Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA- Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.54 KB, 62 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
MỤC LỤC
1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển 3
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
LỜI MỞ ĐẦU
Những thành tựu kinh tế đã góp phần vào sự phát triển và tiến bộ xã hội của
nhân loại trên thế giới. Mặc dù tốc độ phát triển ở mỗi nước, mỗi khu vực khác
nhau nhưng có một xu thế chung là các quốc gia ngày càng tăng cường hợp tác, hội
nhập, đặc biệt trong hoạt động ngoại thương mua bán trao đổi hàng hóa. Các nước
có xu thế mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa để tận dụng triệt để lợi thế so
sánh, cũng như khai thác hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có của quốc gia mình
nhằm phát triển một nền kinh tế toàn diện. Và cách thức giúp luân chuyên hàng hóa
giữa các quốc gia phổ biến, có nhiều ưu điểm vẫn đang được áp dụng hiện nay đó là
hình thức vận chuyển bằng đường biển thông qua các đội tàu chuyên chở siêu
trường- siêu trọng. Mặt khác để đáp ứng nhu cầu đảm bảo cho hoạt động vận
chuyển hàng hóa giữa các vùng, lãnh thổ được lưu thông liên tục và hạn chế tổn
thất, thiệt hại cho các chủ hàng thì nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển đã ra đời và trở thành một tập quán không thể thiếu
trong hoạt động ngoại thương quốc tế.
Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã xoá bỏ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa nên hoạt
động mua bán, trao đổi hàng hóa với các nước khác ngày càng mở rộng. Cùng với
sự phát triển hoạt động ngoại thương, hoạt động Bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển cũng ra đời với vai trò như “tấm lá chắn”. Bởi vì
nghiệp vụ này ở Việt Nam ra đời muộn hơn các nước phát triển khác trên thế giới
nên kinh nghiệm cũng như kết quả đạt được còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là làm
thế nào để triển khai nghiệp vụ này một cách có hiểu quả, nâng cao được thị phần
của nó trên thị trường bảo hiểm? Một trong những khâu quan trọng, làm tiền đề cho


các khâu còn lại trong quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển và cũng là khâu quyết định đến doanh thu phí
bảo hiểm, đó chính là công tác khai thác bảo hiểm.
Nhận thức được vấn đề đó nên sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần
Bảo hiểm AAA- Chi nhánh Hà Nội, có điều kiện tiếp cận và hiểu biết thêm về
nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển em đã
lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hàng
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA- Chi
nhánh Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề thực tập cuối khóa.
Chuyên đề được kết cấu theo ba chương:
Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển và hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Chương II: Hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA- Chi nhánh Hà
Nội
Chương III: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập vân chuyển khẩu bằng đường biển
Trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA- Chi nhánh Hà
Nội, nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong công ty mà em đã có cơ hội
được tiếp cận với môi trường làm việc thực tế, làm quen dần với các nghiệp vụ bảo
hiểm mà công ty đang kinh doanh, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Đây chính là cơ sở giúp em có kiến thức
thực tế để có thể hoàn thành chuyên đề.
Ngoài ra, trong quá trình hoàn thành bài chuyên đề thực tập cuối khóa của
mình thì em cũng nhận được sự định hướng, giúp đỡ và hướng dẫn hết sức tận tình
cô giáo Thạc sĩ Tô Thị Thiên Hương. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành

tới cô giáo- Thạc sĩ Tô Thị Thiên Hương cùng Ban lãnh đạo và các anh chị trong
Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA- Chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện
cho em hoàn thành bài chuyên đề này.
Tuy nhiên, do kiến thức hạn chế và thiếu kinh nghiệm thực tiễn cũng như thời
gian thực tập ngắn nên bài chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được những lời nhận xét, đánh giá của các thầy cô giáo để bài chuyên
đề này được hoàn thiện hơn.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
Chương I
Lý luận chung về nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển và hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.1. Trên thế giới
Bảo hiểm hàng hải là nghiệp vụ bảo hiểm đầu tiên có lịch sử ra đời rất sớm
cùng với sự phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Vào khoảng thế kỷ V trước
công nguyên, những chuyến hàng vận chuyển bằng đường biển đã ra đời. Khi đó
những nhà buôn và chủ tàu cũng đã tìm cách đảm bảo an toàn cho toàn bộ lô hàng
của mình bằng hình thức san nhỏ hàng hóa vận chuyển thành nhiều chuyến hàng.
Đây chính là hình thức sơ khai của bảo hiểm. Tuy nhiên, vào thế kỷ XIV, ở Floren,
Genoa nước Ý, các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên mới xuất hiện mà theo đó
một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt
hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên
biển thong qua việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người
ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng
với việc phát hiện ra Ấn Độ Dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung
và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.

Về cơ sở pháp lý thì có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp
luật đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe năm 1458,
những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam năm 1558.
Ngoài ra, sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 là văn bản liên quan đến hợp đồng bảo
hiểm hàng hoá. Thế kỷ XVI – XVII phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa ra đời
đã đánh dấu cho sự phát triển rộng rãi hoạt động bảo hiểm và ngày càng đi sâu vào
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Mở đầu là việc ban hành Luật 1601
của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên
soạn và Vua Louis XIV ban hành, đó là những đạo luật thuộc lĩnh vực bảo hiểm
hàng hải.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
Hoạt động hàng hải phát triển đã thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu hàng hoá tăng
theo. Trong thời gian này nước Anh được coi là trung tâm của hoạt động ngoại
thương và bảo hiểm. Ở Anh có đội tàu buôn mạnh nhất thế giới và có sự phát triển
hiện đại về ngoại thương so với các nước khác trong khu vực. Hiệp hội bảo hiểm
đầu tiên của thế giới là Hiệp hội bảo hiểm Lloyd’s cũng ra đời ở Anh năm 1776.
Năm 1779, các hội viên của Lloyd’s đã thu thập tất cả các nguyên tắc bảo hiểm
hàng hải và quy thành một hợp đồng chung goi là hợp đồng Lloyd’s. Hợp đồng này
đã được Quốc hội Anh thông qua và được sử dụng ở nhiều nước cho đến 1982. Từ
ngày 1/1/1982, đơn bảo hiểm hàng hải mẫu mới đã được hiệp hội bảo hiểm London
thông qua và được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. Bên cạnh
nước Anh thì trong thời gian này các quốc gia khác cũng ban hành một số thể lệ,
công ước, hiệp ước quốc tế liên quan đến thương mại và hàng hải khác như: công
ước Bruxelle 1924, quy tắc Hague Visby 1968, công ước Hamburg 1978 rồi đến
Incoterms.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ra
đời đầu tiên ở các nước phát triển Châu Âu nhưng trước xu thế hoạt động ngoại
thương phát triển mạnh mẽ như hiện nay phạm vi hoạt động bảo hiểm ngày càng

được mở rộng. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu hiện không chỉ là nhu cầu cần
thiết đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà đã trở thành tập quán
thương mại giữa các nước và là nghiệp vụ truyền thống của ngành bảo hiểm nhiều
quốc gia.
1.2 Ở Việt Nam
Ngành bảo hiểm Việt Nam được chính thức thành lập và công nhận từ sau khi
Chính phủ ban hành Quyết định 179/CP ngày 17/12/1964 về việc thành lập Tổng
công ty Bảo hiểm Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính. Tổng công ty Bảo Việt chính
thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965 và đảm nhận nhiệm vụ thực hiện bảo hiểm
cho hàng hoá xuất nhập khẩu với các nước xã hội chủ nghĩa. Cùng năm, Bộ Tài
chính đã ban hành quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường
biển để điều chỉnh hoạt động bảo hiểm của thị trường trong nước.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ và có nhiều thay đổi, đặc
biệt là sau thời kỳ đổi mới nền kinh tế. Do vậy, để phù hợp với sự phát triển thương
mại và ngành hàng hải của đất nước cũng như thế giới đòi hỏi phải có quy tắc
chung mới. Bộ Tài chính Việt Nam đã kế thừa những nội dung cơ bản của ICC
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
1982 để ban hành quy tắc chung mới – Quy tắc chung 1990 (QTC 1990) cùng với
Luật hàng hải Việt Nam và quyết định bãi bỏ quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá
vận chuyển bằng đường biển ban hành năm 1965. Từ đó đến nay các doanh nghiệp
bảo hiểm đã có một số lần sửa đổi song về cơ bản vẫn giữ nguyên những nội dung
chính. Việc ban hành quy tắc chung mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp bảo hiểm và các chủ hàng Việt Nam giao kết và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm hàng hoá. Vì vậy, những quy tắc này thường được áp dụng trong các hợp
đồng bảo hiểm hàng nhập khẩu mà chủ hàng Việt Nam trực tiếp ký kết. Đối với các
lô hàng xuất khẩu được bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hoặc các
lô hàng nhập khẩu về Việt Nam theo giá CIF hoặc các loại giá tương đương thì
thường áp dụng các điều kiện bảo hiểm trong ICC 1982.

Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đang được
triển khai ở tất cả các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam.
Tuy nhiên tỷ trọng doanh thu ở nghiệp vụ này còn chưa cao trong khi thị trường bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thực sự còn rất nhiều tiềm năng đang chờ các doanh
nghiệp bảo hiểm có chiến lược khai thác.
2. Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển
2.1 Vai trò của vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
Ngay từ rất sớm, từ thế kỷ thứ V trước công nguyên con người đã biết tận
dụng các tuyến đường biển làm tuyến đường giao thông chính trong hoạt động vận
chuyển hàng hóa đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hoá, ngoại thương giữa các quốc
gia khác nhau trên thế giới. Cho đến nay, vận chuyển bằng đường biển đã trở thành
ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế và ngày càng khẳng định được
tính ưu việt của mình thông qua các ưu điểm:
Trước tiên, đường biển là tuyến giao thông rộng lớn mà có thể thực hiện cùng
một lúc cho nhiều chuyến tàu chở hàng với cả hai chiều mà không gây trở ngại.
Việc thực hiện vận chuyển bằng đường biển còn đáp ứng được yêu cầu vận chuyển
được nhiều chủng loại hàng hóa, bao gồm cả hàng siêu trường, siêu trọng mà các
phương tiện vận tải khác như đường bộ, đường sông, đường hàng không… không
thể đảm nhận được. Bởi vậy, hiện nay vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng
90% tổng hàng hóa xuất nhập khẩu của thế giới.
Thứ hai, việc xây dựng và bảo quản các tuyến đường biển dựa trên cơ sở lợi
dụng điều kiện tự nhiên của biển là chủ yếu, không phải đầu tư nhiều về vốn,
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
nguyên vật liệu, sức lao động. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giá
thành vận chuyển bằng đường biển thấp hơn so với các phương tiện khác. Và đây
cũng là một ưu điểm nổi bật của vận tải đường biển.
Thứ ba, vận chuyển bằng đường biển phát triển đã góp phần làm thay đổi cơ

cấu hàng hóa và cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế. Nhờ sự trao đổi được
diễn ra thường xuyên mà cung- cầu về hàng hóa của người dân các quốc gia được
đáp ứng đầy đủ hơn. Đồng thời vận chuyển bằng đường biển cũng giúp phát triển
tốt mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước, thực hiện tốt đường lối kinh tế đối
ngoại của nhà nước, góp phần tăng thu ngoại tệ…
Bên cạnh đó, vận chuyển bằng đường biển cũng có một số hạn chế do yếu tố
tự nhiên như thiên tai bão, sóng thần, lốc… có thể xảy ra bất cứ lúc nào; yếu tố rủi
ro kỹ thuật của máy móc, con người. Ngoài ra, còn có hạn chế do tốc độ của tàu
biển còn chậm, thường có hành trình dài nên xác suất rủi ro cũng cao hơn trong khi
khả năng ứng phó và cứu hộ rất khó khăn.
2.2 Rủi ro hàng hải và tổn thất trong quá trình vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển
2.2.1 Rủi ro hàng hải
Rủi ro hàng hải là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất nhờ trên biển gây ra
làm hư hỏng hàng hoá và phương tiện chuyên chở. Do đặc điểm của quá trình vận
chuyển mà hàng hoá xuất nhập khẩu thường bị đe doạ bởi rất nhiều rủi ro.
 Theo nguyên nhân, rủi ro hàng hải bao gồm rủi ro do thiên tai; rủi ro do
tai nạn bất ngờ và rủi ro do hành động của con người.:
- Thiên tai: Là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão,
lốc, sét, thời tiết xấu… mà con người không chống lại được.
- Tai nạn bất ngờ trên biển: Bao gồm mắc cạn, đắm, bị phá huỷ, cháy, nổ, mất
tích, đâm va với tàu hoặc một số vật thể cố định hay di động khác không phải là
nước, phá hoại của thuyền trưởng và thuỷ thủ trên tàu,…
- Hành động của con người: Gồm có ăn trộm, ăn cắp hàng, mất cướp, chiến
tranh đình công, bắt giữ, tịch thu…
Ngoài ra còn có các rủi ro khác như rủi ro lúc xếp dỡ hàng, hàng bị nhiễm mùi,
lây bẩn…
 Theo nghiệp vụ bảo hiểm có 3 loại rủi ro là rủi ro thong thường được bảo
hiểm; rủi ro không được bảo hiểm và rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49

6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
- Rủi ro thong thường được bảo hiểm (rủi ro được bảo hiểm) là rủi ro được
bảo hiểm trong những điều kiện bảo hiểm hàng hoá thông thường. Bao gồm các rủi
ro mắc cạn, chìm đắm, cháy, đâm va, ném hàng xuống biển, mất tích và các rủi ro
phụ như: rách, vỡ, gỉ, bẹp, cong vênh, hấp hơi, mất mùi, lây hại, lây bẩn, va đập vào
hàng hoá khác, nước mưa, hành vi ác ý, trộm, cướp, móc cẩu…
- Rủi ro không được bảo hiểm (rủi ro loại trừ): Là những rủi ro thường không
được bảo hiểm trong mọi trường hợp. Bao gồm: buôn lậu, tịch thu, phá bao vây, các
hành vi sai lầm cố ý của người tham gia bảo hiểm, nội tỳ, ẩn ý, bao bì không đúng
quy cách, vi phạm về thể lệ xuất nhập khẩu hoặc vận chuyển chậm trễ làm mất thị
trường, sụt giá, tàu không đủ khả năng đi biển, tàu đi chệch hướng, chủ tàu mất khả
năng tài chính…
- Rủi ro phải bảo hiểm riêng (rủi ro được bảo hiểm trong trường hợp đặc biệt):
Là những rủi ro loại trừ đối với bảo hiểm hàng hải. Đó là các rủi ro đặc biệt, phi
hàng hải như chiến tranh, đìch công, bạo loạn… Các rủi ro này chỉ được bảo hiểm
nếu có mua riêng, mua thêm. Khi chỉ mua bảo hiểm hàng hải thì các rủi ro này bị
loại trừ. Trong trường hợp chủ hàng yêu cầu, rủi ro chiến tranh sẽ được nhận bảo
hiểm kèm theo rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả thêm phụ phí
đặc biệt.
Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc phân
biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác
định rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn thất
nào có nguyên nhân trực tiếp là rủi ro được bảo hiểm gây ra mới được bồi thường.
2.2.2 Các tổn thất trong quá trình vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, tổn thất là những thiệt hại hư hỏng
của hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
 Nếu căn cứ vào quy mô, mức độ của tổn thất người ta chia tổn thất
thành tổn thất toàn bộ và tổn thất bộ phận.
- Tổn thất toàn bộ là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một hợp đồng bảo

hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại. Tổn thất toàn bộ được chia thành 2 loại là tổn
thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính.
+ Tổn thất toàn bộ thực tế là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một hợp
đồng bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại, hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như
lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, tước đoạt không lấy lại được nữa.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
+ Tổn thất toàn bộ ước tính là trường hợp đối tượng được bảo hiểm bị thiệt hại,
mất mát chưa tới mức độ tổn thất toàn bộ nhưng không thể tránh khỏi tổn thất
toàn bộ thực tế, hoặc nếu bỏ thêm chi phí ra cứu chữa thì chi phí cứu chữa có
thể bằng hoặc lớn hơn Giá trị bảo hiểm.
- Tổn thất bộ phận là một phần của đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo
hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn thất về số lượng,
trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị.
 Nếu phân loại theo trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất được chia thành
tổn thất riêng và tổn thất chung.
- Tổn thất riêng là tổn thất chỉ gây thiệt hại cho một hoặc một số riêng quyền
lợi của các chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ
phận hoặc tổn thất toàn bộ của chủ hàng riêng biệt. Trong tổn thất riêng ngoài thiệt
hại vật chất, còn phát sinh các chi phí liên quan nhằm hạn chế những hư hại khi tổn
thất xảy ra gọi là tổn thất chi phí riêng. Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo
quản hàng hoá để giảm bớt hư hại hoặc để khỏi hư hại thêm, bao gồm chi phí xếp,
dỡ, gửi hàng, đóng gói lại, thay thế bao bì…ở bến khởi hành và dọc đường. Có tổn
thất chi phí riêng sẽ làm hạn chế và giảm bớt tổn thất riêng.
- Tổn thất chung là những hy sinh hay những chi phí đặc biệt được tiến hành
một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên tàu thoát khỏi
một sự nguy hiểm chung, thực sự đối với chúng. Trong tổn thất chung gồm có hy
sinh tổn thất chung và chi phí tổn thất chung.
Hy sinh tổn thất chung là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của

một hành động tổn thất chung. Chi phí tổn thất chung là các chi phí phải trả cho
người thứ ba trong việc cứu tàu, hàng, cước phí thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu
tiếp tục hành trình.
Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, tổn
thất và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ trong đó rủi ro là nguyên nhân còn tổn thất là
hậu quả. Chi phí là các khoản tiền mà người bảo hiểm đã chi ra hoặc phải đóng góp
liên quan đến việc đề phòng hạn chế tổn thất cho hàng hoá, bốc dỡ lưu kho tại cảng
lãnh nạn, khiếu nại người thứ ba, cứu hộ, giám định tổn thất… Doanh nghiệp bảo
hiểm chỉ chịu trách nhiệm về những tổn thất và những chi phí phát sinh do hậu quả
của những rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
2.3. Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển
2.3.1 Khái niệm
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua
hợp đồng bảo hiểm. Trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền là
phí bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm để nhận được sự cam kết bồi thường hoặc
trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trong nghiệp vụ này bên mua bảo
hiểm có thể là người mua hoặc người bán tuỳ theo điều kiện thương mại và điều
kiện cơ sở giao hàng quy định trong hợp đồng mua bán mà hai bên đã thoả thuận.
2.3.2 Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
Bảo hiểm ra đời do sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà bản thân con người
không thể khống chế và loại bỏ được. Bảo hiểm đã trở thành nhu cầu không thể
thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu nhu cầu đó lại càng cấp thiết hơn, cụ thể là:
Thứ nhất, Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, mỗi chuyến tàu chở hàng hoá

xuất nhập khẩu thường có giá trị rất lớn bao gồm cả giá trị tàu và hàng hoá chở trên
tàu. Mặt khác, hàng hoá lại được chuyên chở từ nước xuất khẩu về nước nhập khẩu
với khoảng cách xa và người xuất khẩu hay nhập khẩu lại thường không trực tiếp áp
tải được hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Do đó, các doanh nghiệp không thể
biết trước được lô hàng của mình có gặp phải rủi ro trong chuyến hành trình hay
không. Để chủ động đề phòng rủi ro có thể xảy ra và hạn chế tổn thất thì buộc
doanh nghiệp phải nghĩ đến việc chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm bằng cách
tham gia bảo hiểm cho lô hàng.
Thứ hai, Trong quá trình chuyên chở hàng hoá từ kho người bán đến kho
người mua thì người giám sát trực tiếp lô hàng chính là người vận chuyển. Tuy
nhiên, các công ước quốc tế đã quy định mức miễn trách cho người vận chuyển, họ
chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất hàng hoá trong phạm vi và giới hạn nhất định. Vì
vậy, để đảm bảo an toàn các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phải tham gia bảo hiểm
cho hàng hóa của mình.
Thứ ba, Vận tải đường biển là loại vận tải tồn tại nhiều rủi ro không lường
trước được và gây ra tổn thất lớn cho hàng hoá và tàu thuyền trên biển do các thiên
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
tai và tai nạn bất ngờ như: mắc cạn, đâm va, chìm đắm, cháy nổ, cướp biển, giông
bão, lốc, sóng thần…và kể cả các mất mát do con người gây ra. Ngoài ra, khả năng
ứng cứu trên biển cũng rất hạn chế nên thường gây ra tổn thất rất lớn về hàng hoá.
Thư tư, Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời nên việc
tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển không chỉ
là nhu cầu cần thiết mà đã trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế có tính chất bắt
buộc trong hoạt động ngoại thương.
2.3.3 Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển hết sức to lớn đối với người mua bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm và cho quốc gia.

 Đối với người tham gia bảo hiểm
- Người tham gia sẽ được đảm bảo chủ động về mặt tài chính khi có rủi
ro xảy ra cho hàng hoá được bảo hiểm.
- Giảm bớt rủi ro xảy ra cho hàng hoá do thực hiện các biện pháp đề
phòng hạn chế tổn thất, tăng cường công tác bảo quản kiểm tra khi hàng hoá được
tham gia bảo hiểm.
- Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành
nguyên tắc, thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hóa xuất
nhập khẩu gặp rủi ro gây ra tổn thất cho các bên tham gia thì sẽ được công ty bảo
hiểm giúp đỡ về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có
liên quan.
 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong số các sản phẩm
mà doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh. Việc bán bảo hiểm này sẽ mang lại doanh
thu phí không nhỏ góp phần nâng cao kết quả kinh doanh cũng như vị trí trên thị
trường cho doanh nghiệp.
- Thông qua bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu giúp các doanh
nghiệp Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiêm, cạnh tranh với các công ty nước
ngoài, đồng thời mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế.
 Đối với quốc gia
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân,
góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các đơn vị kinh doanh
nhập khẩu hàng hóa theo giá FOB,CF và xuất khẩu theo giá CIF, CIP sẽ tạo ra khả
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Nhờ có hoạt động bảo
hiểm trong nước mà các chủ hàng không phải mua bảo hiểm ở nước ngoài, nói cách
khác là không phải xuất khẩu vô hình.
2.4 Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm

2.4.1 Đối tượng bảo hiểm
Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển có đối tượng
bảo hiểm là hàng hoá được vận chuyển bằng tàu biển hoặc kết hợp cả các phương tiện vận
chuyển khác trong liên hiệp vận chuyển (vận chuyển đa phương thức).
2.4.2 Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn trách nhiệm
của người bảo hiểm. Hàng hoá được bảo hiểm theo điều kiện nào thì chỉ những rủi ro tổn
thất quy định trong điều kiện đó mới được bồi thường. Phạm vi trách nhiệm càng rộng thì
những rủi ro được bảo hiểm càng nhiều và mức phí cũng tăng.
Căn cứ vào các điều khoản bảo hiểm ICC 1982, để phù hợp với tình hình thực
tế tại Việt Nam đối với quá trình bốc dỡ vận chuyển hàng hoá ở các cảng Việt Nam,
Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng
đường biển gọi tắt là QTC 1990, được xây dựng trên cơ sở điều khoản ICC 1982.
Theo quy tắc này người mua bảo hiểm có thể lựa chọn một trong ba điều kiện bảo
hiểm A, B, C để bảo hiểm cho hàng hoá của mình. Phạm vi bảo hiểm của điều kiện
bảo hiểm A tương tự như ICC 1982, riêng điều kiện bảo hiểm B, C trách nhiệm của
người bảo hiểm cộng thêm trách nhiệm đối với hàng hoá chở trên tàu bị mất tích.
2.5 Các điều kiện bảo hiểm
Điều kiện bảo hiểm hàng hoá là những quy định phạm vi trách nhiệm của
doanh nghiệp bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hóa. Hàng hoá mua bảo hiểm theo
điều kiện bảo hiểm nào thì chỉ những rủi ro tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm
của điều kiện đó thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường. Hiện nay hầu hết các
nước trên thế giới đều vận dụng những bộ điều khoản do Ủy ban kỹ thuật và điều
khoản – Viện những người bảo hiểm London (Institute of London Underwriters-
ILU) soạn thảo. Hiện nay, hai bộ điều khoản của Anh ban hành vào các năm 1963
(ICC 1963) và năm 1982 (ICC 1982) đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới.
2.5.1 Bộ điều kiện bảo hiểm ICC 1963
- Điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA- Free from
Particular Average): Theo điều kiện này, phạm vi bồi thường của nhà bảo hiểm
được giới hạn như sau: Bồi thường tổn thất toàn bộ hoặc toàn bộ ước tính, bồi

Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
thường đóng góp tổn thất chung; bồi thường tổn thất riêng do 4 nguyên nhân mắc
cạn, chìm đắm, đâm va, cháy nổ; bồi thường mất nguyên kiện hàng trong khi xếp
đồ, chuyển tải nhưng không phải mất cắp. Mọi chi phí chứng minh tổn thất thuộc về
chủ hàng (điều kiện này rất phù hợp với những loại hàng hóa khó hư hỏng khi đổ
vỡ).
- Điều kiện bảo hiểm tổn thất riêng (WA- With Particular
Average): Theo điều kiện này, phạm vi bảo hiểm của nhà bảo hiểm hoàn toàn giống
trên, ngoài ra, nhà bảo hiểm hoàn toàn bồi thường TTR do thiên tai gây ra. Trách
nhiệm chứng minh tổn thất thuộc về chủ hàng, đồng thời nhà bảo hiểm áp dụng chế
độ miễn thường rất phù hợp với hàng nhẹ, hàng rời.
- Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR- All Risks): Trừ những rủi ro
đặc biệt, phạm vi bồi thường trong điều kiện này rất rộng nên rất phù hợp với những
loại hàng hóa có giá trị cao, dễ bị mất cắp.
2.5.2 Bộ điều kiện bảo hiểm ICC 1982
Bộ điều kiện bảo hiểm này được xuất bản ngày 1/1/1982 cũng có 3 điều kiện
cơ bản được xây dựng trên nền điều kiện ICC 1963 nhưng có chỉnh sửa những điểm
hạn chế của ICC 1963 cho phù hợp với thực tế:
- Điều kiện bảo hiểm C (Institute cargo clauses C- ICC C): Đây là điều kiện
bảo hiểm có phạm vi trách nhiệm hẹp nhất. Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo
hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với:
+Tổn thất hay tổn hại của hàng hóa được bảo hiểm có nguyên nhân hợp lý do
cháy, hoặc nổ; tàu bị mắc cạn, chìm đắm, bị lật; đâm va; dỡ hàng tại cảng lánh nạn.
+Hy sinh tổn thất chung.
+Phần trách nhiệm mà người tham gia bảo hiểm phải chịu theo điều khoản hai
tàu đâm va nhau đều có lỗi.
- Điều kiện bảo hiểm B (Institute cargo clauses B- ICC B): Theo điều kiện bảo
hiểm này, ngoài các rủi ro được bảo hiểm theo điều kiện C, doanh nghiệp bảo hiểm

còn bồi thường tổn thất hay tổn hại đối với hàng hóa được bảo hiểm do động đất,
núi lửa, sét đánh; bị nước biển cuốn khỏi tàu; nước biển, nước song, hồ xâm nhập
vào hầm tàu, vào congtenno hoặc nơi để hàng; tổn thất nguyên kiện hàng trong quá
trình xếp dỡ, chuyển tải.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
- Điều kiện bảo hiểm A (Institute clauses A- ICC A): Đây là điều kiện có
phạm vi rộng nhất, bảo hiểm tất cả những hư hỏng, mất mát của hàng hóa, kể cả rủi
ro cướp biển.
- Điều kiện bảo hiểm chiến tranh: Theo điều kiện này, doanh nghiệp bảo hiểm
phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của hàng hóa do:
+ Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân
sự xảy ra từ những biến cố đó hoặc bất cứ hành động thù địch nào.
+ Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ.
+ Mìn, thủy lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác.
+ Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các
rủi ro thông thường khác.
- Điều kiện bảo hiểm đình công: Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho
những mất mát, hư hhóa được bảo hiểm do:
+ Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây
rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi dậy.
+ Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị.
+ Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Để phù hợp với điều kiện thực tế, tổ chức này đã soạn thảo và ban hành bộ
điều khoản mới là ICC 2009. Tuy nhiên, trên thực tế bộ điều khoản này chỉ phát
triển và cụ thể hóa một số điều kiện còn về cơ bản nội dung các điều khoản vẫn như
trong ICC 1982. Vì vậy cho đến nay thì bộ điều khoản được sử dụng rộng rãi nhất
vẫn là ICC 1982.

Hiện nay, Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA đang áp dụng ba điều kiện bảo
hiểm là ICC A, ICC B, ICC C của Viện những người bảo hiểm London, Anh ban
hành 1/1/1982 (ICC 1982).
2.6 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
2.6.1 Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm (GTBH) của hàng hoá xuất nhập khẩu được xác định dựa trên
cơ sở giá trị thực tế của lô hàng, cước phí vận chuyển và các chi phí liên quan khác
(Giá CIF), tức mức chênh lệch giá mua ở cảng đi và giá bán ở cảng đến.
Nếu Giá trị bảo hiểm có thêm phần lãi dự tính (tối đa 10% giá CIF), nghĩa là
giá trị của bảo hiểm hàng hóa lớn nhất bằng 110% CIF.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
Công thức tính xác định giá CIF:
CIF =
R
FC

+
1
Trong đó
C (Cost) - giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
F (Freight) - Cước phí vận chuyển
R (Rate) - Tỷ lệ phí bảo hiểm
GTBH được xác định theo công thức:
G
b
=
R
FC


+
1
Hoặc
G
b
=
R
aFC

++
1
)1)((
Trong đó:
G
b
- Giá trị bảo hiểm
F- Cước phí vận chuyển
C- Giá FOB của hàng hóa
a- Số phần trăm lãi dự tính
R- Tỷ lệ phí bảo hiểm.
2.6.2 Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm (STBH) là số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiểm
và được ghi rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên
cơ sở giá trị bảo hiểm. Hóa đơn hàng là tài liệu chắc chắn nhất để xác định giá trị
bảo hiểm của hàng hóa.
• Nếu STBH = GTBH, đó là “bảo hiểm ngang giá trị”, còn gọi là “bảo hiểm toàn phần”
• Nếu STBH > GTBH, đó là “bảo hiểm trên giá trị”, còn gọi là “bảo hiểm vượt mức”.
• Nếu STBH < GTBH, đó là “bảo hiểm dưới giá trị”, còn gọi là “bảo hiểm dưới mức”.
Trong thực tế, chủ hàng thường bảo hiểm ngang giá trị.

2.6.3 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm nộp cho doanh
nghiệp bảo hiểm để hàng hóa được bảo hiểm.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm
và tỷ lệ phí bảo hiểm. Do chủ hàng mua bảo hiểm ngang giá trị nên Phí bảo hiểm
(P) được xác định như sau:
P = CIF x R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính)
Hoặc : P = CIF x (a+1) x R (nếu bảo hiểm thêm lãi dự tính a)
Tỷ lệ phí bảo hiểm được ghi trong HĐBH theo thỏa thuận giữa người bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Tỷ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+Loại hàng hóa: Hàng dễ bị tổn thất như dễ vỡ, dễ bị mất cắp thì tỷ lệ phí bảo
hiểm sẽ cao hơn.
+ Loại bao bì: Bao bì càng chắc chắn, tỷ lệ phí bảo hiểm càng hạ.
+ Phương tiện vận chuyển: Hàng được chở trên tàu trẻ có tỷ lệ phí bảo hiểm
thấp hơn hàng được chở bằng tàu già.
+ Hành trình: Tỷ lệ phí tăng lên đối với những hành trình có nhiều rủi ro (theo
thống kê kinh nghiệm) hoặc hành trình qua các vùng có xung đột vũ trang…
+ Điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm có phạm vi càng hẹp thì tỷ lệ phí
bảo hiểm càng thấp.
Trong một số trường hợp có nguy cơ gia tăng rủi ro (ví dụ hàng được vận
chuyển trên tàu già…), tỷ lệ phí bảo hiểm bao gồm hai phần như sau:
R = R
gốc
+ R
phụ
Với : R

gốc
- Tỷ lệ phí gốc
R
phụ
- Tỷ lệ phí phụ (phụ thuộc vào tuổi tàu, quốc tịch tàu, bảo hiểm chiến
tranh…)
Như vậy, thực chất phí bảo hiểm bảo gồm hai phần:
Phí gốc :
P
gốc
= S
b
x R
gốc
Phí phụ : ví dụ như phụ phí tàu già:
P
tàu già
= S
b
x R
tàu già
Trong đó: S
b
- STBH
Lúc này :
P
tổng cộng
= P
gốc
+ P

tàu già
Các bộ luật và qui tắc bảo hiểm hàng hải đều lưu ý HĐBH chỉ có hiệu lực
ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, công ty bảo hiểm có quyền hủy HĐBH nếu
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
người được bảo hiểm không thực hiện đúng nghĩa vụ trả phí bảo hiểm hoặc có
quyền từ chối bồi thường khi rủi ro xảy ra.
2.7 Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
2.7.1 Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là
hợp đồng được ký kết giữa Người bảo hiểm và Người được bảo hiểm mà theo đó
Người bảo hiểm thu phí của Người được bảo hiểm và bồi thường cho Người được
bảo hiểm các tổn thất/thiệt hại của đối tượng bảo hiểm theo các điều kiện đã thỏa
thuận với Người bảo hiểm trong hợp đồng. Tất cả các loại hợp đồng bảo hiểm đều
phải cấp bằng văn bản.
2.7.2 Các loại hợp đồng
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm hàng hoá được áp dụng trong thực tế là: hợp
đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao.
 Hợp đồng bảo hiểm chuyến
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là loại hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng
vận chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác. Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp
đồng bảo hiểm dành cho khách hàng có nhu cầu bảo hiểm hàng hoá không thường
xuyên. Với loại hình hợp đồng bảo hiểm này, người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm
đối với tổn thất của hàng hoá trong phạm vi một chyến hàng theo các điều khoản
lựa chọn hoặc tuỳ theo quy định trong hợp đồng vận chuyển. Đây là loại hợp đồng
“tường minh” nhất bởi lẽ những thông tin về đối tượng bảo hiểm như: tên hàng, số
lượng, đặc điểm nhận biết, giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm… cũng như những thông
tin về phương tiện vận chuyển, hành trình như: Tên tàu, chủ tàu, cảng xếp hàng,
ngày xếp hàng…đều được thể hiện rõ trong hợp đồng bảo hiểm.

 Hợp đồng bảo hiểm bao
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm cho nhiều chuyến hàng của
cùng một chủ hàng trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Hợp đồng
bảo hiểm bao thường được áp dụng cho những chủ hàng có lượng hàng hoá nhập
(xuất) lớn, chở bằng nhiều chuyến trong năm. Khác với hợp đồng bảo hiểm chuyến,
khi giao kết hợp đồng bảo hiểm bao có nhiều thông tin liên quan đến hợp đồng mà
người bảo hiểm chưa được biết trước. Vì vậy hợp đồng bảo hiểm bao được coi là
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
một dạng hợp đồng “nguyên tắc” trong đó các bên thoả thuận các điều khoản làm
cơ sở cho việc tính giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm tương ứng với những điều kiện
bảo hiểm, phương thức thanh toán phí, cam kết về phương tiện vận chuyển. Hợp
đồng bảo hiểm bao được ký kết và thực hiện trên tinh thần thiện chí. Trên thực tế
kinh doanh, do mang lại nhiều lợi ích và ưu thế hơn so với hợp đồng bảo hiểm
chuyến nên hợp đồng bảo hiểm bao luôn được các doanh nghiệp bảo hiểm khuyến
khích áp dụng.
2.7.3 Tính hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển bắt
đầu có hiệu lực từ khi hàng rời kho hay nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong hợp
đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá trình vận
chuyển bình thường và kết thúc tại một trong các thời điểm sau tuỳ vào thời điểm
nào đến trước:
 Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng đã thoả thuận trong
hợp đồng bảo hiểm.
 Khi giao hàng vào kho hay bất kỳ nơi chứa hàng nào khác mà người được
bảo hiểm chọn dùng làm nơi chia hay phân phối hàng hoặc nơi chứa hàng ngoài quá
trình vận chuyển bình thường.
 Khi hết hạn 60 ngày kể từ ngày hoàn thành việc dỡ hàng tại cảng đến.
 Khi hàng được giao vào bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác với nơi

nhận do nhầm lẫn.
2.8 Công tác giám định – bồi thường tổn thất
2.8.1 Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định của các công ty
bảo hiểm hoặc của các công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền, nhằm xác
định mức độ và nguyên nhân của tổn thất làm cơ sở cho việc bồi thường. Giám định
tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị tổn thất, hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt, giảm
phẩm chất ở cảng đến hoặc trên đường hành trình và do người được bảo hiểm yêu
cầu. Những tổn thất do mất hàng, giao thiếu hàng hoặc không giao hàng thì không
phải giám định và cũng không thể giám định được. Do đó, người được bảo hiểm
phải có nghĩa vụ đưa ra những bằng chứng chứng minh về nguyên nhân và mức độ
của những tổn thất này. Sau khi giám định, người giám định sẽ cấp chứng thư giám
định. Chứng thư giám định gồm hai loại: biên bản giám định và giấy chứng nhận
giám định được gửi cho người được bảo hiểm trong vòng 30 ngày.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
2.8.2 Bồi thường tổn thất
Các công ty bảo hiểm Việt Nam tính toán và bồi thưòng tổn thất trên cơ sở các
nguyên tắc sau:
 Bồi thường bằng tiền chứ không phải hiện vật, đồng tiền bồi thường là
đồng tiền đã được thoả thuận trong hợp đồng, nếu không có thoả thuận thì nộp phí
đồng tiền nào thì bồi thường bằng đồng tiền đó.
 Khi hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất bộ phận, thì số tiền bồi
thường được xác định bằng tổng giá trị hàng hoá khi còn nguyên vẹn trừ đi tổng giá
trị hàng hoá còn lại sau khi đã bị tổn thất tại nơi nhận hàng trên cơ sở tỷ lệ giữa số
tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
 Trên nguyên tắc thì trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ giới hạn
trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, khi cộng tiền tổn thất các chi phí: cứu
hộ, giám định, đánh giá và bán lại hàng hoá bị tổn thất, chi phí đòi người thứ ba,

tiền đóng góp vào tổn thất chung thì dù có vượt quá số tiến bảo hiểm thì người bảo
hiểm vẫn bồi thường dựa trên quy định trong điều khoản đã thoả thuận của hợp
đồng bảo hiểm (đây là điểm khác biệt của bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng
đường biển với các loại bảo hiểm khác).
 Khi thanh toán tiền bồi thường, người được bảo hiểm có thể khấu trừ
những khoản thu nhập của người được bảo hiểm trong việc bán hàng và đòi người
thứ ba.
3. Lý luận về công tác khai thác trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
3.1 Vai trò của công tác khai thác trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
Quá trình triển khai một nghiệp vụ sản phẩm thường phải trải qua các khâu cơ bản:
khai thác, quản lý hợp đồng, giám định và giải quyết bồi thường. Như vậy, có thể thấy
rằng khai thác là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm, nó làm
tiền để cho các khâu còn lại. Hiệu quả các khâu sau thường phụ thuộc vào kết quả của
công tác khai thác bảo hiểm có hiệu quả hay không. Công tác khai thác trong bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển có vai trò quan trọng cho cả
doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và cho nền kinh tế.
 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
- Đây là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm nhưng là khâu mang về doanh thu phí cho doanh nghiệp. Doanh thu phí này
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
mặc dù chưa phản ánh đầy đủ lợi nhuận cũng như kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhưng có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xác định kết quả kinh doanh.
- Thực hiện tốt khâu khai thác thì mới đảm bảo nguyên tắc số
đông bù số ít. Khai thác được nhiều, doanh thu lớn giúp doanh nghiệp có thể hạn
chế rủi ro trong khả năng thanh toán. Đặc biệt, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu thường có giá trị lớn nên vai trò trong khâu khai thác càng cần

được chú ý.
- Thông qua khâu khai thác, các khai thác viên sẽ là người đại
diện mang hình ảnh của công ty đến với khách hàng. Dựa vào kết quả khai thác
công ty có thể thấy được quy mô khách hàng của mình, ước tính được khả năng thu
hút khách hàng, xác định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp. Từ đó
có biện pháp điều chỉnh kịp thời để có giải pháp và chính sách thích hợp nhất.
Công tác khai thác bảo hiểm thực sự có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nên cần phải được chú trọng để thực hiện tốt khâu này.
 Đối với người mua bảo hiểm
- Thông qua hoạt động giới thiệu, tư vấn của cán bộ khai thác bảo
hiểm, người mua bảo hiểm phần nào hiểu được ý nghĩa cũng như kiến thức cơ bản
của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nhờ sự tư vấn của cán bộ khai thác mà
người mua bảo hiểm biết cách đề phòng, hạn chế tổn thất có thể xảy ra.
- Thông qua biểu phí mà công ty bảo hiểm cung cấp, người mua bảo
hiểm có thể so sánh giá cả giữa các công ty để lựa chọn cho mình công ty bảo hiểm tin
cậy nhất.
 Đối với nền kinh tế
Việc tiến hành khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển góp phần phát triển các công ty bảo hiểm trong nước thông qua việc
tăng doanh thu phí bảo hiểm, từ đó làm tăng một lượng đáng kể nguồn vốn đầu tư
cho phát triển nền kinh tế bởi hàng hoá xuất nhập khẩu thường có giá trị lớn nên phí
bảo hiểm thu được tương đối nhiều.
Như vậy, khai thác bảo hiểm nói chung và khai thác bảo hiểm hàng hoá vận
chuyển bằng đường biển có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp bảo
hiểm thu hút được khách hàng, giúp người mua bảo hiểm tăng thêm hiểu biết và có
sự lựa chọn tốt nhất đồng thời góp phần phát triển nền kinh tế.
3.2. Quy trình khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
19

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
Quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm trải qua nhiều khâu, mỗi khâu
đều có các bước thực hiện nhất định. Một quy trình cụ thể, chặt chẽ sẽ giúp cho quá
trình khai thác được thực hiện một cách hiệu quả nhất. Nhận thức được vấn đề đó,
các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng nghiên cứu, bổ sung sửa đổi để đưa ra một
quy trình và chiến lược khai thác hữu hiệu nhất. Ở Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA
các bước trong khâu khai thác cũng được chỉ ra rất cụ thể trong văn bản Quy trình
hướng dẫn bảo hiểm hàng hóa và khâu khai thác thì gồm có trình tự các bước:
• Bước 1: Nắm bắt thông tin, tiếp cận khách hàng, nhận đề nghị
• Bước 2: Đánh giá rủi ro, đề xuất phương án khai thác bảo hiểm
• Bước 3: Chào bảo hiểm, cấp đơn bảo hiểm
• Bước 4: Theo dõi thu phí, đề phòng hạn chế tổn thất, chăm sóc khách hàng
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
Bảng 1: Quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển ở Bảo hiểm AAA
Khai thác viên
Khai thác viên, lãnh đạo
đơn vị
Khai thác viên, lãnh đạo
đơn vị
Khai thác viên, lãnh đạo
đơn vị
Khai thác viên
Khai thác viên, lãnh đạo
đơn vị
Khai thác viên, kế toán
Khai thác viên, lãnh đạo





Không duyệt

trên
phân cấp
Duyệt
không đạt
không đạt

Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
21
Đề nghị bảo hiểm
Đánh giá rủi ro
Đề xuất phương
án bảo hiểm
Chào BH/đàm phán
Yêu cầu bảo hiểm
Cấp đơn bảo hiểm
Quản lý dịch vụ
Theo dõi thu phí
từ chối
Trình lãnh
đạo
Đóng hồ

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
đơn vị, các khối quản lý
liên quan

3.2.1 Nắm bắt thông tin, tiếp cận khách hàng, nhận đề nghị
Đây là bước đầu tiên của quá trình khai thác nên có vai trò làm tiền đề cho các
bước tiếp theo. Khai thác viên là người thực hiện bước này, đại diện công ty giới
thiệu với khách về công ty và nghiệp vụ. Kết quả thu được sau bước này là tình
hình tài chính, khả năng tham gia, đối tượng bảo hiểm và nhu cầu bảo hiểm của
khách hàng. Độ tin cậy cũng như số lượng của thông tin sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
các bước tiếp theo của quá trình khai thác. Do đó, khai thác viên cần chú ý thực
hiện tốt ngay ở bước đầu tiên này là phải nắm chắc nội dung bảo hiểm để thu thập
được những thông tin chính xác, có ích và tìm hiểu được nhu cầu bảo hiểm của
khách hàng để tư vấn, giới thiệu cho khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm có lợi
nhất. Đồng thời khai thác viên cũng cần cập nhật thường xuyên những thay đổi và
biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng để tư vấn, điều chỉnh sản
phẩm cho phù hợp. Cách thức để nắm bắt được thông tin trong bước này là thông
qua các phương tiện truyền thong đại chúng, các cơ quan hữu quan, các đơn vị chủ
quản, các chủ hàng truyền thống vừ tiềm năng. Sau khi đã có được các thông tin về
khách hàng và nắm bắt được nhu cầu bảo hiểm thì đại diện công ty sẽ tiến hành
phân tích thông tin và đánh giá rủi ro.
3.2.2 Đánh giá rủi ro, đề xuất phương án khai thác bảo hiểm
Qua các thông tin thu thập được, khai thác viên hay lãnh đạo đơn vị sẽ tiến
hành phân tích, đánh giá về khả năng xảy rủi ro, mức độ hay xác suất xảy ra rủi ro
với đối tượng bảo hiểm hoặc tư vấn về chương trình quản lý rủi ro cho khách hàng.
Các thông tin để đánh giá rủi ro được mô tả trong Giấy yêu cầu bảo hiểm, bao gồm
các vấn đề như: thông tin khách hàng; loại hàng tham gia bảo hiểm; tàu vận chuyển
có thuộc đối tượng tàu già hay không thông qua việc kê khai quốc tịch, năm sử
dụng tàu của khách hàng; xem xét giá trị bảo hiểm thuộc trong phân cấp hay ngoài
phân cấp; tàu vận chuyển có tham gia bảo hiểm trách nhiệm P & I hay không và của
tổ chức nào… Trường hợp khách hàng đã tham gia bảo hiểm tại một công ty (chi
nhánh) cùng thuộc một hệ thống thì cần có sự phối hợp để quyết định đúng đắn,
tránh để khách hàng lợi dụng. Còn nếu khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm khác
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49

22
Đề phòng
HCTT
Chăm sóc
khách hàng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
có yêu cầu bảo hiểm, cần kiểm tra thông tin kỹ lưỡng về tình hình tài chính, tổn
thất, vấn đề nợ phí…Đây là công việc hết sức quan trọng có ảnh hưởng lớn tới kết
quả kinh doanh của nghiệp vụ nên đòi hỏi phải được tiến hành một cách cẩn thận,
kỹ lưỡng nhằm ngăn chặn các hậu quả về sau mà quan trọng hơn là vấn đề về trục
lợi bảo hiểm.
Trong những trường hợp đặc biệt (yêu cầu kỹ thuật chuyên môn cao, khả năng
rủi ro lớn, giá trị bảo hiểm lớn) vượt quá khả năng của cán bộ khai thác của công ty
thì có thể yều cầu trợ giúp của các cơ quan chuyên môn hoặc tổ chức nước ngoài.
Sau khi đã có kết quả đành giá rủi ro, đại diện công ty sẽ đễ xuất phương án khai
thác bảo hiểm với khách hàng:
 Trong trường hợp từ chối, cán bộ khai thác sẽ không trực tiếp làm việc này
mà phải xin ý kiến các cấp cao hơn, chỉ trừ trường hợp xét thấy dịch vụ quá xấu
mới được từ chối khách hàng.
 Khi đã chấp nhận nhận dịch vụ trong phân cấp, khai thác viên cần phải đề
xuất phương án khai thác cho lãnh đạo đơn vị phê duyệt. Ngoài ra, khi vượt phân
cấp thì cần phải được sự đồng ý của Công ty- qua Khối Bảo hiểm hàng hải.
3.2.3 Chào bảo hiểm, cấp đơn bảo hiểm
Từ những thông tin của khách hàng, báo cáo đánh giá rủi ro kết hợp chính sách
khách hàng, khai thác viên cần đưa ra mức phí dự kiến cho đối tượng bảo hiểm và
lập một bản chào phí cụ thể, rõ ràng gửi cho khách hàng xem xét. Để nhận được sự
chấp nhận tham gia của khách thì khi khai thác viên chào phí với khách hàng cần
thận trọng và linh hoạt trong việc đàm phán để khách hàng thấy được mức phí mà
công ty đưa ra là phù hợp nhất với quyền lợi của họ. Trong quá trình đàm phán, các
yếu tố liên quan như: quy tắc bảo hiểm, biểu phí, mức miễn thường, thông tin về

khách hàng, phí của nhà tái bảo hiểm là những yếu tố hàng đầu được tính toán để
đưa ra được mức phí phù hợp.
Sau quá trình đàm phán và gửi bản chào phí tới khách hàng, nếu khách hàng
đã chấp nhận mức phí mà doanh nghiệp đưa ra, khai thác viên phải đề nghị khách
hàng gửi Giấy yếu cầu bảo hiểm hoàn chỉnh, chính thức bằng văn bản cho doanh
nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên khai thác viên cũng cần phải lưu ý khách hàng kê khai
rõ tất cả các mục trong Giấy yêu cầu bảo hiểm. Trường hợp khai thiếu về: số B/L
(Vận tải đơn), ký mã hiệu, trọng lượng, số kiện (do chưa được thông báo đầy đủ) thì
vẫn chấp nhận cấp đơn nhưng phải yêu cầu khách hàng bổ sung khi nhận được
thông báo. Nếu thiếu một trong các thông tin cơ bản như: tên hàng, số hợp đồng
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th. S Tô Thị Thiên Hương
(hoặc L/C- tín dụng thư), điều kiện bảo hiểm thì chỉ nên cấp đơn bảo hiểm sau khi
khách hàng đã cung cấp bổ sung thông tin đầy đủ. Khi các bên đã thống nhất với
nhau về tất cả các điều khoản thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chấp nhận bảo hiểm cho
khách hàng và tiến hành các thủ tục để lập Hợp đồng bảo hiểm/Đơn bảo hiểm.
Trước khi cấp Đơn bảo hiểm, khai thác viên phải tiến hành lấy số hợp đồng theo
quy định lập mã số chứng từ bảo hiểm. Quy trình cấp đơn được tiến hành như sau:
 Bước 1: Kiểm tra chứng từ
• Kiểm tra nội dung của giấy yêu cầu bảo hiểm có phù hợp với các tài liệu
kèm theo như: B/L, hoá đơn, L/C, hợp đồng vận chuyển…hay không.
• Kiểm tra bản đánh giá rủi ro( nếu có) và những khuyến nghị trong đó.
 Bước 2: Vào sổ cấp đơn, lấy số đơn
• Lấy số đơn bảo hiểm theo thứ tự trong sổ cấp đơn
• Kiểm tra đơn và sổ cấp đơn theo từng danh mục
• Trình lãnh đạo phòng ký đơn và sổ cấp đơn
 Bước 3: Tính phí bảo hiểm
• Xác định số tiền bảo hiểm: Tuỳ theo từng doanh nghiệp mà áp dụng công
thức tính phí khác nhau, nhưng thông thường ở Việt Nam là tính theo giá CIF và số

tiền bảo hiểm bằng 110% CIF.
• Xác định tỷ lệ phí áp dụng và các trường hợp tính thêm phụ phí bảo hiểm.
• Tính phí bảo hiểm dựa vào số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm đã
được xác định.
 Bước 4: Sửa đổi hoặc huỷ đơn bảo hiểm
• Trường hợp khách hàng đề nghị điều chỉnh trị giá bảo hiểm (FOB, CIF),
cước phí vận chuyển thì khi đó nhà bảo hiểm phải tính toán lại số tiền bảo hiểm,
điều chỉnh phí và cấp giấy sửa đổi bổ sung.
• Trường hợp khách hàng yêu cầu huỷ đơn phải xem xét rõ lý do huỷ đơn,
đề nghị khách hàng cung cấp thư từ trao đổi về việc không giao hàng, bằng chứng
hủy L/C của ngân hàng (nếu lô hàng thanh toán bằng L/C).
Khi đã hoàn thành các thủ tục cấp đơn bảo hiểm, cán bộ khai thác gửi đơn bảo
hiểm đến cho khách hàng. Đồng thời cán bộ khai thác còn phải tiến hành lưu trữ
vào hồ sơ nghiệp vụ gồm một bản phụ của đơn bảo hiểm, vào sổ theo dõi khai thác
thống kê, theo dõi đối tượng bảo hiểm, sửa đổi bổ sung các điều kiện bảo hiểm, đối
tượng bảo hiểm…theo yêu cầu của khách hàng và theo phát sinh thực tế.
Sinh viên: Trịnh Thị Mỹ Hạnh Lớp: Kinh tế bảo hiểm 49
24

×