Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.58 KB, 55 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua đã thu được
nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội, tạo điều
kiện thúc đẩy nhanh quá trình quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt sau khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng chứng tỏ được
tầm quan trọng của mình. Góp phần vaò thành công đó phải kể đến là sự tài trợ
xuất nhập khẩu của tín dụng ngân hàng.
Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt
động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản
thân ngân hàng, bởi vì tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng.
Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 27/11/1992, Eximbank
Hà Nội đã từng bước khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Công
tác tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng trong vài năm trở lại nay đã gặt hái
được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng còn chứa đựng nhiều
điều kiện bất cập có ảnh hưởng xấu tới hoạt động của ngân hàng, đòi hỏi phải
được xem xét một cách nghiêm túc để tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn, làm
lành mạnh hoạt động của ngân hàng, thúc đẩy sự tăng trưởng.
Qua thời gian thực tập tại Eximbank Hà Nội, tôi thấy việc nghiên cứu một
cách có hệ thống nội dung và biện pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc và hoàn
thiện các hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cho phù hợp
với yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường trước ngưỡng cửa hội
nhập và xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế. Chính vì vậy tôi đã chọn chuyên
đề tốt nghiệp của mình là: “Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội -
Thực trạng và giải pháp”


Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương I
LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN V Ề TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Khái niệm
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân
hàng – một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các
tổ chức cá nhân.
Với vai trò trung gian tài chính, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức tiền gửi và tiền vay. Trên cơ sở đó,
ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức, các nhân
khi các tổ chức này thiếu vốn và cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Qua hoạt động này. Ngân hàng đã thực hiện chức
năng phân phối lại tiền tệ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã hội.
Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại tiền tệ của tín dụng
ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn. Trong quá trình tái sản xuất,
việc xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân thường
xuyên xảy ra, trong khi đó lại có các tổ chức cá nhân khác trong tình trạng thiếu
vốn và có nhu cầu cần được bổ sung vốn. Hiện tượng thiếu vốn và thừa vốn
phát sinh do có sự chên lệch về thời gian và số lượng giữa các khỏan thu nhập
và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái sản xuất, kinh
doanh đòi hỏi phải được tiến hành liên tục.
Họat động tín dụng của hệ thống NHTM đã phát huy vai trò đối với lĩnh vực
sản xuất lưu thông hàng hóa trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tái sản xuất kinh doanh, đồng thời
được sử dụng như một công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và
ngành kinh tế chung của đất nước.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2

3
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2Phân loại tín dụng ngân hàng
Có rất nhiều các tiêu chí khác nhau để phân loại tín dụng ngân hàng. Nhìn
chung, ta có thể phân loại như sau:
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn tối đa là 2 tháng
+ Tín dụng trung và dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn thông
thường lớn hơn 12 tháng.
- Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Tín dụng có đảm bảo: Là những khỏan tín dụng mà ngân hàng đòi hỏi
người vay phải có cầm cố hoặc thế chấp hoặc bảo lãnh khi vay vốn tại
ngân hàng.
+ Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng mà ngân hàng chỉ
cho vay dựa trên uy tín, năng lực cũng như phẩm chất của người vay.
- Ngòai ra, tín dụng ngân hàng còn được phân thành: tín dụng thấu chi, tín
dụng tiêu dùng, hay tín dụng ứng trước, ...
1.3Các nguyên tắc trong cho vay của Ngân hàng
Việc cho vay của các tín dụng Việt Nam phải tuân thủ theo quy chế cho vay
của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng do HNNN Việt Nam ban hành.
Theo quy chế này thì khi tiến hành cho vay, ngân hàng và khách hàng phải tuân
thủ các nguyên tắc sau:
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi: Đây là nguyên tắc
cơ bản đầu tiên trong cho vay của ngân hàng, bởi lẽ nguồn vốn mà ngân
hàng cho khách hàng vay được huy động từ nền kinh tế. Do đó ngân
hàng cũng phải trả lãi cho các nguồn vốn này và ngân hàng chỉ thực sự
thực hiện được điều đó khi nhận được cả gốc và lãi từ phía khách hàng.
- Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích: Đây là nguyên tắc ngân
hàng buộc khách hàng phải cam kết khi vay vốn, khi khách hàng thực
hiện tốt cam kết này sẽ giúp cho ngân hàng thuận tiện trong việc giám

sát khoản vay. Tiền được sử dụng đúng mục đích đúng với dự án đã
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
4
Chuyên đề tốt nghiệp
được thẩm định sẽ mang lại tính khả thi cao và đem lại lợi nhuận không
chỉ cho ngân hàng mà cho cả khách hàng.
- Phải có tài sản tương đương làm đảm bảo cho tiền vay: Để vay vốn tại
ngân hàng thì khách hàng phải trình cho ngân hàng các chứng từ, hóa
đơn về mua bán hàng hóa. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ xét duyệt và cho
vay một lượng tiền tương đương với giá trị hàng hóa hoặc tài sản của
khách hàng vay vốn. Đây là nguyên tắc đòi hỏi nghiệp vụ thẩm định của
các cán bộ tín dụng khi cho khách hàng vay.
- Các nguyên tắc khác: Ngòai ra, trong hoạt động tín dụng ngân hàng,
cũng cần quan tâm tới kế hoạch, mục tiêu, cũng như phương hướng hoạt
động của ngân hàng. Trên cơ sở đó chủ động khai thác nguồn vốn trong
nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, đặc biệt là các đơn
vị kinh doanh xuất nhập khẩu
2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XNK
2.1 Sự cần thiết phát triển hoạt động XNK và nhu cầu tài trợ cho XNK
2.1.1 Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào
nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có
sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia
có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định.
Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng
đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm
chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị
trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn
đó đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế.
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra

ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh
tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở
mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và
nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
5
Chuyên đề tốt nghiệp
thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động
thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những
nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ
thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó
tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những
điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng
hơn.
Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua
một số khía cạnh cơ bản sau:
a. Xuất khẩu
- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích
các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ
ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường
quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh
doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi
mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn
nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.

b. Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và
thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất
với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một
cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn địnhvề cung-cầu trong nước và cao hơn là
sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
6
Chuyên đề tốt nghiệp
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ
thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc
cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu
cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho
xuất khẩu.
- Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối
với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế.
2.1.2 Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu
Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu
với sự cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất
trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng
trong cạnh tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu
đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái phù hợp... các doanh nghiệp còn cần
phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới
dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua sắm nguyên vật liệu,
cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành... Song trên thực tế do khả
năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên

ngoài.
Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nảy sinh từ những đòi hỏi
đó và nó gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này.
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng
hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các
nước phát triển, thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các
nước phát triển và đang phát triển...) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam
cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương
mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển
chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công
nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần
phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
7
Chuyên đề tốt nghiệp
đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán tiền hàng.
Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế
mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển
chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ
chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp
ứng nhu cầu vốn tạm thời.
a. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo
dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường
nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
- Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại
các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn
này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành

nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày,
giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán
chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này
không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn
hạn hẹp.
- Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy
tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc
bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc
giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu
là người nước ngoài đang gặp khó khăn về tài cính ,nhà xuất khẩu có thể
đề nghị ngân hàng của mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền
đật cọc và nhà nhập khẩu có ngiã vụ chi trả cho khoản tín dụng đó
- Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ
tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn
như, nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt
quá mức đặt cọc.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
8
Chuyên đề tốt nghiệp
- Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán
tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu
cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản
thanh toán giữa chừng.
- Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy
sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo
điều kiện cung ứng.
- Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được
bàn giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp
chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.

- Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu
được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
- Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu
được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu
đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ
có thể chấp nhận được .Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất
khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái
sản xuất tiếp theo .
b. Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy
mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ
để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà
nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu
cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác
nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các nhà
nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu....
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà
nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
9
Chuyên đề tốt nghiệp
nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị
cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung
ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm
đối với các nhà nhập khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất
trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì

thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn
đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp
thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời
gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập
khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới
khi tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho vay xuất nhập khẩu ở trên ta có thể
khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ
rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới
đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập khẩu.
2.1.3 Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản,
do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những
nguồn tài trợ thường được sử dụng là:
- Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được
thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các
công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn
được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông
qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các
công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng
ra chấp nhận hay bảo đảm.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
10
Chuyên đề tốt nghiệp
- Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp,
phải trả cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây là
nguồn tài trợ mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định.
- Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có

thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ
phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên
và phần lợi nhuận để lại. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm
được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ
này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc
giữ lại lợi nhuận cao.
- Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ
biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát
hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh
doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi
sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường
phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không.
Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó
khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã
nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
- Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp
thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như:
cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay
có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp
ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua
sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh
nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho
thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng
là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn.
- Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
11

Chuyên đề tốt nghiệp
ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay
các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó
nguồn tín dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị
trí đặc biệt đối với sự phát triển của đất nước nói chung và hoạt động xuất nhập
khẩu nói riêng
2.2 Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
2.2.2 Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập
khẩu
a. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học
đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.Tuy nhiên,
theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho
vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động
của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh
vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà
nước và các tầng lớp dân cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả
năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không
ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có
hoạt đọng xuất nhập khẩu, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu
đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia. Sự tham gia hỗ trợ của các
ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu có tác động tích cực không chỉ về mặt
tài chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
b. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được thể
hiện qua các mặt sau:

- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một
nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
12
Chuyên đề tốt nghiệp
mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy mócthiết bị...phục
vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trên thị trường .
Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là
một trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín
dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả
kinh doanh, nâng cao mức doanh lợi. Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt
về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng sẽ khuyến khích sự chủ
động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sao cho
phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau.
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra
thuận lợi và nhanh chóng hơn.
- Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có
mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn
chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo
cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của
ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng
trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
- Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước
ngoài cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn
tài trợ của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó
được thực hiện qua các ngân hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có

ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có
chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp
cho các nhà xuất nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi suất ưu đãi mà
nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của
mình.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
13
Chuyên đề tốt nghiệp
3. CÁC HÌNH THỨC VÀ QUY TRÌNH TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA NHTM
Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hình
thức khác nhau và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những qui định của
pháp luật mà các ngân hàng lựa chọn áp dụng các hình thức cho phù hợp. Dưới
đây ta sẽ xem xét một số hình thức tín dụng xuất khẩu và tín dụng nhập khẩu
thông dụng.
3.1. Tín dụng xuất khẩu
Ngân hàng thương mại cho các cơ sở xuất khẩu vay dưới các hình thức
như cho vay thông thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu, cho vay trên cơ sở
phương thức thanh toán nhờ thu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ ...
3.1.1 Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản
tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay phải
trả đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về kỹ thuật và
phương pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông
thường khác. Nó bao gồm các phương thức như cho vay một lần, cho vay theo
hạn mức tín dụng và cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần hoàn. Đối với các
nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài việc được sử dụng cho các mục
đích thu mua sản xuất, chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó
còn được sử dụng để trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất

như: phí thuê tàu, thuế xuất khẩu...
3.1.2. Tín dụng chiết khấu hối phiếu.
Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết
khấu các hối phiếu chưa đến hạn trả tiền .
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi
đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá trị chiết khấu thường được xác
định ở các ngân hàng theo công thức:
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
14
(1)
Chuyên đề tốt nghiệp
Lck
Tck = M x (1- x t ) - P
360
Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu M: Mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu (ngày)
Lck: lãi suất chiết khấu theo năm
Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn cả.
Tỷ lệ này phụ thuộc các yếu tố: Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu,thời
hạn thanh toán, giá trị hối phiếu...
Qui trình tín dụng chiết khấu hối phiếu


(2)
(3) (4) (7) (8) (10)
(10b)
(5) (10a)
(6) (9) (10)
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
Nhà nhập

khẩu
Nhà xuất
khẩu
Ngân hàng
XK
Ngân hàng
nhà NK
Ngân hàng Trung
Ương ở nước nhà XK
15
Chuyên đề tốt nghiệp
(1) Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu
đòi nợ tới nhà nhập khẩu.
(2) Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho
nhà xuất khẩu
(3) Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối
phiếu đã được chấp nhận.
(4) Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài
khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu).
(5) Ngân hàng nhà xuất khẩu đem hối phiếu đến ngân hàng trung ương
(NHTW), để tái chiết khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.
(6) Khi tới hạn thanh toán, NHTW chuyển hối phiếu cho ngân hàng nhà nhập
khẩu và nhờ thu khoản nợ trên hối phiếu.
(7) Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị
thanh toán.
(8) Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài
khoản của mình.
(9) Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản của NHTW, giá trị hối phiếu
sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được thực hiện.
(10) Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu

chuyển trả hối phiếu cho ngân hàng của mình. Từ đó hối phiếu được chuyển trả
NHTW
(10a) NHTW truy đòi ngân hàng nhà xuất khẩu
(10b) NHTW cũng có thể truy đòi trực tiếp nhà xuất khẩu.
Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước và vai trò của NHTW hết
sức quan trọng. Việc tái chiết khấu của NHTW tạo điều kiện thu hồi vốn cho
các tổ chức tín dụng đặc biệt vào thời điểm phải đảm bảo dự trữ bắt buộc
3.1.3. Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ
sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
16
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh
tương tự như chiết khấu hối phiếu. Lãi xuất chiết khấu phụ thuộc vào phương
thức chiết khấu:
+ Chiết khấu có truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ
chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài từ chối thanh
toán, lãi xuất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp.
+ Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng
từ, nếu bên nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi ro,
không được truy đòi lại khách hàng. Lãi suất chiết khấu này thường cao.
3.1.4 Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh
nghiệp cũng có thể đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất khẩu
cho đến khi thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức tín dụng này
bao gồm hai hình thức cơ bản sau:
+ Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ : Sau khi
lập song bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên
quan khác, nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân

hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc
ngân hàng giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện
D/P: documents against payment) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm
theo (điều kiện D/A: documents against acceptance).
Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian,
thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt những rủi ro về tiêu thụ,
thanh toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ khi gửi các chứng từ tới ngân
hàng xuất khẩu cho tới khi xuất trình với người thanh toán thường mất một
khoảng thời gian nhất định (Đặc biệt khi thoả thuận ngày thanh toán muộn
hơn). Điều này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời.
Khi đó họ có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước một phần trị giá với bộ chứng từ
nhờ thu. Khoản tín dụng này có thể do ngân hàng xuất khẩu hay ngân hàng
nhập khẩu ứng trước.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu
bộ chứng từ nhờ thu nhưng có một số điểm phân biệt đó là:
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
17
Chuyên đề tốt nghiệp
- Ngân hàng không muốn cho vay toàn bộ giá trị hàng như chiết khấu hối
phiếu.
- Nhà xuất khẩu không muốn trả lãi suất chiết khấu cho 100% giá trị hối
phiếu như chiết khấu vì anh ta chỉ cần một phần trị giá hối phiếu.
- Thường nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ
ngắn hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời. Tín dụng ứng trước trong phương
thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng phần.
+ Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ : Tín dụng
chứng từ phục vụ đặc biệt cho việc đảm bảo nhiệm vụ cung ứng và thanh toán
trong trong quan hệ ngoại thương nhưng nó cũng bao hàm cả các nhân tố tín
dụng.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng

với L/C điều khoản đỏ. Đây là loại thư tín dụng qui định một khoản tiền ứng
trước của nhà nhập khẩu cho nhà xuất khẩu vào một thời điểm xác định, trước
khi xuất trình bộ chứng từ hàng hoá. Các điều khoản ứng trước thường được
qui định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận
cấp cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu
chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng
trước này.
Nhà nhập khẩu sẽ qui định rõ tổng giá trị tiền ứng trước , nó có thể là tỉ lệ
phần trăm hoặc thậm chí toàn bộ giá trị L/C (tuỳ thuộc quan hệ với nhà xuất
khẩu) và nhà nhập khẩu sẽ quyết định liệu nhà xuất khẩu sẽ phải xuất trình vật
gì làm đảm bảo cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận khi nhận
tiền ứng trước. Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số
tiền ứng trước cộng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ
chứng từ phù hợp). Nếu nhà xuất khẩu vì một lí do gì đó không xuất trình được
chứng từ phù hợp với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số
tiền này ở ngân hàng mở L/C
Lời lẽ trong điều khoản đỏ có thể thay đổi tuỳ từng ngân hàng nhưng tựu
trung có hai loại:
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
18
Chuyên đề tốt nghiệp
- Điều khoản đỏ trơn:Theo điều khoản này tiền được ứng trước với điều
kiện người xuất khẩu cam kết bằng văn bản tiền sẽ được sử dụng đúng mục
đích quy định.
- Điều khoản đỏ chứng từ: Tiền sẽ được ứng trước nếu nhà xuất khẩu cam
kết cung cấp giấy nhập kho hoặc các chứng từ khác chứng minh quyền sở hữu
hàng hoá và sau đó xuất trình các chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín
dụng.
3.2 Tín dụng nhập khẩu

Các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các
hình thức như cho vay mở thư tín dụng, chấp nhận hối phiếu, cho vay thấu
chi...
3.2.1 Cho vay mở L/C
Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lí trong đó ngân hàng mở L/C cam
kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng phù hợp với
những nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó được hình
thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được thiết lập, nó lại độc
lập hoàn toàn với hoạt động mua bán.
Ngay việc mở L/C đã thể hiện việc cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu
bởi vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu
nhưng không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán tại ngân hàng, trong khi đó L/C lại là một đảm bảo thanh toán
của ngân hàng tức là ngân hàng mở L/C phải chịu mọi rủi ro khi nhà nhập
khẩu không thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đã đến hạn trả
tiền.
Trong thực tế khoảng thời gian từ khi mở L/C đến khi thanh toán L/C là
khá dài. Vì vậy, nếu ngân hàng khống chế số dư trên tài khoản của nhà nhập
khẩu để đảm bảo khả năng thanh toán của L/C thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động kinh doanh của họ. Song mặt khác, nếu không làm như vậy sẽ dễ dẫn
đến L/C không được thanh toán và ngân hàng sẽ bị mất lòng tin của bạn hàng.
Ngoài ra, chúng ta cũng biết rằng nhà nhập khẩu có thể mở L/C bằng
vốn tự có của mình hoặc vay ngân hàng. Nhưng nếu sử dụng vốn tự có để mở
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
19
(6)
(4)
(2)
(7)
Chuyên đề tốt nghiệp

L/C, đến hạn thanh toán với bên nước ngoài mà nhà nhập khẩu không đủ khả
năng thanh toán thì họ phải nhận nợ với ngân hàng và phải chịu lãi suất phạt
cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay (ở Việt Nam lãi suất này thường là
150%). Điều này sẽ đưa đến việc các nhà nhập khẩu yêu cầu các ngân hàng cho
vay trên cơ sở hợp đồng đã kí. Như vậy thì việc sử dụng vay để mở L/C được
sử dụng nhiều hơn.
Để tránh rủi ro, trước khi cho vay các ngân hàng sẽ kiểm tra mục đích, đối
tượng nhập khẩu cũng như khả năng của nhà nhập khẩu để làm căn cứ cho
khoản tín dụng cung cấp.
Qui trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ:


(3) (5) (1) (8)



(1) Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu
được mở một L/C cho nhà xuất khẩu hưởng
(2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và thông
qua ngân hàng đại lí của mình ở nước nhà nhập khẩu thông báo việc mở L/C và
chuyển L/C đến nhà xuất khẩu.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
Nhà xuất
khẩu
Nhà nhập
khẩu
NH phát
hành L/C
Ngân hàng
thông báo

20
Chuyên đề tốt nghiệp
(3) Khi nhận được thông báo trên ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho
nhà xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C
thì chuyển ngay cho nhà xuất khẩu.
(4) Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng nếu
không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp
đồng.
(5) Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C
và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh
toán.
(6) Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu
thanh toán cho nhà xuất khẩu
(7) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì
tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp thì từ chối thanh
toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu.
(8) Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho
nhà nhập khẩu sau khi nhận tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
Ngày nhận nợ được và tính lãi khoản cho vay mở L/C là ngày nhà nhập
khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C)
Cho vay mở L/C cũng có rủi ro cho ngân hàng vì L/C chỉ được xử lí trên
cơ sở chứng từ chứ không căn cứ trên hàng hoá, nếu hàng hoá kém giá trị hay
hư hỏng thì ngân hàng dễ bị tổn thất.
3.2.2 Tín dụng chấp nhận hối phiếu
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là hình thức tín dụng được thực hiện trên
cơ sở ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với nhà nhập khẩu. Trong đó, các ngân
hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh
toán. Hình thức tín dụng này đảm bảo cho nhà nhập khẩu thanh toán khi đến
hạn.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu thường được dùng trong trường hợp người

bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua
có một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do họ kí phát. Nếu ngân
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
21
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng đồng ý cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng
cho bên mua.
Đối với ngân hàng kể từ khi kí chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro, nếu người mua không có tiền thanh toán cho bên
bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, nếu đến thời hạn thanh toán
người mua có đủ tiền thì ngân hàng có thể không phải ứng tiền ra. Như vậy,
khoản tín dụng chỉ là hình thức, một sự đảm bảo tài chính. Lúc này ngân hàng
nhận được một khoản phí chấp nhận, nó là khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh
chịu rủi ro của ngân hàng.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại sự thuận lợi cho không chỉ người
xuất khẩu mà cả với người nhập khẩu:
+ Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu có được một sự đảm
bảo vững chắc về khả năng chi trả của hối phiếu và họ có thể đem hối phiếu đi
chiết khấu tại bất kì ngân hàng nào. Khả năng thương mại của hối phiếu này rất lớn.
+ Đối với nhà nhập khẩu, hình thức tín dụng này có vai trò quan trọng
trong nghệ thuật thương mại, nó tạo cho họ có được uy tín với nhà xuất khẩu và
khả năng thanh toán cần thiết khi đến hạn thanh toán cho nhà nhập khẩu.
3.2.3. Tín dụng ứng trước cho nhập khẩu
Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng rất cần được cho vay
theo hình thức ứng trước của ngân hàng. Đó là khi họ cần phải thanh toán tiền
mặt cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu cũng có thể phát sinh nhu cầu
tài trợ để thanh toán cho bộ chứng từ khi hàng hoá chưa về đến cảng và doanh
nghiệp chưa tiêu thụ được hàng hoá để thu hồi vốn. Ngân hàng tài trợ trong
trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm bảo. Đây
cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng

dành cho các nhà nhập khẩu.
3.2.4. Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp
Theo hình thức này sau khi nhà nhập khẩu kí hợp đồng mua bán hàng với
nhà xuất khẩu nước ngoài nếu họ không có đủ tiền họ có thể xin vay ngân hàng
theo phương thức đề nghị ngân hàng gửi chuyển trả tiền cho người xuất khẩu
thông qua ngân hàng đại lý ở nước ngoài.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
22
(3)
Chuyên đề tốt nghiệp
Nhiều khi nhà nhập khẩu có đủ tiền họ cũng sử dụng hình thức chuyển
tiền. Nhưng trường hợp này ngân hàng không phải cung cấp tín dụng cho nhà
nhập khẩu mà chỉ thực hiện hình thức dịch vụ thông thường và thu phí dịch vụ.
Qui trình tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp


(2) (6) (4)

(1) Giao dịch hàng hoá giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu
(2) Nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền
(3) Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý
(4) Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho nhà xuất khẩu
(5) Thông báo đã hoàn thành việc chuyển tiền
(6) Ngân hàng Nhập khẩu báo nợ cho nhà nhập khẩu
Hình thức tín dụng này, số tiền được chuyển dựa vào trị giá của hoá đơn
thương mại hoặc kết quả của việc nhận hàng về số lượng và chất lượng để quy
ra số tiền phải chuyển. Chuyển tiền bằng thư chậm hơn chuyển tiền bằng điện.
Thường là sau khi nhận hàng hoá mới chuyển tiền để tránh bị nhà xuất khẩu
chiếm dụng vốn.
4. RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG CHO VAY XNK

4.1. Các loại rủi ro trong cho vay XNK
Bất cứ loại hình kinh doanh nào cũng chứa đựng rủi ro nhất định, và đặc
biệt trong kinh doanh ngoại thương thì yếu tố rủi ro là không thể tránh khỏi.
Như chúng ta đã biết, giao thương quốc tế thường là quan hệ từ hai nước trở
lên nhằm thực hiện tòan bộ các giao dịch hàng hóa và dịch vụ. Trong giao dịch
này có những sự khác biệt như: về ngôn ngữ, luật pháp, đồng tiền, phong tục
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
DN NK
DN XK
Ngân
hàng XK
Ngân
hàng XK
(5)
(1)
23
Chuyên đề tốt nghiệp
tập quán trong kinh doanh và khỏang cách địa lý tương đối lớn. Những sự khác
biệt này tạo ra những khó khăn và trở ngại, đồng thời cũng gây ra những rủi ro
cho các bên tham gia vào giao dịch.. Chính các rủi ro trong xuất nhập khẩu là
nguyên nhân quan trọng gây ra rủi ro cho NHTM trong quá trình cho vay xuất
nhập khẩu. Chính vì vậy mà trước khi cấp tín dụng cho các nhà xuất nhập khẩu,
ngân hàng thường phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động
giao thương có ảnh hưởng đến việc hoàn trả các khoản tín dụng cho mình. Việc
nghiên cứu các rủi ro ở đây cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi các rủi ro
này thường có mối quan hệ hữu cơ với nhau, một rủi ro này xảy ra thường kéo
theo các rủi ro khác, chẳng hạn như: Do có rủi ro về tình hình đất nước ở nước
nhập khẩu mà nhà xuất khẩu không thu hồi được vốn, vốn này nhà xuất khẩu
lại vay từ ngân hàng, trong trường hợp này thường kéo theo rủi ro khách hàng
mất khả năng thanh tóan, từ đó mà gây rủi ro cho ngân hàng.

4.1.1 Rủi ro về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đóai là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện
bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác. Nói cách khác, tỷ giá hối đóai là
quan hệ so sánh giữa các loại tiền tệ của hai nước với nhau. Vì vây, đứng về
mặt thương mại, có thể hiểu tỷ giá hối đoái là thước đo về sức mua của đồng
tiền nước này so với sức mua của đồng tiền nước khác tại một thị trường và tại
một thời điểm nhất định.
Tỷ giá hối đóai luôn biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng
ngày. Từ đó kéo theo ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước và hầu hết các hoạt
động thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu.
Chúng ta đều biết rằng khi tỷ giá hối đóai tăng tức là số lượng tiền nội
địa đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng (tiền nội địa mất giá) sẽ có tác động kích
thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đóai giảm sẽ
kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Qua đó, cho thấy sự tác động của tỷ
giá tới hoạt động xuất nhập khẩu là sự tác động trực tiếp và rất mạnh mẽ. Từ đó
sẽ có tác động mạnh tới họat động cho vay của ngân hàng. Bởi lẽ khi có rủi ro
về hối đóai xảy ra nó sẽ tác động tới những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu và qua đó sẽ có tác động tới ngân hàng, sự tác động này lớn hay nhỏ tùy
thuộc vào vốn mà khách hàng vay của ngân hàng.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Ví dụ sau minh họa rõ nét cho trường hợp này: Một doanh nghiệp vay
một khoản vốn ngân hàng trị giá vay là 160.000.000 VND, có nghĩa là tại thời
điểm đó trị giá khoản vay là 10.000 USD. Nhưng khi doanh nghiệp xuất hàng
thu được 10.000 USD về với tỷ giá lại là 1 USD = 15000 VND, tức là lúc này
doanh nghiệp chịu rủi ro hối đóai với khoản thu về là 150.000.000 VND và
chịu lỗ một khoản tiền là 10.000.000 VND, với số tiền thu được đó doanh
nghiệp sẽ không đủ để trả cho ngân hàng. Từ đó, rủi ro cho doanh nghiệp sẽ
gây ra rủi do cho ngân hàng, ngân hàng sẽ rất khó thu hồi đầy đủ khoản vốn mà

mình đã cho vay.
4.1.2 Rủi ro do khách hàng không hoàn trả
Rủi do do khách hàng không hoàn trả là khi ngân hàng sử dụng mội biện
pháp để truy đòi mà vẫn không thu hồi được nợ hoặc thu không được là bao so
với khoản vốn mà mình đã bỏ ra. Loại rủi ro này được đánh giá trên hai giác
độ:
a. Rủi do do khách hàng mất khả năng thanh tóan
Đây là hiện tượng xảy ra khi khách hàng của ngân hàng gặp rủi ro trong
kinh doanh. Với nhà xuất khẩu, các rủi ro thường gặp như: thiên tai, bị mất cắp,
… khi hàng hóa đang trên đường vận chuyển hoặc trong khi nhà xuất khẩu
đang vay tiền ngân hàng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu thì nhà nhập khẩu đột
nhiên lại từ bỏ hợp đồng mà quá trình mua hàng nhà nhập khẩu đã hoàn tất.
Với các nhà nhập khẩu, các rủi ro gặp phải khi không tiêu thụ được hàng hóa,
hàng giảm giá dẫn đến không thu hồi được vốn trả ngân hàng.
Các rủi ro trong kinh doanh mà nhà nhập khẩu và xuất khẩu gặp phải đã
gián tiếp gây lên rủi do cho ngân hàng vì khách hàng không thể hoàn trả lại
khoản tín dụng.
b. Rủi do do khách hàng không thanh tóan
Đây là loại rủi ro xảy ra khi người vay thực hiện không tốt những điều
khoản trong hợp đồng. Bản thân khách hàng vẫn có khả năng chi trả nhưng họ
không chịu hoàn trả. Đây là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau
khi diễn ra cuộc giao dịch.
Nguyễn Thị Anh Thư Ngân hàng K15 – VB2
25

×