Do đó muốn cải thiện tình hình Ban
lãnh đạo của Công ty cần trao công việc phân tích tài chính cho một người chuyên trách
hoặc có thể kiêm nhiệm như kế toán hoặc chánh văn phòng. Bên cạnh đó cũng cần cho
các cán bộ này tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ tài chính để thường xuyên được
nâng cấp trình độ. Các khoá đào tạo này có thể do các công ty tư vấn tài chính hoặc các
trung tâm đào tạo tổ chức. Một hình thức đào tạo khác cũng hết sức quan trọng là “đào
tạo trong công việc” thông qua việc trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau giữa cán bộ
của các công ty trong cùng một tập đoàn nhưng ở các khu vực khác nhau.
4.3.Hoàn thiện các nội dung phân tích tài chính
Qua nghiên cứu, Công ty tuy đã sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính cơ bản
tương đối đầy đủ, phù hợp với ngành nghề sản xuất và mục đích công tác phân tích
của công ty.
Để đảm bảo đánh giá thực trạng tài chính, Công ty cần hoàn thiện nội dung phân
tích theo các hướng chủ yếu là:
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty.
Hiện nay các số liệu mà Công ty sử dụng đều là các số liệu cuối kỳ trong khi so
sánh cần các số bình quân do vậy một số chỉ tiêu phân tích cơ bản chưa chính xác, cần
phải chỉnh sửa cho đúng. Cụ thể cần điều chỉnh cách tính các chỉ tiêu hiệu suất sử
dụng tài sản lưu động, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng tài sản, hệ
số sinh lời của tài sản, hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu.
23
Báo cáo thực tế Đặng Thu Trang
Để đảm bảo tính toán các chỉ tiêu này chính xác hơn, các mẫu số trong công thức
tính nên sử dụng các giá trị trung bình năm. Các giá trị trung bình năm này tốt nhất là
trung bình của các thời điểm cuối tháng trong năm, hoặc có thể là trung bình của các
thời điểm cuối năm.
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm
TSLĐ và TSCĐ. Hai loại tài sản này được tài trợ tương ứng bởi hai nguồn vốn ngắn
hạn và vốn dài hạn. Công ty mới chỉ chú trọng phân tích kết cấu, quy mô, hiệu quả của
nguồn vốn, của tài sản mà chưa phân tích nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong
khi từ việc nghiên cứu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cho phép doanh nghiệp
đưa ra các giải pháp phù hợp để đảm bảo nguồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh đảm
bảo sự lành mạnh về tài chính doanh nghiệp như Tăng cường vay vốn dài hạn; Giải
phóng hàng tồn kho, tăng thu từ khách hàng để trả nợ ngắn hạn; Giảm đầu tư dài hạn.
Vì vậy Công ty cần bổ sung thêm vào công tác phân tích tài chính của mình.
- Phân tích chi tiết các khoản mục của nguồn vốn và sử dụng vốn, nhất là vốn lưu
động. Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu này sẽ biết được doanh
nghiệp có đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hay không? TSCĐ của doanh nghiệp có
được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không? Do vậy khi phân
tích Công ty cần phải phân tích kỹ hơn khoản mục vốn lưu động.
Khi doanh nghiệp phân tích các chỉ tiêu này doanh nghiệp sẽ có cái nhìn chính
xác hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cần quan tâm
đến việc phân tích các nhóm chỉ tiêu đặc trưng tài chính doanh nghiệp.
24