Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.81 KB, 102 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






TRẦN THỊ HUYỀN TRANG





BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Trần Thị Huyền Trang

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt


MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ
EM KHUYẾT TẬT 9
1.1. Trẻ em khuyết tật 9
1.1.1. Khái niệm trẻ em 9
1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật 11
1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ 17
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ 18
1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật 20
1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật 22
1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật 22
1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật 27
Tiểu kết chƣơng 1 29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM
KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 30
2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 30
2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh
vực xây dựng pháp luật 31
2.2.1. Thành tựu 32
2.2.2. Hạn chế 34
2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật 37
2.3.1. Quyền được giáo dục 38
2.3.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội 42
2.3.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe 46
2.3.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí 50
2.3.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng 53
2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong cộng đồng 57
2.4.1. Thành tựu 57

2.4.2. Hạn chế 60
Tiểu kết Chƣơng 2 63
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT 64
3.1. Phƣơng hƣớng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật 64
3.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về trẻ
em khuyết tật 64
3.1.2. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật 65
3.1.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền về trẻ em khuyết tật trong
cộng đồng 67
3.1.4. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế 67
3.2. Giải pháp Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật 69
3.2.1. Về xây dựng pháp luật 70
3.2.2. Về một số quyền cụ thể 75
3.2.3. Về phía cộng đồng 84
3.2.4. Về phía bản thân trẻ khuyết tật 86
Tiểu kết chƣơng 3 89
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the
Rights of the Childs)
CRPD Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (Convention on
the Rights of Persons with Disabilities)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966
(International Convenant on Civil and Political Rights)
ICCSCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996
(International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights).

UDHR Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal
Declaration of Human Rights)


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm
xã hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc
thành lập (1945), nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này
thông qua, trong đó có một số lượng ngày càng lớn văn kiện đề cập đến quyền
của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Đây là các nhóm, cộng đồng có vị thế
về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn
trong việc bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần
được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Nhóm
này bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV,
người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người thiểu
số, người lao động di trú… Trong đó, người khuyết tật nói chung và trẻ em
khuyết tật nói riêng được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất trên thế
giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất.
Quyền của người khuyết tật được pháp luật quốc tế ghi nhận, và ngày
càng được quan tâm đặc biệt. Tháng 11 năm 1989, Công ước về Quyền trẻ em
được thông qua, đây là Công ước đầu tiên về quyền con người mà trong đó có
dẫn chiếu cụ thể đến người khuyết tật, và có một điều riêng biệt về quyền và
nhu cầu của trẻ em khuyết tật (Điều 23). Sau đó, hàng loạt các hướng dẫn, các
quy tắc, các khuyến nghị về vấn đề này được ban hành nhằm thúc đẩy và bảo
vệ hơn nữa quyền của nhóm người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật
nói riêng, quan trọng nhất là Công ước về quyền của những người khuyết tật
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007 đã đánh dấu

một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật
trên thế giới.

2
Ở Việt Nam, người khuyết tật được hưởng tất cả các quyền công dân
cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật
của họ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định những đối xử ưu đãi với
người khuyết tật, nhằm bù đắp những thiệt thòi của họ, cũng như để đảm bảo
sự bình đẳng thực chất về các quyền và cơ hội với mọi công dân. Đặc biệt,
Luật người khuyết tật năm 2010 vừa mới được thông qua, đã góp phần cải
thiện đời sống người khuyết tật, làm thay đổi nhận thức xã hội về người
khuyết tật, tạo môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi để người
khuyết tật hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật.
Nhưng trên thực tế, xuất phát từ việc bản thân người khuyết tật bị hạn
chế trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng, xã hội,
cũng như những cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật, nên các quy định
Nhà nước đưa ra thường dựa trên cơ sở suy đoán về mức độ suy giảm sức
khỏe của họ. Những suy đoán đó đa phần chứa đựng yếu tố chủ quan nên
nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu, không phù hợp với khả năng và chưa
thực sự tạo điều kiện cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, họ là đối tượng phải
chịu những khó khăn rất lớn về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời, tình trạng
khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội mặc dù xét ở góc độ con người, tất cả sinh ra
đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau về sự tự do, bình đẳng, được tôn
trọng phẩm giá, được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân…
Đặc biệt, với những trẻ em khuyết tật, thì những khó khăn còn tăng lên
đáng kể. Bởi trước hết, trẻ em nói chung vốn là đối tượng cần sự quan tâm,
chăm sóc, được tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cả về thể chất
lẫn tinh thần. Tuy nhiên, với những trẻ em mang trong mình nhiều thiệt thòi

từ khi sinh ra như: dị tật bẩm sinh; vĩnh viễn không nghe được âm thanh của

3
cuộc sống; không được trò chuyện như các bạn cùng trang lứa; hay không
cảm nhận thấy ánh sáng của cuộc đời… thì việc tiếp cận những gì tốt đẹp nhất
dường như quá xa vời. Phải sống trong sự kì thị, phân biệt đối xử của mọi
người xung quanh, kết hợp với mặc cảm tự ti về bản thân mình, khiến nhiều
trẻ em khuyết tật không dám đến các nơi công cộng vì sợ những ánh mắt để ý;
không dám đến trường vì sợ bạn bè trêu chọc… Bên cạnh đó, một thực tế chỉ
ra rằng, đa số trẻ em khuyết tật đều sống trong nghèo khó; và dễ bị bạo hành
hoặc lạm dụng; bị đối xử vô trách nhiệm, ngược đãi hay bóc lột; trong khi đó,
việc tiếp cận với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lại gặp nhiều trở ngại vì
những lý do khách quan và chủ quan. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật thực sự
phải trải qua nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rào cản để được hưởng
trọn vẹn những quyền vốn có của mình. Rào cản này không chỉ nằm ở bản
thân của sự khuyết tật, mà còn là tổng hợp những trở ngại về mặt xã hội, văn
hóa, quan điểm và cả về vật chất mà trẻ em khuyết tật phải đối mặt trong đời
sống hàng ngày.
Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Bảo đảm quyền
của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của
mình. Với cách tiếp cận thông qua lăng kính nhân quyền, luận văn mong
muốn góp phần tích cực vào việc đề xuất những ý kiến, giải pháp trong hoạch
định và thực thi chính sách pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam. Đồng thời qua đó, nâng cao hiểu biết, thái độ cảm thông đến nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên
chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng được chú trọng


4
thì quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương nói chung và quyền của người
khuyết tật nói riêng cũng nhận được nhiều chú ý, các công trình nghiên cứu
về vấn đề này cũng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng.
Bên cạnh đó, trẻ em cũng là chủ đề đã được nghiên cứu từ rất lâu, với
nhiều công trình dưới các hình thức như giáo trình, sách chuyên khảo, tham
khảo, luận án, luận văn, bài báo, các buổi hội thảo… nhằm mục đích tăng
cường hơn nữa công tác bảo vệ lợi ích và quyền của trẻ em trong phạm vi
quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát
về nhóm người khuyết tật hoặc nhóm trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại,
chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện, đi sâu về lĩnh vực
Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam dưới góc độ quyền con
người nhìn từ chính sách đến thực tiễn thi hành.
Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên
cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau:
- Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật quốc tế về quyền
của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động – xã hội.
- Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật
về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu
khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
- Lê Bạch Dương – Đặng Nguyên Anh – Khuất Thu Hồng – Lê Hoài
Trung – Robert Leroy Bach (2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi
ở Việt Nam, Nxb Thế giới
- Hà Đình Bốn – Phó Vụ trưởng vụ Pháp chế - Bộ Lao động thương
binh và xã hội, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của
Chính phủ, Đặc san (2010), “Tuyên truyền pháp luật, (số 05), Chủ đề: Luật
người khuyết tật”, Hà Nội.


5
- Báo cáo đánh giá (2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam –
Đưa luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về
Quyền của Người khuyết tật, tháng 12/2009, của Eric Rosenthal và Viện
Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của
UNICEF Việt Nam.
- Báo cáo của nghiên cứu viên về (2011), Người khuyết tật ở Việt Nam,
Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam, là xuất
bản phẩm thứ 9 trong tập hợp các ấn phẩm được Quỹ dân số Liên hợp Quốc
(UNFPA) công bố vào 2011.
- Báo cáo thường niên năm (2010), Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật
Việt Nam, của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD.
- Báo cáo (2010), Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam, 2010 do
UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em.
Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu về người khuyết tật
khá phong phú, song so với yêu cầu thực tiễn thì còn khiêm tốn, chỉ dừng lại
ở mức chung, khái quát nhất, chưa đi sâu vào các mảng cụ thể. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề Quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam trong thời điểm
hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ góp phần
làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm
kiến thức về đảm bảo quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em
khuyết tật nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở
nước ta hiện nay trong các khía cạnh xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật,
từ phía cộng đồng… Từ đó rút ra được các quyền mà trẻ em khuyết tật dễ bị
xâm phạm và bị bỏ qua trên thực tế.


6
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách về bảo
đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt nam hiện nay, hướng đến phù hợp với
pháp luật quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền của trẻ em khuyết tật.
- Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối
chiếu với pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
- Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật ở Việt Nam: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút
ra được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó.
- Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật
và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
- Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong
pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác
động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lenin; Các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về
quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng
trên thế giới.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng
hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên

7

quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn
đề quyền của trẻ em khuyết tật.
6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con
người về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật; giúp người đọc nhận thức đầy
đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về quyền và đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật.
Luận văn cũng nêu bật được các quyền mà trẻ em khuyết tật Việt Nam
dễ và đang bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc
đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật, rút ra nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là cơ sở cho
việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức đảm bảo
quyền cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
7. Điểm mới của luận văn
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ
thống thông qua lăng kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, và đã có những điểm mới nổi bật như sau:
- Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến trẻ
em khuyết tật, luận văn đã đưa ra được khái niệm trẻ em khuyết tật, khái niệm
quyền trẻ em khuyết tật và khái niệm đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng bảo đảm quyền của
trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực cụ thể, nêu rõ thành tựu, hạn chế và
đưa ra được nguyên nhân có các thành tựu và hạn chế đó.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm có hiệu quả
các quyền của trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi pháp
luật, thái độ của cộng đồng và nhận thức của bản thân trẻ bị khuyết tật.

8
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau:
Chương 1. Lý luận chung về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam.







9
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT

1.1. Trẻ em khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Từ lâu, trẻ em vốn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương và được nhà nước, cá nhân, các tổ chức xã hội quan tâm bảo vệ. Do
đó, việc xác định thế nào được gọi là trẻ em chính là cơ sở để thực hiện và
phát huy sự quan tâm đó.
Trong Công ước về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of
the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến
thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18
tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1). Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay
trong lời nói đầu của Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất

và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích
hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những
người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non nớt về
thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là người
từ 0 đến dưới 18 tuổi.
Do mỗi nước có quan niệm không giống nhau về trẻ em, nên độ tuổi
được xác định là trẻ em cũng khác nhau, và Công ước về quyền trẻ em đã quy
định vấn đề này theo hướng mở. Tức là, tuổi 18 được coi là mức tiêu chuẩn
nhưng không phải cố định, bắt buộc, mà cho phép mỗi quốc gia tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội của nước mình, có thể quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn
(dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, việc quy định mang tính chất mềm dẻo này, có thể

10
làm số lượng trẻ em được bảo vệ theo Công ước giảm đi ở một số nước, nhưng
lại có tác dụng tích cực trong việc tăng lên về số lượng các quốc gia chấp nhận
tham gia công ước. Điều đó kéo theo việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo quy
định của điều ước quốc tế này trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới.
Liên quan đến khái niệm Trẻ em, Liên hợp quốc còn dùng khái niệm
“người chưa thành niên”. Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu,
phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa
thành niên ngày 20/11/1985) nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi”. Họ là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý,
trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều
kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào
các hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm
này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Liên hợp quốc đặt các em trong đối
tượng điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích
bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các
nước thành viên tham gia CRC phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích
cực, huy động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành

niên nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên
phạm pháp một cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả.
Ở Việt Nam cũng không có một định nghĩa chung về trẻ em.
Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì trẻ
em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi là trẻ em
trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công ước quốc
tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với CRC vì Điều 1
Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là
trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
Bên cạnh khái niệm trẻ em, cũng giống như pháp luật quốc tế, pháp luật

11
Việt nam còn có khái niệm “người chưa thành niên” (là những người dưới 18
tuổi theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005); “lao động chưa
thành niên” (là những người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi theo quy định
tại Điều 119 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006,
2007), và “người chưa thành niên phạm tội” (là những người phạm tội khi còn
dưới 18 tuổi, theo các quy định có liên quan trong Bộ luật Hình sự năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009). Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo Luật giáo dục
năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 lại quy định người đang được nuôi
dưỡng, đào tạo trong hệ thống giáo dục mầm non “từ ba tháng đến sáu tuổi”
được coi là trẻ em (Điều 21), còn người từ 6 tuổi đến 18 tuổi gọi là học sinh.
Mặc dù không có một điều khoản thống nhất quy định rõ ràng về độ
tuổi trẻ em, nhưng về cơ bản, các quy định xung quanh khái niệm này đều
tương thích với điều khoản ghi nhận tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em
1989. Do đó, có thể đưa ra định nghĩa chung nhất về trẻ em ở Việt Nam đó là:
Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, vẫn còn non nớt về thể chất và trí tuệ, do
đó cần sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền. Đây là cách định nghĩa phù hợp
với tinh thần của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời không mâu thuẫn
với quy định của pháp luật quốc tế. Việc xác định thống nhất khái niệm về trẻ

em có ý nghĩa khá quan trọng. Bởi nó sẽ là cơ sở để làm rõ các khái niệm có
liên quan đồng thời tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật
Trên phạm vi quốc tế lẫn khu vực hiện nay, chưa có một khái niệm cụ
thể về trẻ em khuyết tật. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì
vậy, để hiểu chính xác khái niệm trẻ em khuyết tật, trước hết, cần đi tìm hiểu
khái niệm người khuyết tật.
Trong một thời kỳ dài, người khuyết tật được coi là đối tượng phúc lợi

12
xã hội, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương và lòng nhân đạo
chứ không được nhìn nhận dưới tư cách chủ thể có quyền như công dân bình
thường. Những văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người
được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như: Tuyên ngôn
quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International
Convenant on Civil and Political Rights – ICCPR); Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic,
Social and Cultural Rights – ICCSCR)… cũng không trực tiếp đề cập đến
người khuyết tật.
Đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX, dưới sự đấu tranh mạnh mẽ của
người khuyết tật và các hiệp hội của họ trên thế giới, nhận thức về người
khuyết tật là đối tượng của phúc lợi xã hội mới dần dần được thay thế thông
qua việc coi trọng năng lực của nhóm đối tượng này và coi vấn đề khuyết tật
là vấn đề bình thường trong xã hội. Sự chuyển biến về nhận thức đã dẫn đến
thay đổi cả cách gọi tên của nhóm này. Thay cho việc dùng từ Những người
tàn tật (Disable persons) có hàm ý miệt thị và hạ thấp, hiện nay, nhóm xã hội
này được gọi một cách tôn trọng là Những người khuyết tật (Persons with
Disabilities). Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi nhận thức đó diễn ra trong

khoảng thời gian tương đối dài và không phải đã hết sự khác biệt.
Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác
nhau về khái niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: quan điểm
khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. [25]
- Quan điểm khuyết tật cá nhân hay Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y
tế: Cho rằng khuyết tật là do chính bản thân con người đó, không liên quan quá
nhiều đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh
người khuyết tật. Quan niệm này nhìn nhận người khuyết tật như những người

13
có vấn đề về thể chất, cần được chữa trị bằng các phương pháp khoa học như:
thuốc điều trị hoặc công nghệ trị liệu. Lý giải rõ thêm cho quan điểm này, Tổ
chức y tế thế giới (WHO) đã phân ra ba loại mức độ suy giảm đó là: Khiếm
khuyết (impairment), Khuyết tật (disability), và Tàn tật (Handicap). Trong đó:
Khiếm khuyết chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình thường của một
hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khuyết tật chỉ sự giảm
thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn Tàn tật để chỉ
tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của
môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ.
Như vậy, quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật y tế
nhìn nhận vấn đề khuyết tật là hạn chế ở chính bản thân họ. Mô hình này chú
trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Khi bị
khuyết tật, chính bản thân những người này cần phải thay đổi chứ không phải
xã hội hay môi trường xung quanh họ cần phải thay đổi.
- Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: cho rằng, nhiều người bị
khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng xã hội đã biến họ thành khuyết tật;
con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô
hình này coi xã hội là vấn đề cần giải quyết, và giải pháp là phải thay đổi toàn
bộ xã hội. Bên cạnh đó, nhấn mạnh việc xóa bỏ các yếu tố rào cản, tạo điều
kiện cho người khuyết tật được đối xử như những người bình thường khác,

giúp họ nhận thức đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân.
Đây là mô hình khá nổi trội trong những nghiên cứu về khuyết tật trên thế
giới vào những năm 1990, nó được coi là mô hình có cơ sở lý thuyết và có
quy tắc riêng, là nền tảng những biến chuyển của vấn đề người khuyết tật.
Điểm khác biệt chủ yếu giữa hai quan điểm này là: nếu ở mô hình y tế,
nguyên nhân gây nên khuyết tật được xác định là do chính bản thân người
khuyết tật thì ở mô hình xã hội, khởi nguồn khuyết tật là ở xã hội. Hơn nữa,

14
bản chất của mô hình y tế là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ
người khuyết tật; còn mô hình xã hội, bản chất của khuyết tật là các rào cản
đã ngăn cản người khuyết tật tham gia vào các hoạt động đời sống. Nhìn
chung mỗi quan điểm đều có những điểm mạnh và hạn chế nhất định: Quan
điểm khuyết tật y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như y tế phục
hồi chức năng và đảm bảo xã hội. Còn quan điểm khuyết tật theo mô hình xã
hội cho thấy nguyên nhân gốc rễ của việc người khuyết tật bị tách biệt khỏi
cuộc sống chung, những bất lợi và vấn đề phân biệt đối xử.
Hiện nay trên thế giới, cũng không có khái niệm về người khuyết tật
được áp dụng chung cho tất cả các nước. Tùy vào điều kiện kinh tế xã hội,
truyền thống văn hóa mà mỗi quốc gia có định nghĩa khác nhau về vấn đề
này. Như, Điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ
người khuyết tật năm 1990 quy định:
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường,
mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lí hay
sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất
toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một
cách bình thường.
Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời
nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn
tâm thần, khuyết tật nhiều và/hoặc khuyết tật khác.

Còn Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định
nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh
phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và
mắc bệnh về tâm thần.
Hay ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa:

15
Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí
lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so với người có cùng
độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này
là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc
sống xã hội.
Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa: “Người
khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng
đáng kể đến một hay nhiều hoạt động trong cuộc sống”. Cũng theo đạo luật
này, những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động,
thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những
khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim,
tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (Có triệu
chứng hoặc không có triệu chứng).
Tháng 03/2007, Công ước về quyền của người khuyết tật (Convention
on the Rights of Persons with Disabilities - CRPD) đã được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con
người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong
cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó,
tại Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm
khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác
với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và
trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc
dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái

niệm “người khuyết tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về
“người khuyết tật” được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người,
nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này.
Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người

16
khuyết tật hoặc người tàn tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ
cùng một khái niệm, và được dùng song song trên cả phương tiện truyền thông
đại chúng và văn bản pháp quy. Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998
định nghĩa người tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ
thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm
khả năng hoạt động khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá
trình hội nhập quốc tế, cụm từ “Người tàn tật” ngày càng được sử dụng ít đi,
thay vào đó là cụm từ “Người khuyết tật” với mục đích tạo sắc thái tình cảm
tích cực, coi trọng hơn, đề cao khả năng phục hồi hơn. Trong cuộc hội thảo do
Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD)
và Tổ chức Cứu trợ và Phát triển (CRS) thực hiện thì có đến 17 trên tổng số
19 ý kiến cho rằng nên thay cụm từ tàn tật bằng khuyết tật. [31]
Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01/01/2011 thay thế Pháp
lệnh về người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật”
thay cho khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với xu hướng nhìn
nhận chung của thế giới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người
khuyết tật 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một
hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới
dạng tật khiến cho lao đô
̣
ng, sinh hoa
̣

t, học tập gặp khó khăn.” Khái niệm này
được đưa ra dựa vào mô hình xã hội và về cơ bản phù hợp với khái niệm
người khuyết tật trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007.
Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ
em, theo tác giả, Trẻ em khuyết tật được hiểu là những trẻ từ 0 đến 18 tuổi có
khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm
hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, xã hội.

17
Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ em khuyết tật rất quan
trọng nhưng không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi
các tiêu chí xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực
sự thống nhất. Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người
khuyết tật để hình thành khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó,
là cơ sở để phân loại, nghiên cứu, chăm sóc và bảo vệ nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương này.
1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ
Trẻ em khuyết tật trước hết là con người nên họ mang những đặc điểm
chung về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người. Tuy nhiên,
do khiếm khuyết về mặt thể chất nên họ có nét đặc thù tương đối so với trẻ
không khuyết tật, và cũng bởi những khiếm khuyết đó, mà họ gặp không ít
khó khăn trong quá trình sinh hoạt và tham gia vào các hoạt động xã hội.
Trước hết, trẻ khuyết tật sẽ gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc bản
thân mình. Bởi do khiếm khuyết của cơ thể nên hầu hết công việc sinh hoạt
hàng ngày của trẻ phải dựa vào người thân trong gia đình. Đây là ảnh hưởng
trực tiếp nhất mà tình trạng khuyết tật gây ra cho chính bản thân họ.
Thứ hai, tình trạng khuyết tật gây khó khăn cho trẻ trong việc tiếp cận
cơ sở vật chất kĩ thuật và tham gia đầy đủ hoạt động giáo dục, việc làm, bệnh
viện, công trình phúc lợi xã hội… Bởi các thiết kế công cộng thường chỉ dành

cho những người có chức năng được thực hiện bình thường, việc xây dựng
làn đường, hoặc lối đi dành riêng cho người khuyết tật chưa phổ biến. Do vậy,
trẻ em khuyết tật khó tiếp cận với các dịch vụ giao thông, công cộng, giáo
dục, việc làm… dẫn đến họ bị cô lập hoặc loại trừ khỏi sinh hoạt của cộng
đồng. Từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng, tiếp cận giáo dục… trẻ
khuyết tật bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn và cơ hội việc

18
làm thấp hơn. Khó khăn về vật chất dẫn đến thiệt thòi về tinh thần, tình trạng
khuyết tật này làm tăng nguy cơ nghèo đói, và sự nghèo đói lại làm tình trạng
khuyết tật trầm trọng hơn rất nhiều.
Thứ ba, khó khăn xuất phát từ tâm lý tự ti, mặc cảm, và thái độ kỳ thị
của xã hội nói chung. Bởi quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu
cực, dẫn đến sự kì thị và phân biệt đối xử. Điều này diễn ra dưới nhiều hình
thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau như gia đình, cộng đồng, trường học… Đối
với cộng đồng, trẻ khuyết tật được nhìn nhận là đối tượng “đáng thương”,
không có cuộc sống “bình thường”, là “gánh nặng” của toàn xã hội. Trong khi
những quy định ghi nhận ở nhiều đạo luật, nghị định lại chưa phổ biến, người
dân không biết đến sự tồn tại của các quy định đó nên không hiểu được trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với trẻ em khuyết tật là như thế nào… Từ đó,
dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến trạng
thái tâm lý của trẻ khuyết tật, khiến các em tự xây cho mình một rào cản với
thế giới bên ngoài. Đây chính là khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đến mọi hoạt động của trẻ em khuyết tật.
Có thể thấy, tình trạng khuyết tật gây ra ảnh hưởng lớn đến không chỉ
bản thân trẻ khuyết tật mà còn với cả gia đình có trẻ khuyết tật. Từ đó, hình
thành nên những rào cản hữu hình và vô hình, cản trở trẻ khuyết tật tham gia
vào các hoạt động xã hội, khó có điều kiện phát huy năng lực bản thân, hòa
nhập vào cộng đồng. Do vậy, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế
phần nào tác động tiêu cực mà tình trạng khuyết tật đã gây ra.

1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ
Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến khuyết tật ở trẻ em. Mặc dù chưa có
bằng chứng chính xác, nhưng có thể tổng hợp căn cứ vào tình hình khuyết tật
ở trẻ em và chia ra làm các nguyên nhân sau:
Một là, do di truyền gây dị tật bẩm sinh. Nguyên nhân của tình trạng

19
này là bởi kết hôn giữa những người cùng dòng máu. Vì thế, để ngăn ngừa,
cần tăng cường kiến thức về hôn nhân, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ
về vấn đề này.
Hai là, trong thời kỳ mang thai, người mẹ bị ốm; sử dụng các chất kích
thích; bị nhiễm các chất độc hại trong môi trường như: chì, thủy ngân,
amiăng Do đó, cần tăng cường giữ gìn sức khỏe cho mẹ và bé, đẩy mạnh
chương trình miễn dịch đối với những căn bệnh có thể phòng ngừa như tiêm
vacxin cúm, sốt, quai bị…
Ba là, do thiếu dinh dưỡng, bệnh tật để lại di chứng như trẻ có thể bị
mù do thiếu vitamin A, viêm não, sốt xuất huyết, sốt bại liệt Vì vậy, cần
tăng cường chăm sóc trước khi sinh cho trẻ, đảm bảo cung cấp đầy đủ và có
chất lượng các dịch vụ y tế trước, trong và sau khi sinh. Đồng thời, nâng cao
nhận thức của cha mẹ đối với vấn đề chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cơ
bản cho con em mình.
Bốn là, do tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, trong sinh
hoạt và tham gia lao động. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
khuyết tật đối với trẻ em ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, cần thiết lập
và thực thi có hiệu quả các chính sách về an toàn giao thông, về an toàn và
bảo hộ lao động…
Năm là, do ảnh hưởng của chiến tranh, tàn tích của các loại vũ khí cũng
là nguyên nhân gây ra tình trạng khuyết tật ở nhiều nước trên thế giới. Như ở
Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất là khi Mỹ rải thuốc
diệt cỏ chứa chất độc đioxin đã ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, và gây ra

tình trạng khuyết tật ở những đứa trẻ được sinh ra từ bố mẹ từng bị phơi
nhiễm chất độc này. Vì vậy, cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo
vệ trẻ em khỏi những tác động có hại của chiến tranh và xung đột vũ trang đó.
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em với tính

20
chất và mức độ rất khác nhau. Do vậy, cần nhận biết và ngăn chặn sớm để
giảm bớt phần nào số trẻ em bị khuyết tật đang ngày càng gia tăng trên phạm
vi toàn cầu. Đồng thời việc xác định rõ nguyên nhân gây ra khuyết tật của trẻ
sẽ là cơ sở giúp phân loại trẻ em khuyết tật, từ đó có cách chăm sóc và giáo
dục cho phù hợp với từng loại trẻ.
1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật
Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể, riêng biệt về trẻ em khuyết
tật, vì vậy khi phân loại, sẽ dựa vào dạng tật và mức độ khuyết tật được ghi
nhận trong Luật Người khuyết tật năm 2010. Cụ thể:
- Căn cứ trên dạng tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm:
Một là, khuyết tật vận động: Là những trẻ có cơ quan vận động bị tổn
thương, biểu hiện dễ nhận thấy là khó khăn trong việc nằm, ngồi, di chuyển,
cầm, nắm… Do đó, trẻ khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh
hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Vì vậy trẻ khuyết tật vận động
cần được hỗ trợ về phương tiện đi lại như xe lăn, gậy chống; và đặc biệt là
không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển.
Hai là, khuyết tật nghe nói: Là những trẻ gặp khó khăn trong việc giao
tiếp xã hội, dẫn đến hạn chế trong sinh hoạt, làm việc, học tập và hòa nhập
cộng đồng. Để tiếp nhận thông tin, trẻ cần có sự trợ giúp của ngôn ngữ kí
hiệu, trợ giúp của công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, ngôn ngữ kí hiệu cũng có
nhiều hạn chế vì không thể phản ánh được đầy đủ tính chất, mức độ và hoạt
động của cuộc sống như tiếng nói hay chữ viết.
Ba là, Khuyết tật thị giác: là những tật về mắt khiến trẻ giảm hoặc mất
khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều

kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Đối với trẻ khiếm thị công cụ hỗ
trợ di chuyển là chiếc gậy, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và
dễ nhận biết….

×