Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.47 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ Việt Nam là một lực lượng có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng và trong sản xuất. Với tinh thần yêu nước sâu sắc, phụ nữ
Việt Nam đã dũng cảm tham gia vào các phong trào giải phóng dân téc, giải
phóng giai cấp và giải phóng chính mình. Ngày nay, trong không khí sôi
động của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, phụ nữ Việt Nam phát huy
truyền thống dân téc, truyền thống phụ nữ hăng hái tham gia vào các hoạt
động xây dựng và phát triển đất nước trong thêi kỳ mới. Quá trình đó cùng
với đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động. Cơ chế kinh tế
mới đã làm cho mọi hoạt động của người dân Việt Nam nói chung, phụ nữ
nói riêng càng trở nên năng động, sáng tạo hơn, đồng thời ở họ từng bước
hình thành những chuẩn mực, những quan hệ đạo đức mới trong xã hội.
Qua 15 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng được giữ
vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng, đời sống của nhân dân từng bước
được nâng lên. Tuy nhiên, trên bước đường thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế thị
trường với những mặt trái của nó đã tác động đến các tầng líp xã hội, trong
đó có phụ nữ. Vấn đề việc làm, sự nghèo đói, các tệ nạn xã hội có xu hướng
gia tăng, nạn mại dâm, ma túy, hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ đang là
những vấn đề bức bách; những giá trị đạo đức truyền thống Ýt được chú
trọng, có nơi, có lúc còn bị mai mét. Trong xã hội xuất hiện những thái độ,
hành vi đạo đức không lành mạnh trong các quan hệ xã hội, một bộ phận
người dân nói chung, phô nữ nói riêng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
1
sống. Tình trạng đó lan tràn ở nhiều nơi, ảnh hưởng tới đạo đức người phụ
nữ. Do vậy, việc kế thừa, giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
dân téc nói chung, truyền thống phụ nữ nói riêng trong việc xây dựng đạo


đức mới của người phụ nữ là công việc rất cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống dân téc từ trước tới nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu như: "Giá trị truyền thống của dân téc
Việt Nam" của GS Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội, 1980); "Tìm hiểu
tính cách dân téc" của GS Nguyễn Hồng Phong (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1963). Trong các công trình nghiên cứu đó, các nhà nghiên cứu đã đưa
ra những giá trị đạo đức truyền thống dân téc được hình thành trong lịch sử
và vận động tới ngày nay.
Giá trị đạo đức truyền thống phụ nữ là một bộ phận của giá trị đạo
đức truyền thống dân téc. Vì vậy, nghiên cứu về truyền thống đạo đức của
phụ nữ GS Trần Quốc Vượng đã có công trình nghiên cứu "Truyền thống
phụ nữ Việt Nam" do Nxb Văn hóa - dân téc phát hành năm 2000. Ngoài ra
còn có nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu về truyền thống đạo đức người phụ
nữ.
Trước những đổi thay không ngừng của đất nước, nhiều chuẩn mực
đạo đức mới ra đời, nhưng cũng nhiều giá trị đạo đức truyền thống dân téc
bị mai mét, suy thoái. Vì vậy, việc nghiên cứu, xác định các giá trị đạo đức
truyền thống cần được kế thừa, phát huy trong điều kiện mới có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu như: Hội nghị khoa học "Giá trị văn hóa tinh
thần Việt Nam" do Viện Mác - Lênin và Tạp chí Cộng sản tổ chức năm 1982
được in trong hai tập sách có tên "Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam" do
Nhà xuất bản Thông tin lý luận Ên hành năm 1983. Công trình khoa học công
nghệ cấp Nhà nước "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
2
phát triển kinh tế - xã hội" (KX-07) trong đó có kết quả của đề tài "Các giá
trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay" (KX-07-02) khẳng định
các giá trị đạo đức truyền thống dân téc cần được phát huy trong giai đoạn
cách mạng mới.

Cùng với việc nghiên cứu các giá trị đạo đức truyền thống dân téc
có nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức như "Đạo đức mới" của GS Vũ
Khiêu (Nxb Khoa học xã hội, 1974); "Chủ động và tích cực xây dựng đạo
đức mới" của GS Tương Lai (Nxb Sự thật, 1983), và Hội nghị khoa học "Về
việc nghiên cứu những vấn đề đạo đức trong thời kỳ quá độ" do Ban Đạo
đức học - Viện Triết học và Ủy ban Khoa học xã hội nhân văn tổ chức năm
1983, với các chủ đề: Phụ nữ và vấn đề hình thành đạo đức mới, văn hóa đạo
đức và vấn đề giáo dục con người mới, truyền thống và hiện đại trên lĩnh
vực đạo đức
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí Trung
ương và địa phương đề cập đến vấn đề kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống dân téc như "Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên
trong của sự phát triển đất nước, dân téc" của PGS Nguyễn Văn Huyên
(Tạp chí Triết học, số 4, 1998); "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong
xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ" của PGS
Nguyễn Chí Mú và Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Cộng sản, số 15, 1998) ; một
số công trình nghiên cứu của cá nhân như "Kế thừa giá trị đạo đức truyền
thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay" (Luận văn thạc sĩ của Lê
Thị Minh Hiệp, 2000). Các bài viết về vấn đề phẩm chất đạo đức mới của
người phụ nữ hiện nay như "Phụ nữ Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước" của Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng sản, số 20,
1996; "Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI" của GS Lê Thi (Tạp chí Cộng
sản, số 20, 2000)
3
Như vậy, vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống
dân téc, truyền thống phụ nữ, vấn đề đạo đức mới của toàn dân nói chung,
phô nữ nói riêng đã được nhiều người, nhiều nhà khoa học quan tâm tìm
hiểu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề phát huy giá
trị đạo đức truyền thống dân téc trong việc xây dựng đạo đức mới của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay qua thực tế ở tỉnh Vĩnh Phóc, vì vậy, tác giả

mong muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề đặt ra trong luận văn.
3. Mục đích của luận văn
Từ những nội dung, yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới của
người phụ nữ hiện nay; qua tìm hiểu thực trạng và một số vấn đề nảy sinh
trong việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân téc ở tỉnh Vĩnh Phóc,
trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát
huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới của
người phụ nữ hiện nay.
Nhiệm vô: Để đạt được mục đích trên luận văn phải giải quyết ba
nhiệm vụ, đó là:
- Chỉ ra được những nhân tố tác động tới đạo đức người phụ nữ hiện
nay.
- Xác định được các giá trị đạo đức truyền thống dân téc cần phát
huy; những yêu cầu, nội dung của các chuẩn mực đạo đức mới của người
phụ nữ trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy
hơn nữa giá trị đạo đức truyền thống dân téc trong việc xây dựng đạo đức
mới của người phụ nữ hiện nay ở nước ta.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Những giá trị đạo đức truyền thống dân téc, đạo đức truyền thống
phụ nữ cần được kế thừa, phát huy ở đây về mặt tích cực.
4
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến
đạo đức của người phụ nữ hiện nay, được nảy sinh từ khi Đảng ta chủ
trương tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (1986), qua khảo sát thực tế tỉnh
Vĩnh Phóc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân téc, vấn đề xây dựng đạo đức mới

của người phụ nữ.
Phương pháp chủ yếu để thực hiện luận văn này là tổng hợp các
nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử - lôgíc, phân
tích - tổng hợp, trừu tượng - cô thể. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương
pháp điều tra xã hội học để so sánh đối chiếu, sử dụng những số liệu của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh Vĩnh Phóc đã được công bố.
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn xác định được những giá trị đạo đức truyền thống dân téc
cần phát huy đối với người phụ nữ Việt Nam; những yêu cầu, nội dung cơ
bản về chuẩn mực đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam trong tình hình
hiện nay.
Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát
huy giá trị đạo đức truyền thống dân téc trong việc xây dựng đạo đức mới
của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Luận văn góp phần vào việc nhận thức vai trò lâu dài của việc phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống dân téc, truyền thống phụ nữ trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
5
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về giá trị đạo đức truyền thống dân téc, truyền thống phụ
nữ, về đạo đức mới của người phụ nữ trong trường Đảng và các trường học
ở Vĩnh Phóc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bày trong hai chương, bốn tiết.
6
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TÉC VỚI VIỆC
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN NAY

1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TÉC VÀ GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG PHỤ NỮ
1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân téc
Giá trị là khái niệm trung tâm của giá trị học với tính cách là một
khoa học và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội và
khoa học nhân văn như triết học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học, kinh
tế học với những nội dung rộng hẹp, cụ thể khác nhau.
Giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có
khả năng thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp
phần vào sự phát triển xã hội, phục vụ cho lợi Ých và hạnh phóc của con
người.
Giá trị có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Nó là cơ sở
để con người căn cứ vào đó mà xác định mục đích, phương hướng sống cho
hoạt động của mình. Vì vậy, "nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt
tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm cả quan điểm coi giá trị gắn
liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi
thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới" [7, tr. 16]. Như vậy, có
những giá trị chung toàn nhân loại, cũng có giá trị lâu bền được kế thừa qua
nhiều thời đại và được nâng cao lên, nhưng cũng có những giá trị có phạm
vi ảnh hưởng và thời gian tồn tại Ýt hơn. Có những giá trị sẽ mất đi hoặc
mờ nhạt dần khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi và có những giá trị mới được
hình thành. Những giá trị chung, phổ biến được coi như phương tiện cơ bản
tạo nên sự liên kết các thành viên trong cộng đồng.
7
Trong việc nghiên cứu giá trị, ở cấp độ chung nhất giá trị được chia
thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần được chia thành
các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị chính trị,
giá trị thẩm mỹ Giá trị đạo đức được hình thành từ trong lịch sử và trường
tồn đến hiện đại, tạo thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân
téc đều có truyền thống của mình do lịch sử để lại. Truyền thống dân téc là

những đức tính, những lề thói, phong tục đã trở nên ổn định được đông đảo
thừa nhận và đã ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội, được nối dài theo nhiều
thế hệ, qua nhiều đời của dân téc. Từng dân téc khác nhau có truyền thống
khác nhau, "giá trị truyền thống dân téc được cô đúc nên trong suốt quá
trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân téc cho nên có thể nói, giá
trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa
dân téc" [39, tr. 9].
Dân téc Việt Nam với các điều kiện địa lý, môi trường, lịch sử và xã
hội đã hình thành nên những nét giá trị truyền thống riêng.
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh
thần của dân téc Việt Nam, nó là một dòng chảy liên tục nảy sinh, phát triển
trong suốt tiến trình dựng nước, giữ nước của cha ông ta, và được tích lũy,
lưu truyền, chắt lọc, chuyển giao, tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ
đời này qua đời khác. Giá trị đạo đức truyền thống là cái tồn tại mãi mãi với
dân téc "sau tất cả những gì đã mất đi trong quá trình vận động" [46, tr.
103].
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức
truyền thống dân téc đã được nhiều người, nhiều nhà khoa học quan tâm.
GS Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân
téc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa [25, tr. 94].
8
GS Vũ Khiêu đưa ra quan điểm, trong những truyền thống quý báu
của dân téc, nổi bật nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định, truyền
thống đạo đức của dân téc ta bao gồm: lòng yêu nước; truyền thống đoàn
kết; lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần nhân đạo lòng yêu thương và
quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ
thống giá trị đạo đức của dân téc [42, tr. 74-86].
Kết quả nghiên cứu của Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà
nước: "Con người Việt Nam - và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội"

(KX-07) cũng khẳng định: cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức,
phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì
nghĩa, lòng thương người [8, tr. 32-34].
Những giá trị đạo đức truyền thống dân téc cũng được đề cập đến
trong một số Văn kiện của Đảng và các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng hiện nay khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền thống
vững bền của dân téc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng
đồng sâu sắc. Đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù,
vượt khó, sáng tạo trong lao động" [14, tr. 19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân téc, có viết:
Bản sắc dân téc bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân téc Việt Nam được vun đắp nên
qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó
là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân téc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
quốc; lòng nhân ái; khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính
9
cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản
dị trong lối sống [16, tr. 56].
Từ cách tiếp cận về giá trị, giá trị đạo đức truyền thống và từ quan
điểm của Đảng ta cũng như của các nhà khoa học, có thể khẳng định các giá
trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân téc ta bao gồm:
- Chủ nghĩa yêu nước.
- Lòng thương người.
- Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng sâu sắc.
- Cần cù, tiết kiệm.
Trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống dân téc, chủ nghĩa
yêu nước là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân téc, đồng thời là

bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân téc ta" [42, tr. 74].
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ
quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tÝch cực để phục vụ và đem lại
lợi Ých cho Tổ quốc và nhân dân. Nó trở thành một giá trị, một động lực
tinh thần vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao thế hệ kiên cường, anh dòng
hy sinh để giành lại và giữ gìn nền độc lập Tổ quốc, bảo vệ những phẩm giá
của chính con người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ là một giá trị
mà nó còn là cội nguồn, là cơ sở của các giá trị khác, nhất là các giá trị văn
hóa.
Yêu nước là giá trị hàng đầu của mỗi con người Việt Nam, nó là
thước đo giá trị nhân phẩm của con người, chi phối mỗi người trong suy
nghĩ và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần Êy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [60, tr. 171].
10
Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, yêu
nước đối với nhân dân ta trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa để tạo sức mạnh bên trong bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển của dân téc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thể hiện cụ thể ở lòng dũng
cảm và ý chí bất khuất, đó là chủ nghĩa anh hùng. Là những người hết mực
yêu hòa bình, yêu tự do, nên khi bờ cõi bị xâm chiếm, nhân dân bị nô lệ,
người Việt Nam "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ" [59, tr. 480]. Chủ nghĩa yêu nước là "sợi
chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [25, tr.
100], nó trở thành đạo lý và lẽ sống của mỗi người được sinh ra và lớn lên
trên đất nước Việt Nam.

Truyền thống yêu nước của người Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ
với lòng thương yêu và quý trọng con người, nhất là người lao động.
Lòng thương người của dân téc ta thấm đượm trong các mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình, trong làng xóm và trong cả cộng đồng
dân téc. Người Việt coi trọng tình nghĩa hơn lễ nghĩa. Tình ở đây là tình
cảm sâu sắc "máu chảy ruột mềm", thương nhau giữa những người trong
một nước. Nghĩa ở đây là trách nhiệm của mỗi người trước sự sống còn của
đất nước, tình nghĩa ở đây cũng là thái độ thủy chung trong tình yêu, tình
bạn. Vì vậy, mà trong lịch sử dân téc, những tấm gương vì nghĩa được ngợi
ca, còn những hiện tượng "vô nhân đạo", "phụ tình bạc nghĩa" thường bị dư
luận xã hội lên án phản đối. Cũng với tình nghĩa Êy, dân téc ta còn có thái
độ nhân đạo khoan dung đối với cả quân thù, khi chúng đã hạ súng, bại trận
thì "cấp ngựa cấp thuyền" cho lui về nước. Tinh thần nhân ái trong truyền
thống của dân téc ta cũng không hoàn toàn giống với nội dung "nhân",
"nghĩa" của Nho giáo, chữ "nhân", "nghĩa" đó thông qua lăng kính nhân sinh
quan của người Việt đã mang một nội dung mới, nó không còn giữ nguyên
nghĩa như quan niệm của Khổng giáo; nó cũng khác với quan niệm "từ ",
11
"bi" của Phật giáo hướng con người đi tu hành để mong giải thoát khỏi "bể
khổ" nơi trần thế.
Lòng thương người là một trong những truyền thống rất đáng tự hào
của dân téc ta, truyền thống này đã được Đảng ta khẳng định:
Người Việt Nam vẫn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh
thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với người.
"Thương nước thương nhà, thương người, thương mình" là truyền
thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân
chủ Êy mà suốt quá trình lịch sử 4000 năm, dân téc ta đã làm nên
những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng dưới ngọn cờ độc
lập dân téc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân
chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy

mạnh mẽ hơn bao giê hết [16, tr. 94].
Tinh thần nhân ái của dân téc được kết tinh trong con người Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ở Người đạo đức truyền thống và đạo đức cách mạng
được kết hợp một cách hài hòa.
Tính thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là một giá trị được tạo nên từ
trong sâu thẳm văn hóa dân téc. Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân đẻ
ra "bọc trăm trứng" nói rất rõ tinh thần cùng chung Tổ quốc và tình đồng
bào. Trong lịch sử dựng xây đất nước, người Việt đã phải chung lưng đấu
cật, tương trợ hợp tác, giúp đỡ nhau tạo ra sức mạnh vật chất phi thường
chiến thắng thiên tai. Chính từ thực tế các cuộc đấu tranh với thiên tai và
chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã nhận thấy rằng "đoàn kết thì sống, chia
rẽ thì chết", và "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi
cao". Cho nên, có thể nói, tinh thần đoàn kết là nguồn sức mạnh lớn lao
giúp nhân dân ta vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và
đánh thắng mọi thế lực xâm lược.
12
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu
nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, là động lực mạnh mẽ trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân téc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta",
Người căn dặn mỗi cán bộ đảng viên " cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [63, tr. 510]. Tinh thần
đoàn kết cộng đồng là nét quan trọng trong ý thức và tâm hồn của người
Việt Nam. Những lễ hội truyền thống với niềm hân hoan và sự đồng cảm
được tổ chức hàng năm lại thắt chặt thêm mối quan hệ cộng đồng. Cộng
đồng là điểm tựa của người Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày, trong hòa
bình và trong chiến tranh.
Cần cù và tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống của dân téc
ta, nó được hình thành do điều kiện sản xuất và đấu tranh xã hội trong lịch
sử dân téc. Nó thể hiện ý thức trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống,

trong sự nghiệp phát triển đất nước. Cần cù gắn liền với tiết kiệm, cần mà
không kiệm thì cuộc sống trở nên "ăn xổi", bấp bênh. Kiệm mà không cần
thì không có gì để kiệm. Do đó, trong cuộc sống phải biết khéo léo lo toan,
sắp xếp hợp lý, tránh những lãng phí không cần thiết. Chính với truyền
thống cần cù và tiết kiệm Êy, cha ông ta đã phát huy được sức mạnh của
mình trong những cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại và đã đạt được những
thành quả to lớn để lại cho chóng ta ngày nay.
Ngoài những giá trị chủ yếu trên, trong hệ thống giá trị đạo đức
truyền thống dân téc còn có những đức tính phổ biến như lòng dũng cảm,
tính khiêm tèn, trung thực, giản dị, lạc quan Nhờ có những phẩm chất đó,
dân téc ta mới dám đương đầu và đã giành thắng lợi với mọi thiên tai, địch
họa nhiều khi tưởng không vượt qua nổi. Người Việt Nam khiêm tốn nhưng
không hạ thấp mình; giản dị nên không ưa cầu kỳ, phô trương hình thức;
13
trung thực nên ghét những sự thay lòng đổi dạ; lạc quan và niềm tin đã giúp
dân téc ta đứng vững, tồn tại được trước những thử thách gian nguy của lịch
sử để phát triển.
Các giá trị đạo đức truyền thống đã thấm sâu vào đời sống tinh thần
của cả dân téc qua các thế hệ và chính chúng đã làm nên sức mạnh Việt
Nam suốt nhiều thế kỷ, tạo nên dáng vóc Việt Nam với bản sắc riêng.
Nhiệm vụ của chúng ta là phải giữ gìn và phát huy hơn nữa những giá trị
đạo đức mà cha ông ta đã tạo nên trong lịch sử.
1.1.2. Những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền thống dân
téc ở đạo đức truyền thống của phụ nữ
Truyền thống đạo đức phụ nữ là một bộ phận hữu cơ của truyền
thống đạo đức dân téc, truyền thống Êy đã được Bác Hồ viết trong thư gửi
phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày phụ nữ Quốc tế: "Phụ nữ
Việt Nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù"
[61, tr. 85].
Tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII năm 1997, Tổng

Bí thư Đỗ Mười cũng khẳng định:
Truyền thống và phÈm giá của phụ nữ nước ta được hình
thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lòng yêu nước, tình nhân
ái, đức hy sinh, trí thông minh, tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam.
Tám chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác
Hồ kính yêu và nhân dân trao tặng phụ nữ nước ta, chính là sự đúc
kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó
[88, tr. 90-91].
Từ cách tiếp cận về giá trị đạo đức truyền thống dân téc ở phần
trước và từ những nhận định trên về truyền thống đạo đức phụ nữ Việt
14
Nam. Có thể rót ra những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền thống dân
téc biểu hiện ở phụ nữ Việt Nam là:
- Yêu nước, anh hùng, bất khuất.
- Đảm đang.
- Yêu thương chồng con.
- Phát triển tinh hoa văn hóa dân téc.
- Trung hậu.
Truyền thống anh hùng, bất khuất của dân téc được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên vị trí hàng đầu những giá trị đạo đức cao cả của người phụ nữ
Việt Nam. Hai Bà Trưng và các nữ tướng của Hai Bà là những phụ nữ Việt
Nam đã dựng nên tấm gương "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"
ngay từ thế kỷ đầu Công nguyên. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã "có tác
dụng mở đường, đặt phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân téc
về sau này. Bất kỳ tình huống nào, nhân dân ta quyết giành độc lập hoàn
toàn. Nó là một biểu hiện của sức sống mãnh liệt của dân téc, và đã góp
phần chỉ rõ con đường sống và tiến bộ của dân téc ta" [86, tr. 60]. Tiếp nối
gương Hai Bà, những người phụ nữ như bà Triệu Thị Trinh, Bùi Thị Xuân,
bà Ba Cai Vàng, Nguyễn Thị Minh Khai mãi mãi ghi tên trong sử xanh
dân téc.

Trong kháng chiến chống Mỹ phát huy truyền thống yêu nước của
dân téc, phụ nữ Việt Nam đã kiên cường, anh dũng đấu tranh với kẻ thù
trên các mặt trận sản xuất, chiến đấu. Ở miền Bắc, chị em hăng hái tham gia
các phong trào thi đua yêu nước, đóng góp cao nhất sức người, sức của để
xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương vững chắc của
miền Nam. Hàng chục nghìn phụ nữ trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến
đấu trên các mặt trận theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tất cả vì
miền Nam ruột thịt". Ở miền Nam, chị em phụ nữ đã đoàn kết cùng nhau
15
đánh địch dưới mọi hình thức: đấu tranh vò trang, đấu tranh chính trị, binh
vận, biểu tình, "Đội quân tóc dài" - mét biểu tượng tinh thần độc đáo đã
dũng cảm, mưu trí, linh hoạt trong đấu tranh cách mạng của phụ nữ Việt
Nam. Có thể nói, phụ nữ ở hậu phương cũng như tiền tuyến đã đóng góp to
lớn vào thắng lợi vẻ vang của dân téc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Thành tích vẻ vang và phẩm chất cao đẹp của phụ nữ Việt Nam thời
kỳ này xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ khen tặng.
Phụ nữ Việt Nam không chỉ đánh giặc giỏi mà họ còn rất cần cù,
đảm đang trong sản xuất, trong công việc gia đình và tham gia hoạt động xã
hội.
Từ xưa tới nay, phụ nữ giữ vị trí không thể thiếu trong gia đình. Họ
lo toan chi phí kinh tế, đảm nhận những công việc rất đặc trưng của nữ giới,
đó là "nữ công gia chánh". Trong lịch sử, phụ nữ nước ta luôn khẳng định
vai trò quan trọng và có những đóng góp to lớn, vào quá trình phát triển của
dân téc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Non sông gấm vóc Việt Nam
do phụ nữ trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" [60, tr.
432]. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã in đậm trong lịch sử chống ngoại
xâm, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc hàng chục thế kỷ. Bên cạnh các tướng
lĩnh như Bà Trưng, Bà Triệu, đô đốc Bùi Thị Xuân còn có các vị chấp
chính tài ba như Thái hậu Dương Vân Nga, Nguyên phi Ỷ Lan, cô Nhu (vợ
ba Đề Thám) Tiếp bước các nữ anh hùng dân téc là các thế hệ phụ nữ

chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Thị Minh Khai, lãnh tụ đầu tiên của phong
trào phụ nữ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập; Hoàng Ngân,
Bí thư đoàn phụ nữ cứu quốc Bắc Bộ; trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là
các bà Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình và còn nhiều
phụ nữ khác tham gia hoạt động chính trị xã hội vì sự tồn vong và phát triển
của dân téc.
16
Cùng với những đức tính cần cù, đảm đang, phụ nữ Việt Nam còn
có lòng yêu thương chồng con hết mực. Là người vợ, người phụ nữ hết lòng
yêu thương chồng, chăm lo cho chồng, cùng chồng chia sẻ mọi công việc
trong sản xuất, chăm sóc giáo dục con cái, trong đánh giặc bảo vệ Tổ quốc
và trong sinh hoạt cộng đồng.
Trong gia đình người nông dân Việt Nam hình ảnh vợ chồng cùng
nhau gánh vác công việc chung, được phản ánh trong các câu ca dao về lao
động sản xuất, về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
Dưới chế độ cũ, bao nhiêu nỗi lo chồng chất trên đôi vai mềm mại
mà vô cùng đảm đang của người mẹ, người vợ. Tuy vất vả, nhưng người
phụ nữ vẫn dịu dàng, thương yêu, thủy chung quan tâm chăm sóc đến
chồng, đến con. Sự nghèo khổ không làm giảm đi tình yêu của người vợ đối
với chồng, hình ảnh bà Tó Xương cũng là hình ảnh của người vợ, người mẹ
Việt Nam thế kỷ XIX - XX:
Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng [89].
Những người phụ nữ tần tảo đó sẵn sàng hy sinh quyền lợi riêng của
mình cho gia đình. Họ chỉ mong góp phần cho sự sống và thăng tiến của
chồng con, mà không có yêu cầu cho riêng mình.
Không chỉ yêu chồng, phụ nữ Việt Nam còn là người mẹ hiền. Là
người vợ, họ thực hiện chức năng thiêng liêng của người phụ nữ, là điều mà
Mác - Ăngghen gọi là "Sự phân công lao động đầu tiên là sự phân công giữa
đàn ông và đàn bà trong việc sinh con đẻ cái" [58, tr. 104].

Trong gia đình, cùng với người chồng, người phụ nữ là người
thường xuyên trực tiếp nuôi dạy con cái, họ dịu hiền và khéo léo. Hình ảnh
người mẹ với những lời mẹ dạy có ảnh hưởng lâu bền đối với quá trình phát
triển của con cái, đặc biệt là trong lĩnh vực thẩm mỹ, văn hóa gia đình, vai
17
trò của người mẹ chiếm ưu thế tuyệt đối. Người phụ nữ chính là người thầy,
nhà giáo dục đầu tiên của con cái mình.
Chính những lời dạy bảo con cái của người mẹ, những lời ru, câu hát
của các thế hệ bà mẹ Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn
và phát triển tinh hoa của nền văn hóa dân téc. Bà mẹ Việt Nam nuôi dạy
các con theo tinh thần và ngôn ngữ Việt. Từ những lời ru, tiếng nói hàng
ngày, đến những câu chuyện cổ tích phản ánh cuộc sống và tâm hồn người
Việt đưa con vào giấc ngủ, người mẹ đã truyền cho con tình yêu quê hương,
đất nước, đạo lý làm người nền văn hóa dân téc đã được người phụ nữ
truyền cho thế hệ mai sau một cách thường xuyên tự giác.
Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân téc còn thể hiện tài năng của
mình trong văn chương, học thuật nước nhà. Thế kỷ XV, Nguyễn Thị Lé,
vợ nhà anh hùng dân téc Nguyễn Trãi là người có tài năng văn học tuyệt
vời nên được mời vào triều làm chức Lễ nghi học sĩ. Bà Ngô Chi Lan giỏi
văn chương được Lê Thánh Tông vời vào triều dạy cung nữ. Đoàn Thị
Điểm đã mở trường dạy học cho Nho sinh. Hồ Xuân Hương người tài dùng
thơ văn chiến đấu chống lại lễ giáo và đạo đức phong kiến, đấu tranh cho
quyền sống và hạnh phóc của phụ nữ
Phụ nữ Việt Nam cũng là người khai sinh, xây dựng một số loại hình
nghệ thuật dân téc như, bà Phạm Thị Trân - bà tổ nghề chèo, một loại hình
nghệ thuật lấy tích truyện rót ra từ cuộc sống, thể hiện sự khéo léo kết hợp
giữa việc giáo dục nghệ thuật và việc cổ vũ tinh thần chiến đấu vì độc lập
dân téc cho quân lính của bà thời vua Đinh (thế kỷ X)
Những phẩm chất quý báu: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang, thủy chung của phụ nữ Việt Nam truyền thống đã được phụ nữ cả

nước kế thừa phát huy trong thời kỳ lịch sử mới, nó là sự biểu hiện của
những giá trị đạo đức truyền thống cao quý của dân téc trong giới nữ. Đó là
những giá trị như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng
thương người, cần kiệm vẫn luôn được các thế hệ phụ nữ kế tiếp nhau
18
trong lịch sử trân trọng giữ gìn, phát huy và tùy theo những hoàn cảnh lịch
sử của từng thời đại mà được phát triển, bổ sung những phẩm chất mới làm
phong phú và bền vững thêm các giá trị đạo đức truyền thống của dân téc.
1.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG DÂN TÉC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CỦA
NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN NAY
1.2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi những giá trị đạo
đức của phụ nữ hiện nay
* Sù tác động của nền kinh tế thị trường
Năm 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta
bước đầu chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tÕ thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, việc chuyển sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi tất yếu, hợp quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp tính chất và trình độ phát triÓn của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã tác
động tích cực đến tính sáng tạo của mọi người trong việc mưu lợi cho đất
nước và cho bản thân. Kinh tế thị trường với sự tác động mạnh mẽ của quy
luật giá trị, quy luật cạnh tranh nó tạo ra không gian giao tiếp rộng lớn và
phong phó cho từng cá nhân có dịp bộc lé mình, thay đổi phương thức và
nội dung tư duy cho phù hợp với cơ chế mới. Kinh tế thị trường đem lại cái
nhìn mới về mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức; khắc phục quan niệm
tách rời đạo đức với kinh tế. Dĩ nhiên, không phải đời sống kinh tế được
nâng cao thì đời sống đạo đức tự nó trở nên tốt đẹp hơn, mà còn tùy thuộc
vào cách giải quyết các quan hệ lợi Ých thông qua việc thực thi các chính

sách kinh tế, xã hội cho phù hợp quy luật phát triển xã hội.
19
Việt Nam là nước vốn có lịch sử lâu đời với truyền thống đạo đức
của người phương Đông, lại vừa trải qua mấy chục năm phát triển kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp nên khi đi vào kinh tế thị trường có người
cho rằng, kinh tế thị trường và đạo đức là hai mặt luôn đối lập, nó không thể
dung hòa. Nếu như kinh tế thị trường phát triển thì đạo đức truyền thống sẽ
bị suy thoái. Có người đưa ra ý kiến rằng, kinh tế thị trường làm cho con
người hoạt động năng động, sáng tạo hơn, sẽ thúc đẩy sự tiến bộ trong đời
sống đạo đức.
Cả hai ý kiến trên đều tuyệt đối hóa mặt tích cực hoặc tiêu cực của
kinh tế thị trường tác động đến đạo đức mà không thấy được mối quan hệ
qua lại, tác động lẫn nhau giữa chúng. Kinh tế thị trường là phương tiện hữu
hiệu để phát triển kinh tế, là một nhân tố tác động tích cực đến sự phát triển
đạo đức. Nhưng bản thân kinh tế thị trường tự nó không thể giải quyết được
các vấn đề xã hội, thậm chí còn làm nảy sinh những tiêu cực, suy thoái đạo
đức xã hội. Vì vậy, khi nói đến tác động của kinh tế thị trường đối với đạo
đức phải thấy được tính tích cực và tiêu cực của nó đối với đời sống xã hội
nói chung, đời sống đạo đức nói riêng.
Sự tác động của kinh tế thị trường trong lĩnh vực đạo đức nói chung,
đạo đức phụ nữ nói riêng làm biến đổi các giá trị đạo đức. Bên cạnh những
biến đổi mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ, cũng xuất hiện không Ýt những
hiện tượng xuống cấp về đạo đức đáng báo động. Sự tác động của kinh tế
thị trường đến đạo đức của người phụ nữ được thể hiện:
Kinh tế thị trường làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế nhưng nó cũng đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo, làm sâu sắc
thêm những bất bình đẳng xã hội, phá vỡ sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ xã hội. Trong nền kinh tế đó sự phân công lao động theo
ngành nghề, lĩnh vực, theo giới và theo trình độ phân cực rõ nét. Phụ nữ
thường lao động trong những ngành nghề, lĩnh vực có thu nhập thấp. Trong

20
điều kiện như vậy, việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân téc,
truyền thống đạo đức phụ nữ trong quá trình hình thành đạo đức mới của
người phụ nữ không tránh khỏi những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường đối với đạo đức của người phụ nữ hiện nay.
Kinh tế thị trường bằng lợi Ých vật chất, kích thích mọi sù suy nghĩ,
tìm tòi và sáng tạo, điều này có ý nghĩa tích cực. Tuy nhiên, những suy nghĩ
cá nhân, những tâm trạng Ých kỷ cũng đang tạo ra tâm lý tiêu cực, khát
vọng làm giàu dẫn đến sự thoái hóa trong quan hệ giữa người với người
trong xã hội nói chung, phụ nữ nói riêng. Kinh tế thị trường đã thúc đẩy
không Ýt cán bộ, kể cả cán bộ có chức có quyền rơi vào tình trạng tha hóa
biến chất, dùng quyền lực mưu lợi riêng, lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà
nước để vơ vét tiền của nhân dân chi cho tiêu dùng ăn chơi sa đọa, trác
táng, kéo theo một bộ phận phụ nữ vào con đường ăn chơi, đua đòi, sống
hưởng lạc, đang làm xói mòn truyền thống đạo đức, lối sống lành mạnh,
quan hệ tình nghĩa của dân téc. Mặc dù, không phải kinh tế thị trường là
nguyên nhân duy nhất tác động đÕn đạo đức, nhưng ảnh hưởng của nó tới
những tiêu cực trên là rất lớn, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường
ở nước ta còn đang ở giai đoạn đầu, khi mà hệ thống pháp luật của ta chưa
hoàn thiện thì những hiện tượng tiêu cực đó càng có nguy cơ phát triển.
Mặt trái của kinh tế thị trường dẫn tới sự tha hóa về phẩm cách, đạo
đức, lối sống của một bộ phận phụ nữ nước ta, từ chỗ đề cao các giá trị tinh
thần sang coi trọng các giá trị vật chất, coi trọng cá nhân, tôn sùng đồng
tiền, lấy đồng tiền là thước đo giá trị của con người, thay cho các giá trị đạo
đức truyền thống. Đồng tiền thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội, thậm
chí chi phối các nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp của không Ýt người.
Đồng tiền vốn chỉ là phương tiện của cuộc sống, giê đây trở thành mục
đích, lý tưởng của một số người. Họ xem tiền có thế lực vạn năng, có giá trị
gạt bỏ mọi giá trị khác, tiền là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo giá trị
21

của bản thân và của người khác, "có tiền thì có tất cả". Với tư tưởng đó làm
cho không Ýt phô nữ nước ta đánh mất nhân phẩm của mình, chạy theo
đồng tiền bất chấp luân thường đạo lý, toan tính làm sao để có tiền. Nhiều
phụ nữ có quan niệm về giá trị nằm ở những đồ vật và tiện nghi sang trọng
mà đồng tiền đem tới. Vì thế, ngay trong quan niệm về tình yêu, và hôn
nhân vấn đề được xem là thiêng liêng, cao cả thì ngày nay, ở họ nó không
còn có ý nghĩa truyền thống như trước mà đã mai một trước sức mạnh của
đồng tiền.
* Sù giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, quá trình mở cửa hội nhập khu
vực và quốc tế đã tạo điều kiện cho nhân dân ta nói chung, phụ nữ nói
riêng, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các dân téc trên thế giới để bổ
sung, làm phong phú và nâng cao nền văn hóa nước nhà. Tuy nhiên, trong
quá trình hội nhập cũng xuất hiện những sách, báo, phim ảnh không lành
mạnh, những Ên phẩm có nội dung bạo lực, tự do tình dục bằng nhiều con
đường ngõ ngách thông qua mở cửa đã xâm nhập vào nước ta, tuyên truyền
cho lối sống thực dụng, hiện sinh, ảnh hưởng tiêu cực tới lối sống, đạo đức
của phụ nữ, làm băng hoại nhân phẩm của chị em. Đồng thời làm cho nhiều
giá trị đạo đức truyền thống dân téc, truyền thống đạo đức phụ nữ bị xâm
phạm, bị bào mòn trong thời gian vừa qua. Những Ên phẩm phản văn hóa
đó dẫn đến các hoạt động lạm dụng tình dục phụ nữ và trẻ em, đáng chú ý là
tệ nạn xã hội trước đây chỉ diễn ra tù phát, quy mô nhỏ thì nay có nguy cơ
lan rộng và có tính tổ chức cao như hình thành các nhóm chủ chứa, môi
giới, tổ chức các đường đây buôn bán gái mại dâm, ma túy v.v với quy mô
quốc gia và quốc tế. Hoạt động mại dâm khá phổ biến trong các khách sạn,
nhà hàng, điểm karaokê, masseger, các quán "cà phê vườn", mại dâm cùng
với ma túy là những tác nhân làm lây lan các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
tới tính mạng con người, chúng làm tổn thương nặng nề đến tâm hồn, phẩm
22
giá của người phụ nữ, tác động tiêu cực đến tâm lý, đạo đức của họ trong

cuộc sống.
Từ những nhân tố tác động đến đạo đức của phụ nữ, cho thấy, bản
thân các giá trị đạo đức của người phụ nữ luôn luôn bị thử thách trước tác
động của nền kinh tế thị trường, của các hiện tượng phản văn hóa từ việc
nhỏ đến việc lớn, từ gia đình đến xã hội. Điều đó làm cho đạo đức của người
phụ nữ đứng trước nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Dĩ nhiên, điều này
cũng có nguyên nhân từ chính chị em phụ nữ, đó là, phụ nữ còn hạn chế về
trình độ kiến thức mọi mặt, sự hiểu biết về giới và pháp luật, khả năng tiếp
nhận và chọn lọc thông tin còn chưa nhanh nhạy nên rất dễ thay đổi khi
hoàn cảnh và điều kiện đổi thay, nhiều trường hợp người phụ nữ trở thành
nạn nhân của các tệ nạn xã hội một cách không tự giác. Nói cách khác, họ
bị cuốn hót vào cơn lốc của nền kinh tế thị trường, vào các hiện tượng phản
văn hóa và nhiều người đã không tự ý thức và không tự chống đỡ nổi.
Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa, mở rộng quan hệ quốc tế đã tạo ra
những cơ hội về vốn, khoa học công nghệ để chúng ta phát triển đất nước.
Nhưng đây cũng là môi trường đầy khó khăn, thử thách đối với phụ nữ, khi
tham gia thị trường người phụ nữ chưa trang bị được cho mình lượng kiến
thức cập nhật thời đại mới, mặt khác trong môi trường văn hóa mở cửa dễ
bị các phần tử xấu, làm ăn phi pháp lợi dụng gây tác hại không nhỏ tới đời
sống đạo đức phụ nữ, làm mờ nhạt truyền thống đạo đức dân téc. Trước
những thử thách đó, để xây dựng phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ,
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, đòi hỏi chúng ta phải phát huy giá trị
đạo đức truyền thống dân téc trên cơ sở phát triển kinh tế văn hóa, xã hội.
Trong sự phát triển xã hội thì kinh tế và đạo đức có mối quan hệ biện
chứng, ý thức đạo đức mới ra đời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, nhưng
tăng trưởng kinh tế cũng phụ thuộc vào tác động trở lại của ý thức xã hội
trong đó có đạo đức. Nếu tăng trưởng kinh tế mà suy thoái về đạo đức, mai
một về giá trị truyền thống thì kinh tế không thể phát triển bền vững được.
23
Vì vậy, để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng

với việc hình thành, xây dựng đạo đức mới của mọi người dân nói chung,
phụ nữ nói riêng phải kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
dân téc, đó là một yêu cầu tất yếu. Qua đó, từng bước khắc phục sự suy
thoái về đạo đức, sự bào mòn về giá trị truyền thống dân téc đang có nguy
cơ gia tăng, làm cản trở quá trình xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách
mạng của người phụ nữ hiện nay.
Mặt khác, những quan điểm, chính sách của Đảng đối với phụ nữ
luôn đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho họ được học tập, được tham gia
hoạt động xã hội, điều đó đòi hỏi người phụ nữ phải tự tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, gương mẫu trong gia đình và xã hội, trau dồi giá trị đạo
đức truyền thống, truyền thống phụ nữ. Vì vậy, việc phát huy giá trị đạo
đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ là tất
yếu khách quan.
Đạo đức mới mà chúng ta xây dùng cho người phụ nữ hiện nay có
tiền đề từ đạo đức truyền thống, song phải chú ý tránh thái độ bảo thủ, đề
cao quá mức truyền thống, xem nhẹ hoặc phủ nhận đổi mới cũng như thái
độ hư vô chủ nghĩa, gạt bỏ mọi giá trị truyền thống đều là phản khoa học.
Thực tế những giá trị trong sáng và tiến bộ của đạo đức truyền thống dân téc
nói chung, đạo đức truyền thống phụ nữ nói riêng đã từng tạo nên ý nghĩa
tích cực trong sự phát triển phẩm chất đạo đức phụ nữ nước ta khi xưa, thì
giê đây các giá trị Êy vẫn không ngừng được phát huy những ảnh hưởng
tích cực của mình trong quá trình xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ
Việt Nam hiện đại.
1.2.2. Nội dung, yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới và
những giá trị đạo đức truyền thống dân téc cần phát huy
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ phận của kiến
trúc thượng tầng. Đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức
24
xã hội khác như hình thái ý thức chính trị, hình thái ý thức pháp luật, tôn
giáo, khoa học, nghệ thuật mỗi hình thái ý thức xã hội là sự phản ánh một

mặt của tồn tại xã hội. Đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội và thay đổi
theo sù thay đổi của tồn tại xã hội. Mỗi hiện tượng đạo đức đều có nguồn
gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai cấp ra đời đạo đức đó. Trong xã hội
có đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có quan niệm đạo đức phù hợp với lợi
Ých của mình. Luận chứng cho bản chất xã hội của đạo đức, Mác -
Ăngghen đặc biệt chú ý đến tính giai cấp của đạo đức, trong tác phẩm
"Chống Đuy rinh" Ph.Ăngghen khẳng định:
Xét cho đến cùng, mọi thuyết về đạo đức đã cã từ trước
tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy
giê. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập
giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp:
hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi Ých của giai cấp thống
trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu
cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi
Ých tương lai của những người bị áp bức [57, tr 137].
V.I. Lênin phê phán những quan điểm mơ hồ về những kiểu đạo đức
phi giai cấp, và nêu lên một kiểu đạo đức hoàn toàn mới, đạo đức của giai
cấp công nhân. Đạo đức này hoàn toàn đối lập với mọi kiểu đạo đức của các
giai cấp bóc lột. Lênin viết: "Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp
phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của
những người cộng sản" [49, tr. 369].
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã
không ngừng giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân
dân. Đạo đức mới được thể hiện ở lòng nhiệt tình cháy bỏng của nhân dân
trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, được kết tinh trong những
25

×