Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2011-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.61 KB, 59 trang )

Chuyên đề thực tập
MỤC LỤC
2006 42
2007 42
2008 42
2009 42
2010 42
Nông nghiệp 42
Tỷ đồng 42
4261,2 42
3989,8 42
4419,2 42
4551,7 42
4688,3 42
Lâm nghiệp 42
Tỷ đồng 42
358,8 42
363,7 42
371,8 42
379,2 42
386,8 42
Thủy sản 42
Tỷ đồng 42
615,8 42
655,1 42
705,2 42
754,9 42
807,7 42
4261,2 44
3989,8 44
4419,2 44


4551,7 44
4688,3 44

Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
Chuyên đề thực tập
Lời nói đầu
Trước hết, nông nghiệp là ngành cung cấp các sản phẩm thiết yếu như lương
thực, thực phẩm- nhu cầu thiết yếu cho con người. Đối với mỗi con người, để tồn tại
và phát triển được thì điều đầu tiên và không thể thiếu được là phải ăn, sau đó mới có
thể nói đến các hoạt động khác. Điều này cho ta thấy rõ được vai trò to lớn của nông
nghiệp trong việc duy trì sự sống của con người, duy trì các hoạt động trong xã hội,
nâng cao mức sống của người dân, góp phần đảm bảo sự ổn định an ninh, chính trị, xã
hội của đất nước. Chính vì vậy, vấn đề an ninh lương thực đều được các quốc gia quan
tâm một cách nghiêm túc.Thực tiễn lịch sử các nước trên thế giới đã chứng minh chỉ
có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh
lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định về chính trị
và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển, từ đó sẽ làm cho các nhà
kinh doanh không yên tâm bỏ vốn vào đầu tư dài hạn
Như vậy đối với một tỉnh nông nghiệp như Thanh Hóa, bên cạnh việc chú ý
phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ , phát triển nông nghiệp vẫn là ưu tiên số
một trong quá trình phát kinh tế xã hội của mình. Do vậy đầu tư sẽ là nhân tố cực kì
quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh ngành nông nghiệp . Vì thế ,có thể nói trong
thời gian vừa qua ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa nhờ có sự đầu tư mạnh mẽ của
nhà nước ,của toàn tỉnh nên có sự phát triển vượt bậc. Bởi vì đầu tư không những tạo
ra cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông nghiệp mà còn giúp nông nghiệp có những giống
mới ,những phương tiện sản xuất mới tiên tiến và các phương thức sản xuât mới.
Nghiên cứu về đầu tư và tìm ra những giải pháp để thu hút vốn đầu tư ,nâng cao hiệu
quả đầu tư là một trong những vấn đề trọng tâm của tỉnh Thanh Hóa và luôn được
quan tâm chú ý. Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình đầu tư nông nghiệp Tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn 2006-2010, về những phương hướng và giải pháp cho đầu tư cho

giai đoạn 2011-2015 định hướng 2020, cũng như muốn đóng góp một phần vào công
cuộc đầu tư ngành nông nghiệp ; em quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “ Giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn Tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn 2011-2015”
Nội dung chính gồm các phần chủ yếu:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển nông nghiệp và nông
thôn .Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp
và nông thôn trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2006-2010.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp và nông
thôn trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2011-2015.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
1
Chuyên đề thực tập
Do trình độ còn hạn chế cũng như tài liệu thu thập còn chưa đầy đủ nên trong
quá trình viết bài sẽ không tránh khỏi những thiếu xót hạn chế .Em mong nhận được
sự góp ý của thầy cô để giúp em hoàn thiện hơn nữa
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thị Nhiệm đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình hoàn thiện đề tài

Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
2
Chuyên đề thực tập
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển nông
nghiệp và nông thôn .
I.Khái quát chung về đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn.
1.Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp và nông thôn.
1.1.Khái niệm về nông nghiêp và nông thôn.
Con người sinh ra trên đời không thể không ăn mà vẫn có thể tồn tại và phát
triển được,cho nên nhu cầu về lương thực thực phẩm là nhu cầu cấp thiết của loài
người. Muốn có lương thực và thực phẩm phải hình thành và phát triển ngành nông

nghiệp.Do vậy mà nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm trong đời sống loài người. Trong
suốt một thời gian dài lịch sử nhân loại, ở phương Đông cũng như phương Tây,nông
nghiệp là một ngành cực kì quan trọng, không một ngành nào có thể sánh được. Ngày
nay, nông nghiệp không còn có được vị trí như trước nữa và cũng là ngành có trình độ
phát triển thấp kém hơn so với các ngành khác trong nền kinh tế vì vậy phát triển nền
nông nghiệp mạnh vẫn là đòi hỏi thiết yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm nông - lâm- ngư nghiệp, phát
triển nông nghiệp cũng có nghĩa là phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Ngoài ra phát
triển nông nghiệp còn gắn liền với phát triển nông thôn và nâng cao các điều kiện sinh
hoạt ở nông thôn. Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hai nghành
trồng trọt và chăn nuôi.
Việt Nam chúng ta là một nông nghiệp lâu đời với truyền thống hàng nghìn
năm trồng lúa nước .Có thể nói nước ta có nhiều điều kiện về tự nhiên và con người
rất thuân lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh Tuy rằng, nông
nghiệp chiếm một vị trí ngày càng thấp kém trong nền kinh tế nhưng trong giai đoạn
này nó vẫn là một ngành kinh tế quan trọng , góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước, cải thiện đời sống nhân dân Phát triển nông
nghiệp là yêu cầu cấp thiết của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước
Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nông
dân.Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
trong một số thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác,phân
biệt với đô thị.Phát triển nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền
vững về kinh tế,văn hóa, xã hội, và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của
dân cư nông thôn.Quá trình này, trước hết chính là do người dân nông thôn với sự hỗ
trợ của nhà nước và các tổ chức khác.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
3
Chuyên đề thực tập
1.2.Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp.

Nông nghiệp có lịch sử phát triển từ lâu đời,các hoạt động nông nghiệp đã có từ
ngàn năm nay nên nền kinh tế nông nghiệp thường được nói đến như một nền kinh tế
truyền thống.Ngày nay.mặc dù với những tiến bộ của khoa học-kỹ thuật,con người đã
sản xuất được những máy móc hiện đại,nhưng người nông dân vẩn thường áp dụng
những kỹ thuật đã phát triển từ ngàn năm trước,thậm trí hàng trăm nghìn năm để trồng
trọt.Vì thế rất khó thay đổi xã hội nông thôn.
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người.Lương
thực là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra.Con người có thể sống mà
không cần sắt,thép,than,điện,nhưng không thể thiếu lương thực.Trên thực tế phần lớn
các sản phẩm chế tạo có thể thay thế,nhưng không có sản phẩm nào thay thế được
lương thực.Từ đó cho thấy nông nghiệp là rất quan trọng.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu.Đây là một đặc điểm cực kì quan trọng và
khác biệt của nông nghiệp. Trong nông nghiệp, đặt biệt trong trồng trọt thì đất là một
yếu tố sản xuất không thể thiếu được, đất vừa là nơi sản xuất cũng chính là yếu tố
quyết định cho sự sinh tồn của cây trồng , như vậy đất là không thể thiếu cho nông
nghiệp. Cùng với các yếu tố khác như sự chăm sóc của con người, tưới tiêu và thời
tiết, chất lượng đất đai có ảnh hưởng mạnh tới năng suất chất lượng sản phẩm nông
nghiệp và thành quả lao động của người nông dân, Vì thế , muốn nông nghiệp đạt kết
quả cao thì phải có những biện pháp tác động và đất đai.Tuy nhiên đất là do tự nhiên
tạo ra cho nên ta không thể thay đổi hoàn toàn những điều kiện của đất. Do đặc điểm
này mà mức độ tác động của con người trong sản xuất nông nghiệp là rất hạn chế, mức
độ áp dụng tiến bộ khoa học cũng không thật nhiều nên nông nghiệp là ngành có tốc
độ phát triển không cao và nhanh như các ngành kinh tế khác.Tuy vậy, đối với một số
lĩnh vực chăn nuôi đất đai cũng chỉ là mặt bằng để tiến hành sản xuất như các ngành
kinh tế khác và nó không chịu nhiều ảnh hưởng của đất.
Nông nghiệp là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng mạnh của các điều kiện tự
nhiên.Do vậy mỗi sự thay đổi nhỏ của tự nhiên đều ảnh hưởng tới nông nghiệp; đối
với các ngành kinh tế khác, thì mức độ phụ thuộc này là không lớn; như công
nghiệp,thì dù trời có đổ mưa hay có gió lớn thì người ta vẫn tiến hành sản xuất bình
thường và sự thay dổi trong kế hoạch sản xuất là không đáng kể. Nhưng đối với ngành

nông nghiệp thì khác hẳn, mọi sự thay đổi đều có ảnh hưởng, như đất tốt hay xấu đều
ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm. Nếu thời tiết tốt, phù hợp với yêu cầu ,
chúng ta đạt được một vụ mùa bội thu còn nếu thời tiết xấu thì ngược lại. Vì vậy trong
nông nghiệp chúng ta cần hạn chế các ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc phải có
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
4
Chuyên đề thực tập
những biện pháp khai thác tự nhiên tốt nhất thì chúng ta với thu được các kết quả cao
và giúp cho sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.Bởi lẽ đối với những loại cây trồng
vật nuôi trong nông nghiệp ,chúng không thể phát triển quanh năm mà chúng cần có
một thời gian phù hợp nhất định trong năm để sinh trưởng và phát triển tốt. Mặt
khác,do trong nông nghiệp thời gian lao động không hoàn toàn ăn khớp với thời gian
sản xuất . Những đặc điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ . Để
khắc phục được tình trạng này thì chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở hạ
tầng thuận tiện, hiện đại và phù hợp để có thể phục vụ tốt nhất cho công cuộc sản xuất
.Dựa trên việc nghiên cứu các đặc điểm trên của ngành nông nghiệp , chúng ta sẽ có
những ý tưởng , những sáng kiến trong việc lập kế hoạch sản xuất, tiến hành đầu tư và
có những biện pháp cần thiết cho phát triển sản xuất nông nghiệp.
1.3.Đặc điểm của nông thôn.
Nơi định cư của những người sống chủ yếu bằng nghề nông,một số ít phi nông
nghiệp, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội thấp, dân trí thấp hơn thành thị.
Đa dạng về điều kiện tự nhiên,môi trường sinh thái bao gồm các tài nguyên
đất,nước,khí hậu,rừng,sông suối,ao hồ,khoáng sản,hệ động thực vật.
Nông thôn lưu giữ và bảo tồn nhiều di sản văn hóa quốc gia như phong tục tập
quán cổ truyền về đời sống,lễ hội, sản xuất nông nghiệp và ngành nghề chuyền
thống,các di tích lịch sử,văn hóa,các danh lam thắng cảnh…Đây chính là nơi chứa
đựng kho tàn văn hóa dân tộc đồng thời là khu vực giả trí và du lịch sinh thái phong
phú và hấp dẩn đối với mọi người.
1.4.Vai trò của nông nghiệp và nông thôn với phát triển kinh tế

Chưa khi nào trong lịch sử loài người mà nông nghiệp lại không được coi trọng.
Thế giới dù có hiện đại , dù có phát triển đến mấy thì nông nghiệp vẫn giữ những vị trí
hết sức then chốt và cực kì quan trọng.Sở dĩ nông nghiệp có được vị trí như vậy vì
ngành này có những vai trò sau:
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực thực phẩm duy nhất cho
cả xã hội loài người. Đây là vai trò nổi bật của nông nghiệp.Với vai trò này nông
nghiệp quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Khi mỗi con gnười
được sinh ra trên đời thì họ không thể không ăn mà có thể lao động, học tập và cống
hiến tài năng của mình cho xã hội. Bởi vì có ăn , chúng ta mới có thể có đủ năng lượng
cung cấp cho cơ thể hoạt động. Xã hội phát triển càng cao , càng văn minh thì đòi hỏi
của con người về lương thực và thực phẩm ngày cao về lượng và đặc biệt là về chất.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
5
Chuyên đề thực tập
Muốn vậy ,đòi hỏi ngành nông nghiệp phải không ngừng đầu tư phát triển để nâng cao
năng xuất lao động trong sản xuất nông nghiệp và chất lượng của nông sản.
Thứ hai, đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển
thì nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm
và tạo thu nhập cho người dân. Như ở Việt Nam, hiện nay vẫn có tới khoảng 70% dân
số sống ở nông thôn và cũng một tỉ lệ tương tự làm việc trong ngành nông nghiệp. Tuy
nhiên ,lực lượng lao động trong nông nghiệp này có trình độ còn thấp kém và mức thu
nhập của họ cũng rất thấp.Nhưng trong tương lai đây là lượng lao động chủ yếu cho
nền kinh tế . Vì vậy ,để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nói chung ,cũng như giúp cho
nông nghiệp nói riêng thì chúng ta cần có những chính sách về giáo dục và đào tạo
nhằm đào tạo nghề và nâng cao trình độ cho người nông dân.Với một lượng lớn dân số
sống ở các vùng nông thôn và làm việc trong ngành nông nghiệp nên những đối tượng
này sẽ là lực lượng tiêu dùng rất lớn cho nền kinh tế .Đây là một thị trường tiêu thụ
tiềm năng cho các nhà sản xuất trong nước.Khai thác và sử dụng hiệu quả thị trường
này sẽ giúp cho các nhà sản xuất thu lợi nhuận tăng cường thị trường của mình và
đồng thời góp phần tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước.

Thứ ba , nông nghiệp còn có vai trò khá quan trọng đối với một số ngành kinh
tế khác như công nghiệp chế biến. Có thể nói ngành công nghiệp chế biến nông sản
phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Bởi nông nghiệp là ngành kinh tế cung cấp đầu
vào cho sản xuất công nghiệp chế biến.Trong các nước đang phát triển thì ngành công
nghiệp chế biến chiếm một vai trò khá quan trọng, nó là lĩnh vực thúc đẩy phát triển
kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Để
ngành này muốn hoạt động tốt thì đòi hỏi ngành nông nghiệp phải phát triển ổn định
và thường xuyên cung cấp các đầu vào rẻ và có chất lượng cao. Như vậy nông nghiệp
qui định sự phát triển ngành công nghiệp chế biến. Ngoài ra một số nông sản còn là
những đặc sản trong hoạt động du lịch và dịch vụ ăn uống nhằm thu hút khách hàng,
nên nông nghiệp cũng là nhân tố thúc đẩy du lịch
Thứ tư, đối với các nước đang phát triển , nông nghiệp đóng vai trò cực kì quan
trọng, góp một tỷ lệ lớn vào giá trị hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước
đồng thời cũng chiếm một vị trí khá cao trong GDP của đất nước. Như ở Việt Nam,
xuất khẩu hàng nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản thu được hàng tỷ Đôlla,
chiếm một tỉ lệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu; các mặt hàng như gạo , cà phê có giá
trị xuất khẩu lớn.Do vậy mà chúng ta cần tăng cường hơn nữa xuất khẩu loại hàng hoá
này để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và đất nước. Tuy nhiên , các sản phẩm xuất
khẩu lại chủ yếu dưới dạng thô, do vậy giá trị hàng hoá rất thấp ,rất bất lợi cho người
nông dân. Thêm vào nữa là nông nghiệp chiếm tỷ lệ khoảng hơn 30% GDP của các
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
6
Chuyên đề thực tập
nước đang phát triển, đây là một tỷ lệ khá cao và cho thấy nông nghiệp có ảnh hưởng
mạnh tới sự tăng trưởng kinh tế của các nước này. Tuy nhiên đây là một dấu hiệu
không đáng mừng , bởi lẽ một đất nướcđược coi có nền kinh tế phát triển và hiện đại
khi có tỷ lệ nông nghiệp trong GDP là thấp ( khoảng dưới 15 % ). Vì thế các nước này
cần có những biện pháp đầu tư ,một mặt vẫn giúp cho nông nghiệp có tốc độ tăng
trưởng cao nhưng mặt khác phải nâng cao tỷ trọng trong GDP của các ngành công
nghiệp và dịch vụ.

Thứ năm , nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò như một nhân tố tạo vốn,
lao động và thị trường cho thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở
các nước đang phát triển. Một nước chỉ có thể tiến hành thành công công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước khi có đủ vốn và các nguồn lực. Trong giai đoạn
đầu này, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa phát triển, thì nông nghiệp với ưu thế là
ngành truyền thống sẽ tạo được một khối lượng lớn nông sản có giá trị cao và có thể
xuất khẩu ;từ đó tạo ra một nguồn vốn khá lớn cho ngành công nghiệp. Nông nghiệp
cũng là ngành cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến. Với lực lượng lao động
đông đảo trong ngành nông nghiệp sẽ là những công nhân với trình độ tay nghề khá
cao ( nếu được chú ý đào tạo và bồi dưỡng hợp lí ) có sự cần cù chăm chỉ ,giá nhân
công lại rẻ , điều này sẽ tạo thuận lợi lớn cho ngành công nghiệp phát triển. Như vậy
nông nghiệp là ngành kinh tế tạo những tiền đề , cơ sở ban đầu cho sự công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, nông nghiệp đối với những nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng vẫn là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội . Đầu tư phát
triển ngành nông nghiệp là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế đất nước hiện nay.
2.Khái niệm về đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
2.1.Khái niệm về đầu tư phát triển.
Xét trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu
được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai
Xét trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu
tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Khái niệm trình bày ở trên về đầu tư được xem xét ở hai khía cạnh khác nhau, do vậy
rất khó cho việc nghiên cứu và hiểu chính xác về nó . Chính vì vậy, các nhà kinh tế đã
đưa ra khái niệm trung nhất về đầu tư.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
7
Chuyên đề thực tập
Đầu tư : là sự bỏ vốn ra cùng với các nguồn lực khác( như tiền của, sức lao
động, trí tuệ ) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra hay khai

thác sử dụng một tài sản nào đó ngằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
*Khái niệm đầu tư phát triển:
Trong đầu tư thì người ta lại chia thành các loại đầu tư cụ thể như sau:
Đầu tư thương mại
Đầu tư tài chính
Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ vốn ra để tiến hành
các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh
doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao
đời sống của người dân trong xã hội.
*Khái niệm vốn đầu tư:
Trong đầu tư người ta cũng hay đề cập đến một thuật ngữ là vốn đầu tư, đây chính là
yếu tố quyết định tính chất qui mô của dự án.
Dưới hình thái tiền tệ : Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội ,của các cơ
sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ; là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn
khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì các tiềm
lực sẵn có vào tạo ra những tiềm lực mới cho nền kinh tế.
Dưới hình thái vật chất : Vốn đầu tư bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà
xưởng ,các công trình hạ tầng cơ sở, các loại nguyên liệu ,vật liệu,các sản phẩm trung
gian khác
Vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được của các công cuộc đầu tư.Trong nền kinh tế
phát triển , vai trò của vốn đầu tư là tối quan trọng, nó góp phần tạo sự phát triển mạnh
cho nền kinh tế
Khái niệm hoạt động đầu tư :là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực
sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các tài
sản phục vụ cho quá trình sản xuất
2.2.Khái niệm về đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn là quá trình đầu tư nhằm nâng cao
hiệu quả,nâng cao năng suất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, đồng thời làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo

việc làm và nâng cao đời sống của người dân trong xã hội.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
8
Chuyên đề thực tập
II.Đặc điểm của đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn.
1.Về nguồn vốn đầu tư.
1.1.Đặc điểm chung của nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp,đầu tư trong nông nghiệp và nông thôn có
những đặc điểm sau:
Trong cơ cấu vốn cố định, ngoài tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật còn bao
gồm tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học như cây lâu năm,súc vật làm việc….
Sự tác động của vốn vào sản xuất không phải bằng cách trực tiếp mà phải thông
qua đất,cây trồng, vật nuôi….
Chu kỳ sản xuất dài có tính thời vụ trong nông nghiệp làm cho sự tuần hoàn và
lưu chuyển vốn đầu tư chậm chạp,kéo dài thời gian thu hồi vốn khiến vốn ứ đọng.
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên quá trình sử
dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp gặp nhiều rủi ro.làm tổn thất hoặc làm giảm hiệu
quả sử dụng đất.
Năng suất ruộng đất và lao động còn thấp nên khả năng thu hút vốn là
thấp.Trong khi đó, phải đầu tư vào nhiều lĩnh vực như cơ sở hạ tầng,phân bón,giống…
nên đòi hỏi cần có một lượng vốn lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp.
1.2.Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với nền kinh tế nói chung,nông nghiệp nói
riêng.Vốn sản xuất vận động không ngừng :Từ phạm vi sản xuất đến phạm vi lưu
thông và trở về sản xuất.Vốn trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao
động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp.Để phát triển một
nền kinh tế nông nghiệp bền vững, nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tăng
nông sản xuất khẩu, và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đa dạng hóa nông nghiệp
thì vấn đề đầu tiên mang tính chất quyết định là vốn.
1.2.1.Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.

Vấn đề đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn được nhà nước hết sức quan
tâm.Trước hết cần khẳng định rằng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ ngân
sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình trong quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn.Vốn đầu tư cho nông nghiệp có vao trò to lớn, giúp tăng
cường năng lực sản xuất,chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.Mặt khác,do đặc điểm của
đầu tư trong nông nghiệp là khả năng thu hồi vốn chậm hoặc không có khả năng thu
hồi, rủ ro cao nên không thu hút được các nhà đầu tư vào trong lĩnh vực này.Vốn ngân
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
9
Chuyên đề thực tập
sách đóng vai trò đi tiên phong, mở đường để thu hút các nguồn vốn khác thông qua
các hình thức : tạo ra cơ sở hạ tầng tốt, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp đồng
thời tạo ra các nhà đầu tư cảm giác yên tâm hơn đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn
khi có sự tham gia của nhà nước.
Vốn ngân sách của nhà nước chủ yếu đầu tư vào trong các lĩnh vực như thủy
lợi, chuyên dịch cơ cấu sản xuất, đầu tư vào các công trình trồng rừng, hỗ trợ tiêu thụ
sản phẩm cho nông dân.
1.2.2 Vốn đầu tư của các hộ nông dân.
Cùng với đầu tư của ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của các hộ nông dân cũng
góp phần rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.Nguồn vốn này được
đầu tư để phát triển sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị phụ vụ sản xuất nông nghiệp,
mua phân bón, giống mới…Hiện nay vốn đầu tư của các hộ nông dân được tập trung
vào mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa theo mô hình trang trại với số vốn đầu tư
tương đối lớn.
Tiềm năng của nguồn vốn này là rất to lớn bởi vì nó phụ thuộc lớn vào thu nhập
của các hộ nông dân.Khi năng lực sản xuất tăng, năng suất lao động tăng thì thu nhập
của các hộ nông dân cũng tăng.Thu nhập các hộ nông dân một phần phục vụ đời sống
sinh hoạt hàng ngày một phần để tích lũy.Mặt khác, đầu tư của các hộ nông dân phụ
thuộc phần lớn vào tích kiệm của họ nên khi năng lực sản xuất tăng thì đầu tư của các
hộ nông dân cũng tăng lên

1.2.3. Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã đóng góp tốc độ
và quy mô đầu tư cho nông nghiệp và cho nền kinh tế.Phương thức đầu tư chủ yếu của
các doanh nghiệp là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây trồng vật nuôi,ứng trước vốn cho nông
dân mua vật tư,phân bón để đảm bảo sản xuất.Ngoài ra các doanh nghiệp còn bao tiêu
sản xuất nông nghiệp cho các hộ nông dân, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp là
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến.Nguồn vốn này đã góp phần hỗ trợ
cho phát triển sản xuất nông nghiệp,giải quyết phần nào nhu cầu về vốn cho quá trình
phát triển kinh tế của đất nước.
1.2.4. Vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn thông qua hệ thống ngân hàng.
Ngoài vốn ngân sách,nhà nước còn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn qua hệ
thống ngân hàng như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,ngân hàng vì
người nghèo,ngân hàng thương mại….theo hình thức cho vay không lãi hoặc lãi suất
ưu đãi để bù giá vật tư nông nghiệp và giá bán nông sản hàng hóa cho nông dân.Các
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
10
Chuyên đề thực tập
ngân hàng trên cho các hộ nông dân vay với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất nông
nghiệp, mua phân bón, mua giống mới, mua máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất,
phục vụ cơ sở hạ tầng nông thôn.
Ngoài ra, các ngân hàng này còn cho các doanh nghiệp vay để mua nông sản
của các hộ nông dân với giá trần hợp lý, bù đắp một phần thu thiệt của họ khi giá nông
sản trên thị trường xuống quá thấp.
Các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi trong lĩnh vực trọng điển
hoặc các lĩnh vực được nhà nước khuyến khích.Chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi
suất thông thường của các ngân hàng thương mại được ngân sách nhà nước cấp bù –
đó là vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
1.2.5. Nguồn vốn nước ngoài
Đối với các nước đang phát triển, để phát triển kinh tế,để thoát khỏi nghèo nàn
thì vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn trầm trọng,từ đó sẻ dẩn đến thiếu nhiều thứ

khác như công nghệ, cơ sở hạ tầng, lao động cao…
Nông nghiệp cũng là ngành nằm trong xu thế đó.Để phát triển một nền nông
nghiệp bền vững thì tất yếu phải đầu tư cho nông nghiệp.Tuy nhiên thiếu vốn là vấn đề
nan giải đối với các nước đang phát triển vì vậy con đường phát triển không thể không
huy động nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn FDI chủ yếu tập trung nhiều vào trồng và chế biến cao su,cà phê,chè, mía
đường, chăn nuôi gia súc gia cầm, theo phương pháp công nghiệp với mục đích nâng cao
năng lực sản xuất và chế biến nông, lâm, thủy sản nhằm nâng cao chất lượng thủy sản
theo yêu cầu của thị trường quốc tế.Nguồn này có ý nghĩa rất quan trọng, nhờ công nghệ
tiên tiến tạo ra nhiều sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, hiệu quả kinh tế cao.
Ngoài nguồn vốn FDI còn có các nguồn vốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ
thuật của các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế như ODA, UNDP, PAM,
FAO, ADB, WB, IMF, UNICEF,….đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông
thôn.Nguồn này chủ yếu tập trung vào nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, nước sạch,
vệ sinh môi trường, sức khỏe cộng đồng đặc biệt là sức khỏe phụ nữ và trẻ em.Lợi thế
của nguồn vốn này là cho vay với lãi xuất thấp và thời gian trả nợ dài.
2. Đặc trưng của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp và nông thôn.
Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực hiện
một công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu ảnh huởng
nhiều của các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm ngành nông
nghiệp chi phối. Đầu tiên, khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, do đất đai là tư liệu
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
11
Chuyên đề thực tập
sản xuất chủ yếu nên chúng ta phải nghiên cứu rất kĩ về các điều kiện của đất , chất
lượng và đặc điểm của đất và đặc điểm về địa hình. Bởi vì đất tốt hay xấu ảnh hưởng
rất mạnh tới quá trình thực hiện đầu tư và thành quả thu được. Nếu đất tốt thì cây trồng
phát triển thuận lợi, có xây dựng hạ tầng cơ sở thì cũng giảm chi phí và ngược lại.
Nghiên cứu về đất còn cho chúng ta biết nên trồng loại cây nào, nên nuôi loại động vật
gì, để từ đó có kế hoạch sản xuất.Địa hình cũng có ảnh hưởng tới đầu tư, nếu địa hình

bằng phẳng thì có thể đầu tư nhiều loại cây trồng, vật nuôi thích hợp cho vùng đồng
bằng, đỡ tốn công san lấp và thuận lợi về giao thông do vậy vận chuyển các nông sản
mang ra thị trường nhanh và đảm bảo tươi sống. Khi đầu tư dựa vào điều kiện của địa
hình để có những chính sách đầu tư phù hợp nhất.
Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp cũng
mang tính thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông nghiệp phải
nghiên cứu thời điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư. Bởi vì, trồng trọt và
chăn nuôi không thể tiến hành quanh năm cho nên chọn thời điểm để sản xuất là rất
cần thiết.Do vậy khi đầu tư vào một loại đối tượng nào đó thì ta chỉ có thể bắt đầu đầu
tư tại một thời gian rõ ràng và cố định trong năm, như trồng cây thì thường phải vào
mùa xuân. Tuy nhiên , với trình độ khoa học phát triển chúng ta có thể đầu tư đa dạng
và với khoảng thời gian rộng hơn.
Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một lượng vốn
đầu tư khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn nhiều so với các
ngành , lĩnh vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng( như hệ
thống thuỷ lợi ) hay khoa học công nghệ thì lượng vốn đầu tư thất không nhỏ chút nào. Ví
dụ như để phát hiện ra một loại giống mới cho sản xuất nông nghiệp thì lượng vốn bỏ ra
và số nhà khoa học cần cho nghiên cứu không thua kém để cho một sản phẩm công
nghiệp mới ra đời. Hoặc chi phí để xây một hệ thống thuỷ lợi cũng không kém việc xây
dựng một nhà máy hay một khách sạn du lịch. Vì vậy mà khi đầu tư , đỏi hỏi các nhà đầu
tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn và kịp tiến độ.
Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông
nghiệp. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những rủi ro
chung của các công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực mạnh của những
biến đổi tự nhiên xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế những loại rủi ro này là rất
khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của đầu tư là tỷ suất lợi nhuận
của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp rất thấp thường chỉ vài phần trăm một năm
trong khi các ngành khác đạt hơn 10 % , do nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng không
cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi vốn cũng rất lâu. Còn một số công trình đầu tư trong
nông là hoà vốn, thậm chí nhiều công trình không thu đủ số vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.

Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
12
Chuyên đề thực tập
Tóm lại , hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì
những nét này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư vào
ngành nồng nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông nghiệp phát
triển thì đòi hỏi chính phủ mỗi nước phải có những chính sách khuyến khích , hỗ trợ
đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư và bản thân nhà nước phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ
tầng cơ sở.
3.Các hình thức đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Vốn đầu tư là vấn đề then chốt để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Vì vậy, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp là một yêu cầu khách quan. Yêu cầu đó là:
Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, các cơ sở nghiên cứu và thực nghiệm khoa học
kỹ thuật, đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao dân trí Động lực của sự
tăng trưởng kinh tế là lợi ích vật chất. Và lợi ích vật chất không chỉ được tạo ra trong
ngành trồng trọt, chăn nuôi (nông nghiệp thuần tuý), mà quan trọng hơn là được tạo ra
từ lâm nghiệp, thuỷ sản (nông nghiệp mở rộng có gắn với đất đai) và công nghiệp,
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống trên địa bàn nông thôn. Bởi vậy, ở bất cứ một
quốc gia nào, khi nói đến đầu tư cho nông nghiệp thì phải nói đến đầu tư cho nông
thôn nói chung, trước hết là các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, sản
xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa nhà ở, chế tạo và sửa chữa nhỏ máy móc, công cụ
tiểu thủ công nghiệp, các dịch vụ cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm nông thôn, dịch
vụ y tế, bảo vệ sức khoẻ, đi lại, học hành, giải trí, thông tin liên lạc Ngày nay, không
nước nào tách nông nghiệp ra khỏi nông thôn và vì vậy đầu tư cho nông nghiệp cũng
gắn với đầu tư thông qua các hình thức khác như hướng dẫn miễn phí về kỹ thuật sản
xuất, kinh doanh, tổ chức bán vật tư nông nghiệp với giá thấp, bồi dưỡng kinh nghiệm
sản xuất và hỗ trợ một phẩn vốn đầu tư ban đầu để nông dân nghèo có tiền tự đi lên
Cụ thể như sau:
3.1. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố cơ bản cho sự phát triển của một quốc

gia trong đó có Việt Nam, nó giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: đầu tư cho thuỷ lợi,
hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, hệ thống thông tin liên lạc, kho
tàng,bến bãi, chợ,hệ thống cung cấp nước sạch
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là đầu tư có tác động kép, nó không chỉ là động lực để
chuyển dịch cơ cấu nông thôn mà còn kéo theo sự thu hút đầu tư vào khu vực này. Cơ
sở hạ tầng càng hoàn thiện thì quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn và sản
xuất nông nghiệp càng có điều kiện mở rộng và nâng cao hiệu quả bởi vì cơ sở hạ tầng
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
13
Chuyên đề thực tập
tốt không chỉ đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành sản xuất mà còn hạn chế
các rủi ro trong đầu tư. Thực tế cho thấy, những địa phương nào mà cơ sở hạ tầng yếu
kém thì khó thu hút các nhà đầu tư và khi không thu hút được các nhà đầu tư thì khả
năng cải tạo cơ sở hạ tầng càng hạn chế tạo nên một vòng luẩn quẩn là vùng nào cơ sở hạ
tầng yếu kém thì ngày càng tụt hậu tạo nên sự phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn là rất quan trọng nhưng cần lượng vốn lớn. Tuỳ
theo khả năng của ngân sách, nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc nhà nước và nhân dân cùng làm
để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ sản xuất, tạo tiền đề chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong quá trình thực hiện cần kiểm tra, giám sát và có
những biện pháp nhằm quản lý tốt vốn bỏ ra để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
3.2. Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp bao gồm hai bộ phận chính là trồng trọt và chăn nuôi. Vì vậy,
đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp là phải đồng thời đầu tư vào hai lĩnh vực này.
Để sản xuất nông nghiệp phát triển trước hết ta phải quan tâm đến đầu vào của
sản xuất nông nghiệp bao gồm: đất đai, giống, phân bón Muốn vậy, ta phải lựa chọn
giống vật nuôi, cây trồng có năng xuất cao, chống chịu sâu bệnh tốt, thích nghi với các
điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu.
Đối với ngành trồng trọt, giống chỉ là một trong những yếu tố quyết định đến
năng suất cây trồng, ngoài ra, nó còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như đất,

nước, các điều kiện tự nhiên. Vì vậy, đầu tư cho trồng trọt là phải đầu tư cải tạo đất tốt,
đầu tư nghiên cứu giống tốt,đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh, đầu tư mua
phân bón, thuốc trừ sâu Trong lĩnh vực chăn nuôi, để phát triển được cần đầu tư để
mua giống tốt,xây dựng các cơ sở vật chất cần thiết, có chế độ cho ăn phù hợp Tuy
nhiên, nếu chỉ quan tâm đầu vào, coi trọng sản xuất mà xem nhẹ đầu ra thì sản phẩm
sản xuất ra tiêu thụ sẽ gặp khó khăn,sản xuất chậm phát triển. Vì vậy, một trong những
biện pháp thúc đẩy sản xuất phát triển là quan tâm đến đầu ra của sản phẩm,đến thị
trường tiêu thụ của sản phẩm đó.
Một trong những hình thức này là đầu tư qua giá mua vật tư và bán nông sản
của các hộ sản xuất. Các hộ sản xuất được mua vật tư, xăng dầu phục vụ sản xuất với
giá ổn định và thấp và được bán nông sản hàng hoá và sản phẩm ngành nghề dịch vụ ở
nông thôn với giá cao và ổn định. Nhà nước bù lỗ phần chênh lệch giữa giá thị trường
với giá thu mua hoặc giá bán của nhà nước cho hộ sản xuất.
Đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ các nông sản và hàng hoá sản xuất tại địa
bàn nông thôn bao gồm: xây dựng hệ thống chợ nông thôn, tổ chức mạng lưới thu mua
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
14
Chuyên đề thực tập
nông sản từ các hộ sản xuất, xây dựng hệ thống kho tàng dự trữ, bảo quản nông sản
phẩm, quảng cáo và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước.
Thị trường là đầu ra nên càng thông thoáng thì sản xuất càng có điều kiện phát
triển nhanh. Ở các nước đang phát triển thường ít quan tâm đến vấn đề thị trường nên
nông nghiệp vẫn phát triển trong thế không ổn định, tốc độ tăng trưởng thấp trong khi
đó những nước có nền nông nghiệp hàng hoá phát triển nay cũng là những nước biết
đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu và mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản.
3.3 Đầu tư nghiên cứu và triển khai tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Cách mạng khoa học kỹ thuật đã trở thành một yếu tố của lực lượng sản xuất.
Tăng trưởng kinh tế và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp cũng
phải bắt đầu từ khoa học kỹ thuật. Đầu tư cho khoa học kỹ thuật là phương hướng đầu
tư sớm đem lại hiệu quả nhất trong trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên, yếu tố này còn

tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác như cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí và yếu tố thiên
nhiên. Ảnh hưởng của đầu tư cho tăng trưởng kinh tế trước hết được thể hiện ở đầu tư
cho khoa học kỹ thuật. Vì vậy, nâng tỉ trọng đầu tư cho khoa học kỹ thuật trong tổng
số vốn đầu tư cho nông nghiệp là một xu hướng phổ biến ở các nước hiện nay, kể cả
các nước đang phát triển.
Tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp có nội dung rộng lớn, liên quan
đến sự phát triển của tất cả các yếu tố, bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của ngành
này. Nhìn chung, chính phủ các nước đều quan tâm đến đầu tư cho nghiên cứu, triển
khai, mời chuyên gia đến trao đổi kinh nghiệm, nhập nội các giống tốt và quá trình
công nghệ tiên tiến, cử cán bộ đi đào tạo nước ngoài, chi phí tập huấn, chuyển giao
công nghệ đến hộ nông dân, đến đồng ruộng, khuyến nông.
Nội dung chủ yếu bao gồm:
Thuỷ lợi hoá nông nghiệp: là tiến bộ khoa học công nghệ liên quan đến vấn đề
nước của sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn nhằm cải tạo và chinh phục
thiên nhiên trên cơ sở nhận thức quy luật tự nhiên. Đầu tư xây dựng các công trình
thuỷ nông theo các hướng chủ yếu là đầu tư xây dựng phát triển các hệ thống thuỷ
nông mới, đầu tư khôi phục, sửa chữa lớn và nâng cấp các hệ thống thuỷ nông đang
vận hành đã hết hạn sử dụng, đầu tư ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào sản
xuất, trợ giá dịch vụ thuỷ nông trong các trường hợp thiên tai, trợ cấp đầu tư phát triển
thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi nội đồng xã
Cơ giới hoá nông nghiệp: là quá trình thay thế công cụ thủ công thô sơ bằng
công cụ lao động cơ giới, thay thế động lực người, gia súc bằng động lực của máy
móc, thay thế phương pháp sản xuất thủ công, lạc hậu băng phương pháp sản xuất với
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
15
Chuyên đề thực tập
kỹ thuật cao.Để tiến hành cơ giới hoá nông nghiệp cần phải đầu tư mua máy móc,thiết
bị phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, do đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là lao
động thủ công là chính nên cần đầu tư đào tạo lực lượng lao động nông nghiệp để họ
có khả năng sử dụng máy móc thiết bị, công nghệ trong quá trình sản xuất.

Điện khí hoá nông nghiệp, nông thôn:Là một tiến bộ khoa học công nghệ trong
việc sử dụng nguồn điện năng vào các hoạt động sản xuất và phục vụ đời sống nông thôn.
Tiến hành điện khí hóa nông thôn là bên cạnh các sở điện lực do trung ưng quản lý, cần
đầu tư xây dựng các trạm thuỷ điện vừa và nhỏ kết hợp với nhiệt điện, xây dựng mạng
lưới điện nông thôn để phục vụ sản xuất, đời sống sinh hoạt của người dân. Cần giáo dục
cho mọi người ý thức tiết kiệm điện, nắm bắt được tối thiểu về kỹ thuật điện, sử dụng an
toàn điện cho các cơ sở dùng điện ở nông thôn, đặc biệt là hộ nông dân.
Hoá học hoá nông nghiệp: Là quá trình áp dụng những thành tựu của ngành công
nghiệp hoá chất phục vụ cho nông nghiệp bao gồm việc sử dụng các phương tiện hoá học
vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Nội dung của hoá học
hoá là: Bổ xung, tăng cường cung cấp thức ăn cho cây trồng vật nuôi bằng việc sử dụng
các loại phân bón hoá học, thức ăn gia súc có bổ xung các nguyên tố vi lượng, sử dụng
các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, trừ dịch bệnh gia súc, gia cầm Sinh học
hoá nông nghiệp: Là quá trình nghiên cứu và áp dụng những thành tựu về khoa học sinh
vật và khoa học sinh thái vào nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy, cần nghiên cứu, phát hiện và nắm chắc các
quy luật phát sinh và phát triển của cá thể và quần thể để nghiên cứu ra giống vật nuôi cây
trồng phù hợp với quy luật và điều kiện tự nhiên của nước ta.
Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ, chuyên gia giỏi cho lĩnh
vực nông nghiệp với đủ ngành nghề, từ kỹ thuật đến quản lí, có chính sách khoa học
kỹ thuật phù hợp sẽ tạo ra hành lang thu hút các nguồn đầu tư khoa học kỹ thuật vào
nông nghiệp.
2.4 Các hình thức đầu tư khác.
Đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến sản phẩm của nông nghiệp như: Nhà
máy đường, dệt tức là hỗ trợ quá trình tiêu thụ sản phẩm đầu ra của nông nghiệp -
đây là hình thức đầu tư gián tiếp vào nông nghiệp. Ngoài ra, trợ giúp vốn cho nông
dân nghèo là giải pháp tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn. Thực tế cho thấy đầu tư cho hộ nghèo là cần thiết để tăng trưởng
kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội.
Đầu tư vốn của nhà nước để phát triển nông nghiệp và nông thôn được thực

hiện qua chính sách thuế sử dụng đất và thuế doanh thu. Đối với các nước đang phát
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
16
Chuyên đề thực tập
triển, nguồn thu ngân sách chủ yếu vẫn dựa vào thuế nông nghiệp. Chính sách giảm
hoặc miễn thuế nông nghiệp được coi là một khoản đầu tư cho nông nghiệp. Ngoài ra,
nhà nước đầu tư khai hoang và xây dựng cơ sở hạ tầng sau đó chuyển giao cho nông
dân nghèo từ nơi khác đến lập nghiệp là chính sách tạo thêm việc làm, tăng thu nhập
cho nông dân nghèo, phân bố lại dân cư và lao động trên các vùng lãnh thổ làm cho
sản xuất phát triển, rút ngắn chênh lệch giữa các vùng, các hộ nông dân với nhau, sản
phẩm xã hội được tạo ra nhiều hơn.
3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển trong nông nghiệp và nông thôn.
Để xem xét thành quả hay mức độ thành công của các công cuộc đầu tư , của
một ngành của một tỉnh hay của cả nước ; ngoài chỉ tiêu kết quả đầu tư người ta còn
phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đầu tư để tính. Ngành nông nghiệp, do có những đặc
điểm cũng như do đầu tư trong nông nghiệp có các đặc trưng riêng nên trong nông
nghiệp người ta có thể sử dụng những chỉ tiêu hiệu quả sau:
3.1.Chỉ tiêu kinh tế:
3.1.1 Chỉ tiêu :GO tăng thêm/ Vốn đầu tư và GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư
Trong đó :+ GO: giá trị sản xuất
+ GDP : tổng sản phẩm
+ Vốn đầu tư : là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án đầu tư
hay của cả một tỉnh, một nước trong một năm hoặc một thời kì nhất định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì tạo ra bao nhiêu giá trị hàng hoá và
dịnh vụ. Chỉ tiêu này, càng cao thì chứng tỏ công cuộc đầu tư càng thành công. Trong
các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp thì đây là chỉ tiêu dễ tính nhất cũng
như đơn giản nhất bởi lẽ các số liệu thu thập về GO ,GDP cũng như về vốn đầu tư là
tương đối dễ.
3.1.2 Thời hạn thu hồi vốn đầu tư:
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư

cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thu được
Công thức tính: Ivo
T =
Wpv
Trong đó : Wpv là lợi nhuận thu được bình quân một năm hoặc
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
17
Chuyên đề thực tập
T
Σ Wipv ≥ Ivo
i=0
T và T : là thời gian thu hồi vốn đầu tư tính theo tháng ,quí ,năm
Thời hạn T thường được tính cho một dự án. Nó phản ánh phần nào mức độ
hiệu quả của dự án. Đối với những dự án tương tự nhau thì dự án có thời gian thu hồi
vốn đầu tư càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên đối với nhiều dự án của một tỉnh, một giai
đoạn thì T rất khó tính, thậm chí là không tính được. Trong nông nghiệp có nhiều dự
án khó tính được thời gian T bởi vì đầu tư trong nông nghiệp mang tính xã hội cao,
nhiều khi không có lợi nhuận, nên nó không được sử dụng nhiều
3.1.3 Hệ số hoàn vốn nội bộ:
Hệ số hoàn vốn nội bộ là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính chuyển
các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng thời gian ở hiện tại sẽ làm
cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công cuộc đầu tư được coi là có hiệu quả khi :
IRR ≥ IRR định mức
Trong đó IRR định mức có thể là lãi suất đi vay nếu ta phải vay vốn để đầu tư, có thể
là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định nếu vốn đầu tư do ngân sách cấp ,
có thể là tỷ suât lợi nhuận bình quân hoặc là chi phí cơ hội của vốn tự có
Để tính IRR của một dự án người ta có thể tình bằng nhiều cách khác nhau: như bằng
máy tính, bằng phương pháp nội suy, ngoại suy Chỉ tiêu IRR rất quan trọng trong
việc tính hiệu quả dự án đầu tư. Nói chung dự án có IRR càng lớn càng tốt . Trong
ngành nông nghiệp, do dặc trưng của đầu tư trong ngành nên các công cuộc đầu tư

thường có IRR là tương đối thấp. Đây là công thức có thể tính được nếu công tác
thống kê thu thập làm tốt.
3.1.4 Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm( NVA):
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của đầu tư.
NVA là mức chênh lệnh giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
Công thức tính: NVA = O - (MI + Iv)
Trong đó : - NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại
- O : là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư ( doanh thu)
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
18
Chuyên đề thực tập
- MI: là giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu
cầu để đạt được đầu ra trên đây( năng lượng, nhiên liệu, giao thông )
- Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao
Trong ngành nông nghiệp ,chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án nông nghiệp
mang tính lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. Nếu tính theo chỉ tiêu này thì mức lợi ích
của đầu tư trong nông nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, đây lại là chỉ tiêu rất khó
tính được chính xác. NVA còn có thể tính cho từng năm hoặc tính cho nhiều dự án
trong một thời kì nhất định.
3.1.5 Chỉ tiêu GO/GDP
Trong đó: GO giá trị sản xuất của
: GDP = GO - chi phí trung gian
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của vốn đầu tư, nói trung nó có giá trị càng gần 1 càng
tốt. Nếu gần 1, tức sẽ giảm tối thiểu các chi phi trung gian không cần thiêt, những kết
quả thu được từ đầu tư chính là sự gia tăng giá trị cho xã hội
3.2 Chỉ tiêu xã hội:
3.2.1 Chỉ tiêu số lao động tăng thêm từng năm của dự án.
Số việc làm = Số lao động − Số lao động
tăng thêm thu hút thêm mất việc làm
Số lao động tăng thêm nói lên sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế xã hội.

Số lao động tăng thêm nói chung là tương đối dễ tính tuy nhiên trong ngành nông
nghiệp, người nông dân dù có thêm hay giảm đầu tư thì họ vẫn phải làm nông nghiệp,
nên trong nông nghiệp tính không phải là dễ. Còn số lao động tăng thêm càng nhiều
,dự án đó càng hiệu quả ( nhưng ta còn phải xem xét thêm thu nhập của người lao
động tư dự án như thế nào).
3.2.2. Chỉ tiêu GDP/Tổng số dân.
Chỉ tiêu này nói lên thu nhập bình quân của một người dân.Chỉ tiêu này càng
lớn thì mức thu nhập của người dân càng tăng cao.đời sống nhân dân càng được nâng
lên.là một yếu tố giúp ổn định chính trị từ đó phát triển kinh tế theo hướng hiện đại.
3.2.3 Chỉ tiêu công bằng xã hội:
Chỉ tiêu này xem xét mức độ bình đẳng của người dân trong xã hội, mức độ
phân phối thu nhập từ công cuộc đầu tư
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
19
Chuyên đề thực tập
Trên đây là một vài chỉ tiêu tiêu biểu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp.
Muốn tính hiệu quả đầu tư chính xác ta nên kết hợp chúng với nhau .
III.Tác động của đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn đối với sự phát
triển kinh tế.
1. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng vì nó thoả mãn nhu cầu hàng
đầu của con người là nhu cầu ăn , tạo ra sự ổn định về chính trị , kinh tế và quốc phòng
. Phát triển kinh tế nông thôn trước hết là phát triển kinh tế nông nghiệp một cách ổn
định , tạo cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân , nhất là cho công nghiệp một cơ sở vững
chắc về nhiều phương diện , trước hết là về lương thực thực phẩm , C.Mac đã từng viết
: “ nhu cầu của con người trước hết là nhu cầu ăn , mặc , ở , đi lại “. Như vậy cho dù
phát triển kinh tế đất nước đến thế nào đi chăng nửa , cho dù tỉ trọng nông nghiệp có
giảm sút trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân thì nông nghiệp vẫn đóng một vai trò quan
trọng không thể thiếu vì nó thoả mãn nhu cầu hàng đầu của con người
2. Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn góp phần tạo ra những tiền đề cho

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Một quốc gia được coi là phát triển khi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
-dịch vụ -nông nghiệp trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ lệ cao trong GDP
của nước đó . Bởi vì nông nghiệp do nhiều hạn chế về điều kiện tự nhiên và khả năng
sinh học của cây trồng vật nuôi nên chỉ có tốc độ tăng trưởng tối đa từ 5-6% .Do vậy
khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao , nó có khả năng đưa tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước đó lên cao 9-10% năm . Muốn vậy chúng ta phải chính sách đầu tư
thoả đáng .Mỗi nước cần tăng cường tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ và có
nhiều chính sách phát huy hiệu quả của đầu tư có vậy thì mới có công nghiệp và dịch
vụ phát triển .
Trong nông nghiệp ta cũng nên đầu tư nhiều hơn cho chăn nuôi bởi chăn nuôi
thường có tỷ lệ tăng trưởng mạnh hơn trồng trọt .
Còn đối với cơ cấu vùng lãnh thổ một quốc gia phát triển thường có cơ cấu kinh
tế lãnh thổ cân đối và đồng đều giữa các vùng trong cả nước .Do vậy bên cạnh việc
đầu tư trọng điểm để phát triển thành thị và các vùng đồng bằng chúng ta cũng cần có
chính sách để đầu tư phát triển kinh tế các vùng núi và nông thôn để vừa phát triển
kinh tế xã hội vừa tạo sự cân bằng ổn định trong nước.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
20
Chuyên đề thực tập
3. Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn tạo công ăn việc làm và góp phần xóa
đói giảm nghèo đồng thời nâng cao phúc lợi xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay tạo công ăn việc làm và
xoá đói giảm nghèo ở lĩnh vực nông nghiệp nông thôn luôn là trọng tâm của chiến
lược phát triển Ở khu vực nông thôn ,dân số tăng đẩy nhanh số người gia nhập lực
lượng lao động trong khi đất đai có hạn dẫn đến diên tích đất nông nghiệp trên đầu
người ngày càng giảm. Do đó để phát triển được bộ mặt chung của nông nghiệp nông
thôn ,thay vì đầu tư đủ lớn để phát triển nông nghiệp bền vững ,cần phải tập trung các
nguồn lực của đất nước phát triển mạnh công nghiệp thu hút lao động dư thừa từ nông
nghiệp như vậy không những đẩy nhanh được quá trình CNH-HĐH mà còn tạo điều

kiện phát triển nông nghiệp do giảm sức ép lên đất đai và tạo điều kiện tăng năng suất
lao động . Về mặt đầu tư , dân địa phương tham gia làm việc tại các Doanh Nghiệp
nông thôn có thu nhập cao hơn sẽ giúp họ đầu tư trở lại phát triển sản xuất nông
nghiệp .Ngoài ra, nông thôn vốn là vùng kinh tế lạc hậu với nhiều phong tục tập quán .
Sản xuất phân tán , nhìn chung là còn nhiều hủ tục , ít theo pháp luật thống nhất . nông
thôn cũng là nơi truyền thống cộng đồng ( cả mặt tốt và mặt xấu ) còn sâu đậm . Phát
triển kinh tế nông thôn sẽ tạo điều kiện vừa giữ gìn , phát huy truyền thống văn hoá tốt
đẹp , bài trừ văn hoá lạc hậu , vừa tổ chức tốt đời sống văn hoá và tinh thần .
4. Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn một phần giúp ổn định chính trị từ
đó phát triển kinh tế bền vững.
Nông thôn có phát triển thì mối liên minh công - nông mới được thắt chặt, bảo
đảm đánh tan mọi thế lực âm mưu diễn biến hoà bình . Một nông thôn có kinh tế và
văn hoá phát triển , đời sống ấm no , đầy đủ vật chất , yên ổn và vui tươi về tinh thần
là một nhân tố quyết định củng cố vững chắc trận địa lòng dân , thắt chặt mối liên
minh công – nông , bảo đảm cho nhân dân ta có thể đánh bại mọi thế lực thù địch ,
cũng như tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng – an ninh đủ sức mọi âm mưu
xâm lược vũ trang của kẻ thù dưới bất kỳ hình thức nào .
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
21
Chuyên đề thực tập
Chương II:
Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển nông
nghiệp và nông thôn trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn
2006-2010.
I: Khái quát chung về tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa.
1.Vị trí địa lý
Thanh Hóa nằm ở cựu Bắc Miền Trung,cách thủ đô Hà Nội 150 km về phía
Nam,cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km.Phía bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa
Bình và Ninh Bình,phái nam giáp với tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp với tỉnh Hủa Phăn
(nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), phái đông là Vịnh Bắc Bộ.Thanh Hóa nằm

trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,các tỉnh
Bắc Lào và vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ,ở vị trí cữa ngõ nối liền Bắc Bộ với
Trung Bộ.
* Địa hình :Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3
vùng rõ rệt:
+ Vùng núi và Trung du có diện tích đất tự nhiên 839.037 ha, chiếm 75,44%
diện tích toàn tỉnh,độ cao trung bình vùng núi từ 600 -700m, độ dốc trên 25
o
;vùng
trung du có độ cao trung bình từ 150-200m và có độ dốc từ 15-20*.
+Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên là 162.341 ha, chiếm 14,61% diện
tích toàn tỉnh, được bồi tụ bởi các hệ thống Sông Mã, Sông Bạng, Sông Yên và Sông
Hoạt. Độ cao trung bình từ 5- 15m, xen kẽ có các đồi thấp và núi đá vôi độc lập.Đồng
bằng Sông Mã có diện tích lớn thứ ba sau đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng
sông Hồng.
+Vùng ven biển có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh,với
bờ biển dài 102 km, địa hình tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa
sông. Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bình 3-6 m, có bãi tắm Sầm Sơn nổi tiếng
và các khu nghỉ mát khác như Hải Tiến (Hoằng Hoá) và Hải Hoà (Tĩnh Gia) ; có
những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các
khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển.
2.Văn hóa - xã hội.
Dân số và lao động: Năm 2009 Thanh Hoá có 3.400.239 người; có 7 dân tộc
anh em sinh sống, đó là: Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Hoa. Các dân tộc ít
người sống chủ yếu ở các huyện vùng cao và biên giới.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
22
Chuyên đề thực tập
Dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 2,16 triệu người, chiếm tỷ lệ 58,8%
dân số toàn tỉnh. Nguồn lao động của Thanh Hoá tương đối trẻ, có trình độ văn hoá

khá. Lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 27%, trong đó lao động có trình độ cao
đẳng, đại học trở lên chiếm 5,4%.
Tại Thanh Hóa có nhiều hình thức văn hóa truyền thống, phần nhiều vẫn còn
tồn tại và đang được phát huy. Về dân ca, dân vũ, được nhiều người biết đến nhất là
các làn điệu hò sông Mã, dân ca, dân vũ Đông Anh, trò diễn Xuân Phả. Ngoài ra còn
có ca trù, hát xoan Các dân tộc ít người cũng có nhiều loại hình văn nghệ dân gian
khá đa dạng như hát xường của người Mường, khắp của người Thái
Kho tàng truyện cổ cũng khá đặc sắc như truyện cổ về sự tích về các ngọn núi,
truyện dân gian của ngư dân ven biển Hậu Lộc, Sầm Sơn, Tĩnh Gia. Đặc biệt là các sự
tích về nguồn gốc dân tộc Mường.
3.Thực trạng một số ngành chủ yếu.
3.1.Một số nét về công nghiệp.
Cũng như Việt Nam, nền công nghiệp Thanh Hóa không phát triển. Theo số
liệu của tổng cục thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2009, chỉ số phát triển công nghiệp
của toàn tỉnh tăng 8,2 %, đây là mức tăng cao so với mức tăng bình quân của cả nước
là 4,6% (trong đó TP Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ tăng ở mức thấp là 0,4% và
2,7%).Tính đến thời điểm năm 2009, Thanh Hóa có 5 khu công nghiệp tập trung và
phân tán. Một số khu công nghiệp:
Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã Bỉm Sơn
Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) - Huyện Tĩnh Gia
Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa
Khu công nghiệp Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh Hóa
Khu công nghiệp Lam Sơn - Huyện Thọ Xuân
Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu kinh tế này
được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động số
102/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006. Khu kinh tế này nằm ở phía Nam của
tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 200 km, có đường bộ và đường sắt quốc gia chạy qua,
có cảng biển nước sâu cho tầu có tải trọng đến 30.000 DWT cập bến. Khu kinh tế
Nghi Sơn là một trung tâm động lực của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đang được quy
hoạch, cũng được đánh giá là trọng điểm phát triển phía Nam của vùng kinh tế trọng

điểm bắc bộ đồng thời là cầu nối giữa vùng Bắc Bộ với Trung Bộ với thị trường Nam
Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
23
Chuyên đề thực tập
3.2.Một số nét về dịch vụ.
Ngân hàng: Bên cạnh Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại trên
địa bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Nông
nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách. Hiện nay, các ngân hàng đang thực hiện đổi mới
và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc
chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế bảo đảm an toàn và hiệu
quả. Tổng nguồn vốn huy động tín dụng hàng năm đạt trên 3.000 tỷ đồng, tổng dư nợ năm
2002 đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2001.
Bảo hiểm:Là tỉnh có dân số đông thứ ba cả nước, Thanh Hóa được xác định là
thị trường tiềm năng ở tất cả các loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Hiện tại
trên địa bàn tỉnh có tám công ty bảo hiểm được cấp phép hoạt động bảo hiểm. Các
công ty bảo hiểm trên địa bàn đang không ngừng mở rộng thị trường, tạo sự cạnh tranh
lành mạnh nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Thương mại dịch vụ:Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại
Thanh Hóa đã có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán
buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện lưu thông
thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu USD, năm
2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất khẩu ngày càng
được mở rộng, bên cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số doanh nghiệp đã
xuất khẩu sang Mỹ,Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là nông sản
(lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê ), hải sản (tôm, cua, mực khô, rau
câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ (các sản phẩm mây tre, sơn mài,
chiếu cói ), đá ốp lát, quặng crôm
3.3.Một số nét về nông nghiệp,nông thôn

Nông nghiệp
Thống kê đến năm 2010, toàn tỉnh có 239.843 ha đất nông nghiệp đang được sử dụng
khai thác.
Năm 2009, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 2,808 triệu tấn
Năm 2010, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 3,5 triệu tấn: nguyên liệu mía
đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn
7.000 ha; cói 5.000 ha
Lâm nghiệp
Sinh viên: Lê Văn Hai Lớp: Kinh tế phát triển 49B
24

×