Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

VIỆT NAM QUỐC sử DIỄN CA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.64 KB, 110 trang )

VIỆT NAM QUỐC SỬ DIỄN CA
Lời nói đầu
****@*****
Chủ Tịch Hồ Chí Minh sinh thời căn dặn :
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc ngọn nước nhà Việt Nam”
“Phàm một nước đã có Lịch sử một nước thì tất phải có chính trị một nước
,đã có chính trị một nước mới có giáo dục một nước .Nước ta vài ngàn
năm lại giờ quyen nết dã man ,theo đường giản lậu ;chính trị đã không ra
gì còn nói gì đến giáo dục nữa.Gọi rằng giáo dục,chẳng qua là một đường
khoa cử văn từ đó thôi .Không có thương học nên công nghiệp hỏng
,không có nông học nên nhân dân không biêt đường khai khẩn ;không có
pháp luật học nên nhân dân không giữ lấy quyền lợi, đến nỗi vì ngu nên
yếu ,đã yếu lại nghèo ,nước mới không nên nước,học đến lịch sử hai ngàn
năm mới biết là cái lịch sử không chính trị ,không giáo dục vậy …”Quá đau
xót cho số phận dân tộc Việt Nam nước mất nhà tan , nhân dân nô lệ đủ
mùi cay đắng, mà Phan Bội Châu giãi tỏ can trường với học sinh trường
Quốc Học Huế như thế chăng ? Bài học từ lịch sử đắt giá máu xương ,
muốn biết tương lai ra sao hãy xem trong dĩ vãng ,việc trước không quyên
làm thầy việc sau , không biết lo xa tất phải buồn gần , trông gương đời
trước để tránh vết xe đổ cho đời sau , biết địch biết ta không đến nỗi phải
hận táng quốc vong gia . Nam sử diễn ca dùng lối văn vần lục bát, ghi chép
lịch sử Việt Nam từ sơ kỉ Hồng Bàng đến Hoàng triều Gia Long . Sách
được soạn bằng chữ quốc ngữ, cho dễ thuộc dễ nhớ ,nguyên là chữ
nôm ,sách chép tay , không thấy ghi tên soạn giả.Từ khi được La tinh hóa,
chữ quốc ngữ được sử dụng dễ dàng hơn ,xong nền văn hiến của tổ tiên,
ghi chép bằng chữ Hán –Nôm rất đồ sộ có nguy cơ thất truyền,cần được
diễn dịch phổ cập và giữ gìn .Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân
Việt Nam làm cách mạng tháng tám thành công,với cuộc kháng chiến
trường kì đến thắng lợi hoàn toàn ,đã đánh bại hai cường quốc quân sự,
đưa dân tộc Việt Nam lên vũ đài văn minh, sánh vai với các cường quốc


năm châu. Có lẽ nào để nền văn hiến chịu sụt kém ?Là người Việt Nam ai
cũng tự ý thức được điều đó,đóng góp chút công lao nho nhỏ, có gì chẳng
làm được. “Muốn lên sự nghiệp lớn ,tinh thần càng phải cao”.
Hồ Chủ Tịch nói : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công,thành công,đại thành công”
Nghiên cứu sưu tầm cổ học tinh hoa.
Mùa đông năm Qúi Tị - 2013
Ngày lành – người Đỗ Sơn-Tiến Đức kính ghi.
1
Quốc Hiệu Thông Khảo
**********
Tổ tiên của người Bách Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh nên gọi LĨNH NAM .
XÍCH QUỶ Quốc – Kinh Dương Vương
VĂN LANG Quốc – Hùng Vương
ÂU LẠC Quốc – Thục An Dương Vương
NAM VIỆT Quốc – Triệu Vũ Đế
VẠN XUÂN Quốc- Tiền Lý Nam Đế
ĐẠI CỒ VIỆT Quốc – Đinh Tiên Hoàng
ĐẠI VIỆT Quốc- LÝ Triều Thánh Tông
VIỆT NAM Quốc - Năm Gia Long thứ nhất(1802) , chúa Nguyễn Phúc Ánh
dẹp triều Tây Sơn thống nhất đất nước, cử Lê Quang Định làm chánh sứ ,
sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là NAM VIỆT. Nhà Thanh
cho rằng tên nước là NAM VIỆT sẽ lẫn với nước của Triệu Đà bao gồm cả
Đông Việt và Tây Việt nên không cho ,mới đổi là VIỆT NAM .
ĐẠI NAM Quốc- Nguyễn Triều Minh Mệnh đổi VIỆT NAM thành ĐẠI NAM .
VIỆT NAM – Đương Đại.
PHỤ:
Thời kì nội thuộc Bắc phương đều gọi là GIAO CHÂU
Đường Cao Tổ năm thứ 5 đổi làm AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ
Triều LÝ ANH TÔNG nhà TỐNG cải phong AN NAM QUỐC

Từ đây trở đi chữ “QUỐC” mới thông dụng.
Thời kì nước ĐẠI PHÁP bảo hộ đặt làm AN NAM MÍT
Cách mạng T8-1945 thành công- quốc hiệu VIỆT NAM Dân Chủ Cộng Hòa
2
NAM SỬ MỤC LỤC
HỒNG BÀNG sơ kỉ cho đến HÙNG VƯƠNG quí thế tổng cộng
2622 năm . KINH DƯƠNG VƯƠNG được phong đất năm Mậu tuất
HÙNG VƯƠNG mất nước năm Qúi mão- 2879-258 trước CN.
THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG -50 năm- Giáp thìn 257-Qúi tị 208TCN
TRIỆU thị 5đời hưởng quốc -97 năm- Giáp ngọ 207-Canh ngọ-111.
NỘI THUỘC TÂY HÁN-149 năm- Tân mùi 110 trCN-Kỉ hợi-39 Scn
TRƯNG NỮ VƯƠNG tự lập 03 năm-Canh tí -40-Nhâm dần 42 CN
NỘI THUỘC ĐÔNG HÁN-144 năm-Qúi mão 43-Bính dần 186. CN
SỸ VƯƠNG-40 năm-Đinh mão 187-Bính ngọ 226- Đóng đô LUY
LÂU-BẮC NINH-Được suy tôn “NAM GIAO HỌC TỔ”
NỘI THUỘC –NGÔ- TẤN – TỐNG – TỀ - LƯƠNG- 314 năm từ
Đinh mùi – 227- Canh thân -540 .
TIỀN LÝ NAM ĐẾ - 07 năm – Tân dậu 541- Đinh mão 547. kỉ
nguyên THIÊN ĐỨC – đô LONG BIÊN –Quốc hiệu VẠN XUÂN
TRIỆU VIỆT VƯƠNG –NAM ĐẾ tả tướng- ở ngôi 23 năm từ Mậu
thìn 548- Canh dần 570- cùng thời với LƯƠNG VŨ ĐẾ niên hiệu
ĐẠI THANH thứ 2
HẬU LÝ NAM ĐẾ- 32 năm –dùng kế đuổi TRIỆU VIỆT VƯƠNG lấy
ngôi, về sau hàng TÙY-NỘI THUỘC BẮC PHƯƠNG. Từ năm Tân
mão 571- Nhâm tuất-602-
NỘI THUỘC TÙY ĐƯỜNG- 304năm- từ Qúi hợi 603- Bính dần 906
NAM BẮC PHÂN TRANH -32 năm- từ Đinh mão 907- Mậu tuất 938
Cha con họ KHÚC 24 năm –DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ -8 năm.
TIỀN NGÔ VƯƠNG -6 năm – Dương Tam KHA-6 năm
HẬU NGÔ VƯƠNG – 15 năm – Thập nhị sứ quân- 02 năm . Từ

năm Kỉ hợi 939- đến năm Đinh mão 967 .Tổng cộng 29 năm .
Đinh triều -2 vua – 13 năm – kỉ nguyên 1 – THÁI BÌNH (970-979) .
PHẾ ĐẾ 01 năm (980)- Từ Mậu thìn 968- Canh thìn 980.
TIỀN LÊ -3 đời -29 năm – kỉ nguyên 4 .
LÊ ĐẠI HÀNH – kỉ nguyên 3- hưởng quốc 24 năm. THIÊN PHÚC
(980-988) – HƯNG THỐNG (989-993) - ỨNG THIÊN(994-1005)
TRUNG TÔNG tại vị 03 ngày (1005)
NGỌA TRIỀU – kỉ nguyên 1- CẢNH THỤY (1006 -1009) - tại vị 04
năm .Hưng năm Tân tị 981 – Phế năm Kỉ dậu 1009
LÝ TRIỀU BÁT ĐẾ- kỉ nguyên 32-hưởng nước 216 năm.
LÝ THÁI TỔ- 18 năm- kỉ nguyên 1- THUẬN THIÊN (1010- 1028)
LÝ THÁI TÔNG -27 năm –kỉ nguyên 6 – THIÊN THÁNH 91029-1033)–
3
THÔNG THỤY 1034-1038)- KIỀN PHÙ HỮU ĐẠO(1039-1041)- MINH
ĐẠO(1042-1043) – THIÊN CẢM THÁNH VÕ(1044-1048) – SÙNG
HƯNG THÁI BẢO-(1049-1054)
LÝ THÁNH TÔNG -17 năm –kỉ nguyên 5- LONG THỤY THÁI BÌNH
(1054-1058)– CHƯƠNG THÁNH GIA KHÁNH(1059-1065)- LONG
CHƯƠNG THIÊN TỰ(1066-1067) THIÊN CHÚC BẢO TƯỢNG (1068)
– THẦN VÕ .(1069-1072)
LÝ NHÂN TÔNG -56 năm –kỉ nguyên 8- THÁI NINH (1072-1075)–ANH
VÕ CHIÊU THẮNG(1076-1084) – QUẢNG HỰU(1085-1091) – HỘI
PHONG(1092-1100) – LONG PHÙ(1101-1109) – HỘI TƯỜNG ĐẠI
KHÁNH(1110-1119) – THIÊN PHÙ THẬN VÕ(1120-1126) – THIÊN
PHÙ KHÁNH THỌ .(1127)
LÝ THẦN TÔNG – 11 năm –kỉ nguyên 2 – THIÊN THUẬN (1128-1132)
– THIÊN CHƯƠNG BẢO TỰ(1133-1137)
LÝ ANH TÔNG – 37 năm – kỉ nguyên 4- CHIÊU MINH(1138-1139) –
ĐẠI ĐỊNH(1140-1162) – CHÍNH LONG BẢO ỨNG(1163-1173) –
THIÊN CẢM CHÍ BẢO (1174-1175)

LÝ CAO TÔNG -35 năm – kỉ nguyên 4- TRINH PHÙ (1176-1185) –
THIÊN TƯ GIA THỤY(1186-1202)- THIÊN GIA BẢO HỰU (1203-
1204)– TRỊ BÌNH LONG ỨNG .(1205-1210)
LÝ HUỆ TÔNG -14 năm- kỉ nguyên 2- KIẾN GIA (1211-10/ 1224)
– THIÊN CHƯƠNG HỮU ĐẠO .(1225-Lý Chiêu Hoàng)
LÝ CHIÊU HOÀNG – 01 năm – Nhường ngôi cho chồng TRẦN CẢNH
Nhà LÝ hưng năm Canh tuất 1010 – phế năm Ất dậu 1225 .
TRẦN TRIỀU – 14 vua – kỉ nguyên 20 – hưởng nước 181 năm .
TRẦN THÁI TÔNG – kỉ nguyên 3 - ở ngôi 32 năm .KIẾN TRUNG
(1225-1231) – THIÊN ỨNG CHÍNH BÌNH (1232-1250)– NGUYÊN
PHONG(1251-1258)
TRẦN THÁNH TÔNG –kỉ nguyên 2 - ở ngôi 21 năm
THIỆU LONG (1258-1272)–BẢO PHÙ (1273-1278).
TRẦN NHÂN TÔNG – kỉ nguyên 2 - ở ngôi 14 năm
THIỆU BẢO(1279-1284) – TRÙNG HƯNG (1285-1293)
TRẦN ANH TÔNG-kỉ nguyên 1- HƯNG LONG(1293-1314) 21 năm
TRẦN MINH TÔNG – kỉ nguyên 2 - ở ngôi 15 năm
ĐẠI KHÁNH(1314-1323) – KHAI THÁI(1324 -1329)
TRẦN HIẾN TÔNG kỉ nguyên1 KHAI HỰU(1319-1341)ở ngôi 12 năm
TRẦN DỤ TÔNG – kỉ nguyên 2 - ở ngôi 28 năm
THIỆU PHONG (1341 -1357)– ĐẠI TRỊ (1358-1369).
TRẦN NGHỆ TÔNG kỉ nguyên 1-THIỆU KHÁNH(1370-1372) 03 năm
4
TRẦN DUỆ TÔNG – kỉ nguyên 1 –LONG KHÁNH(1372-1377) 5 năm
TRẦN PHẾ ĐẾ -kỉ nguyên 1- XƯƠNGPHÙ(1377-1388) ở ngôi 12 năm
TRẦN THUẬN TÔNG- kỉ nguyên 1-QUANG THÁI(1388-1398)09 năm
TRẦN THIẾU ĐẾ - kỉ nguyên 1 – KIẾN TÂN(1398-1400)tại vị 02 năm
Phụ - HỒ QUÝ LY- HỒ HÁN THƯƠNG (1400-1407)
TRẦN GIẢN ĐỊNH ĐẾ- kỉ nguyên 1-HƯNG KHÁNH(1407-1409) 2 năm
TRẦN TRÙNG QUANG ĐẾ- kỉ nguyên 1- TRÙNG QUANG(1409-

1413 )ở ngôi 05 năm .Sự nghiệp trung hưng được 07 năm chấm dứt.
Nhà TRẦN hưng năm Bính tuất 1226 – Phế năm Kỉ mão 1399
Nước nhà mất vao tay quân xâm lược nhà MINH (1414- 1417) .
LÊ THÁI TỔ kháng MINH dựng nghiệp.(1418-1427)
LÊ TRIỀU- 20 vua – kỉ nguyên 42 – hưởng nước 357 năm
LÊ THÁI TỔ - kỉ nguyên 1-THUẬN THIÊN(1428-1433) tại vị 06 năm
LÊ THÁI TÔNG – kỉ nguyên 2 – tại vị 09 năm
THIỆU BÌNH (1433-1439)– ĐẠI BẢO (1439-1442)
LÊ NHÂN TÔNG – kỉ nguyên 2 – tại vị 17 năm
THÁI HÒA(1443-1453) – DIÊN NINH (1454-1459)
LÊ THÁNH TÔNG – kỉ nguyên 2 – tại vị 38 năm
QUANG THUẬN (1460-1469)– HỒNG ĐỨC(1470-1497)
LÊ HIẾN TÔNG – kỉ nguyên 1-CẢNH THỐNG(1497-1504) 07 năm
LÊ TÚC TÔNG – kỉ nguyên 1 –THÁI TRINH(1504) ở ngôi 01 năm
LÊ UY MỤC ĐẾ - kỉ nguyên 1 –ĐOAN KHÁNH(1505-1509) 05 năm
LÊ TƯƠNG DỰC ĐẾ- kỉ nguyên1-HỒNG THUẬN(1510-1516)07 năm
LÊ CHIÊU TÔNG – kỉ nguyên 1-QUANG THIỆU(1516-1522) 06 năm
LÊ CUNG HOÀNG – kỉ nguyên 1 THỐNG NGUYÊN(1522-1527)
Phụ MẠC ĐĂNG DUNG – MẠC ĐĂNG DOANH
LÊ TRANG TÔNG – kỉ nguyên1- NGUYÊN HÒA(1533-1548) 17 năm
Phụ ĐĂNG DOANH – PHÚC HẢI – PHÚC NGUYÊN
LÊ TRUNG TÔNG – kỉ nguyên 1 THUẬN BÌNH(1548-1556) 08 năm
– Phụ PHÚC NGUYÊN
LÊ ANH TÔNG – kỉ nguyên 3 –THIÊN HỰU(1557)-CHÍNH
TRỊ(1558-1571)-HỒNG PHÚC(1572-1573) tại vị 16 năm
Phụ MẠC – PHÚC NGUYÊN
LÊ THẾ TÔNG – kỉ nguyên 2 –GIA THÁI(1573-1577) QUANG
HƯNG(1578- 1599) tại vị 27 năm
LÊ KÍNH TÔNG – kỉ nguyên 2 – THUẬN ĐỨC (1600) HOẰNG
ĐỊNH(1601-1619)tại vị 19 năm

– Phụ -MẠC MẬU HỢP
5
LÊ THẦN TÔNG – kỉ nguyên 7 – trước sau tổng cộng 42 năm
VĨNH TỘ (1620-1628) ĐỨC LONG(1629-1634) – DƯƠNG HÒA
(1635-1643) – KHÁNH ĐỨC (1649-1652)–THỊNH ĐỨC(1653-1657)
– VĨNH THỌ(1658-1661) - VẠN KHÁNH (1662).
LÊ CHÂN TÔNG – kỉ nguyên 1PHÚC THÁI(1643-1649) - 07 năm
LÊ HUYỀN TÔNG - kỉ nguyên 1CẢNH TRỊ(1663-1671) 09 năm
LÊ GIA TÔNG – kỉ nguyên 2 - ở ngôi 04 năm
DƯƠNG ĐỨC(1672-1673) – ĐỨC NGUYÊN(1674-1675)
LÊ HY TÔNG – kỉ nguyên 2 – tại vị 27 năm
VĨNH TRỊ(1676-1680) - CHÍNH HÒA(1681-1705)
LÊ DỤ TÔNG – kỉ nguyên 2 – tại vị 21 năm
VĨNH THỊNH (1706-1729) – BẢO THÁI(1720-1729)
LÊ VĨNH KHÁNH ĐẾ - kỉ nguyên 1-VĨNH KHÁNH(1729-1732)
LÊ THUẦN TÔNG – kỉ nguyên 1- LONG ĐỨC(1732-1735) 04 năm
LÊ Ý TÔNG – kỉ nguyên 1 –VĨNH HỰU(1735-1740) ở ngôi 06 năm
LÊ HIỂN TÔNG – kỉ nguyên 1- CẢNH HƯNG(1740-1786) 48 năm
LÊ CHIÊU THỐNG ĐẾ - kỉ nguyên 1-CHIÊU THỐNG(1787-1789)
Nhà LÊ hưng năm Mậu thân 1428- phế năm Kỉ dậu 1789 .
HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG – Đại phá quân THANH truyền đến
QUANG TOẢN - Trải 3 đời – hưởng nước 17 năm – Chúa
NGUYỄN PHÚC ÁNH diệt nhà TÂY SƠN – Lập nên triều NGUYỄN
thống nhất sơn hà, năm 1802 –đặt niên hiệu là GIA LONG năm đầu
HOÀNG TRIỀU NGUYỄN – 12 vua – hưởng nước 144 năm
GIA LONG -18 năm (1802-1819)
MINH MỆNH – 21năm(1820-1841)
THIỆU TRỊ - 06năm(1841-1847)
TỰ ĐỨC - 36 năm(1848-1883)
DỤC ĐỨC – (làm vua được 03 ngày)

HIỆP HÒA – 05 tháng (6/1883-11/1883)
KIẾN PHÚC – 09 tháng (12/1883-8/1884)
HÀM NGHI – 01 năm (8/1884- 8/1885)
ĐỒNG KHÁNH 03 năm(10/1885-12/1888)
THÀNH THÁI – 19 năm(1/1889-7/1907)
DUY TÂN – 09 năm(1907-1916)
KHẢI ĐỊNH – 09 năm (1916-1925)
BẢO ĐẠI - 19 năm (1926- 30/8/1945)
Triều NGUYỄN hưng năm Nhâm tuất 1802– phế năm Ất dậu 1945
Ngày 30/8/1945-Vua Bảo Đại thoái Vị, giao nộp Ấn Kiếm cho chính
quyền Cách Mạng, ngày 02/9/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
Ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa .
Phụ ngụy niên hiệu
HỒ QUÝ LY niên hiệu : THÁNH NGUYÊN đặt quốc hiệu ĐẠI NGU
HỒ HÁN THƯƠNG niên hiệu : THIỆU THÀNH (1401-1402) KHAI
ĐẠI(1403-1407).Nhà HỒ hưng năm Canh thìn 1400- phế năm Đinh
hợi 1407 – hưởng nước 07 năm - đất nước mất vào tay quân xâm
lược nhà MINH – TRUNG QUỐC , nhị HỒ bị bắt đem về KIM LĂNG.
NHÀ MẠC
MẠC ĐĂNG DUNG niên hiệu : MINH ĐỨC((1527-1529)
MẠC ĐĂNG DOANH niên hiệu : ĐẠI CHÍNH (1530-1540)
MẠC PHÚC HẢI niên hiệu : QUẢNG HÒA (1541-1546)
MẠC PHÚC NGUYÊN niên hiệu : VĨNH ĐỊNH (1547) – CẢNH LỊCH
(1548-1553)– QUANG BẢO(1554-1561)
MẠC MẬU HỢP niên hiệu : THUẦN PHÚC (1562-1565) – SÙNG
KHANG (1566-1577)–DIÊN THÀNH (1578-1585) – THỤY THÁI
(1586-1587) – HƯNG TRỊ(1590) - HỒNG NINH (1591-1592).
Nhà MẠC hưng năm Đinh hợi 1527- phế năm Qúi tỵ 1593 hưởng
nước 67 năm .
NHÀ TÂY SƠN

NGUYỄN NHẠC niên hiệu THÁI ĐỨC(1778-1793)
NGUYỄN HUỆ niên hiệu QUANG TRUNG(1789-1792)
NGUYỄN QUANG TOẢN niên hiệu CẢNH THỊNH (1792-1801) –
BẢO HƯNG (1801-1802).
Nhà TÂY SƠN hưng năm Giáp thìn 1784 – phế năm Tân dậu 1801
Trải ba đời vua hưởng nước 17 năm .
Chúa Nguyễn ở đàng trong(NAM HÀ). Các chúa Trịnh ở BẮC HÀ
Nguyễn Hoàng 1600-1613 Trịnh Kiểm 1545-1570
Nguyễn Phúc Nguyên 1613-1635 Trịnh Tùng 1570-1623
Nguyễn Phúc Lan 1635-1648 Trịnh Tráng 1623-1652
Nguyễn Phúc Tần 1648-1687 Trịnh Tạc 1653-1682
Nguyễn Phúc Trăn1687-1691 Trịnh Căn 1682-1709
Nguyễn Phúc Chu 1691-1725 Trịnh Cương 1709-1729
Nguyễn Phúc Chú 1725- 1738 Trịnh Giang 1729-1740
Nguyễn Phúc Khoát 1738-1765 Trịnh Doanh 1740-1767
Nguyễn Phúc Thuần 1765-1777 Trịnh Sâm 1767-1782
Nguyễn Phúc Ánh 1780-1802 Trịnh Khải (Tông)1782-1786
Trịnh Bồng 9/1786- 9/1787
7
VIỆT NAM QUỐC SỬ DIỄN CA
******@********
Nghìn thu gặp hội thăng bình
Sao KHUÊ sáng vẻ văn minh giữa trời
Lan đài dành bút thảnh thơi
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh
Nam giao là cõi Li minh *
Thiên thư định phận rành rành từ xưa
Phế - Hưng trải mấy cuộc cờ
Thị phi chép để đến giờ làm gương
Kể từ trời mở Viêm Bang

Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra
Cháu đời Viêm Đế thứ ba
Nối dòng Hỏa Đức gọi là Đế Minh
Quan phong khi giá Nam hành
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều
Vụ Tiên vừa thủa đào yêu
Xe Loan nối gót tơ điều kết duyên
Dòng Thần sánh với người Tiên
Tinh anh gộp lại Thánh Hiền nổi ra
Phong làm Quân trưởng nước ta
Tên là Lộc Tục hiệu là Kinh Dương
Hóa cơ dựng mối luân thường
Động Đình sớm kết với nàng Thần Long
Biến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì
Lạc Long lại sánh Âu Cơ
Trăm giai( trai) điềm ứng Hùng Bi lạ thường
Noãn bào dù chuyện hoang đường
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì#
Chú thích:
*Theo Kinh Dịch quẻ Li ở chính Nam – Đức sáng của Văn minh
# Bà Giản Địch nuốt trứng huyền điểu đẻ ra ông Tiết-Tổ nhà Thương.
Phế là suy mất đi – Hưng là thịnh dấy lên – thịnh suy là cơ biến dịch.
Tiến Đức bàn : Tôi nghe sử gia nước Tàu là Tư Mã Thiên nói rằng :
“Một ông vua dù sáng hay tối đều biết chọn người giỏi giúp mình , thế
mà sự hưng phế nối tiếp nhau xảy ra , vì sao ? Vì rằng những người
được chọn dùng kia không phải là người giỏi trong giỏi” .
Nhà sư Vạn Hạnh nói : “Thịnh Suy như hạt móc treo đầu ngọn cỏ” .
8
Đến điều tan hợp cũng kì

Há vì Thủy Hỏa sinh li như lời ?
Chia con sự cũng lạ đời
Qui sơn _Qui hải khác người biệt li !
Lạc Long về chốn Nam thùy
Âu Cơ sang nẻo Ba vì -Tản Viên
Chủ chương trọn một con Hiền
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng
Hùng vương đô ở Châu Phong
Ấy là Bạch Hạc hợp dòng Thao giang
Đặt tên là nước Văn Lang
Chia mười lăm bộ bản chương cũng liền
PHONG CHÂU – PHÚC LỘC – CHU DIÊN
Nhìn trong địa chí về miền SƠN TÂY
ĐỊNH – AN – HÀ NỘI đổi thay
Âý châu GIAO CHỈ xưa nay còn truyền
TÂN HƯNG là cõi HƯNG TUYÊN
VŨ NINH tỉnh BẮC – DƯƠNG TUYỀN tỉnh ĐÔNG
THÁI – CAO hai tỉnh hỗn đồng
Âý là VŨ ĐỊNH tiếp cùng biên manh
HOÀI HOAN : NGHỆ - CỬU CHÂN : THANH
VIỆT THƯỜNG là cõi TRỊ - BÌNH trung châu
LẠNG là LỤC HẢI thượng du
Xa khơi NINH HẢI thuộc vào QUẢNG YÊN
BÌNH VĂN – CỬU ĐỨC còn tên
Mà trong địa giới sơn xuyên chưa tường
Trước sau đều gọi HÙNG VƯƠNG
Vua thường nối hiệu , quan thường nối tên
Lạc hầu là tướng điều nguyên
Võ là lạc tướng giữ quyền quân cơ
Đặt quan Bồ chánh – Hữu tư

Chức danh một bậc đẳng uy một loài
Vừa khi phong khí sơ khai
Trinh nguyên xảy đã gặp đời ĐẾ NGHIÊU
Bình dương nhật nguyệt sáng cao
Tấm lòng QUỲ - HOẮC cũng đều hướng dương
THẦN QUI đem tiến ĐÀO ĐƯỜNG
BẮC – NAM từ ấy giao bang là đầu .
9
Man dân ở chốn thượng liu
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sinh
Thánh nhân soi tỏ vật tình
Đem loài thủy quái vẽ mình thổ nhân
Từ sau tục mới văn thân
Lợi dân đã dấy , hại dân cũng trừ
Dạy truyền một mối xa thư
Bốn phương phẳng lặng trời xanh một màu
Thử thăm Trung quốc thế nào
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu Vương
Ba trùng dịch lộ chưa tường
Ban xe Tý Ngọ chỉ đường Nam qui
Sáu đời Hùng vận vừa suy
VŨ NINH có giặc mới đi cầu tài
Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân
Nghe vua cầu tướng ra quân
Thoắt cười thoắt nói muôn phần hiên ngang
Lời thưa mẹ dạ cần vương
Lấy Trung – làm Hiếu một đường phân minh

Sứ về tâu trước Thiên đình
Gươm vàng ngựa sắt đề binh tiến vào
Trận mây theo ngọn cờ đào
Ra uy sấm sét nửa trào giặc tan
ÁO nhung cởi lại Linh san
Thoắt đà thoắt nỡ trần hoàn lên Tiên
Miếu đình còn dấu cố viên
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không ?
Lại nghe trong thửa LẠC HÙNG
Mỵ nương có ả tư phong khác thường
Gần xa nức tiếng cung trang
Thừa Long ai kẻ Đông sàng sánh vai ?
Bỗng đâu vừa thấy hai người
Một Sơn tinh với một nòi Thủy tinh
Cầu hôn đều gởi tấc thành
Hùng Vương mới phán sự tình một hai
10
Sính nghi ước gặp ngày mai
Ai mau chân trước định lời hứa danh
Trống lầu vừa mới tan canh
Kiệu hoa đã thấy Sơn tinh trực ngoài
Ước sao lại cứ như lời
Xe Loan trăm cỗ đưa người nghi gia
Cung đàn tiếng địch xa xa
Vui về non Tản sầu ra bể tần
Thủy tinh lỡ bước chậm chân
Đùng đùng nổi giận đem ân làm thù
Mưa tuôn gió thổi mịt mù
Aò ào rừng nọ ù ù núi kia
Sơn thần hóa phép cũng ghê

Lưới giăng dòng Nhĩ phên che ngàn đoài
Núi cao sông cũng còn dài
Năm năm báo oán , đời đời đánh ghen .
Bổ di còn truyện trích Tiên
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu
Ra vào nương náu hà châu
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người
Tiên Dung kíp buổi đi chơi
Gió đưa Đằng Các thuyền xuôi Nhĩ Hà
Chử đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên
Thừa lương nàng mới dừng thuyền
Vây màn tắm mát kề liền bên sông
Người thục nữ kẻ Tiên đồng
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa
Giận con ra dạ mây mưa
Hùng Vương truyền lệnh thuyền đưa bắt về
Non sông đã trót nhời thề
Hai người một phút hóa về Bồng Châu
Đông yên ,Dạ Trạch đâu đâu
Khói hương nghi ngút truyền lâu muôn đời
Bể dâu biến đổi cơ trời
Mà so hồng lạc lâu dài ai hơn
Kể vua mười tám đời truyền
Hai nghìn năm lẻ vững bền khôn lay
11
Một dòng phụ đạo xưa nay
Trước ngang Đường Đế , sau tầy Báo Vương
Thục từ dứt nước VĂN LANG
Đổi tên ÂU LẠC , đô sang Loa thành

Phong Khê là đất Vũ Ninh
Xây thôi lại lở công trình xiết bao
Thục Vương thành ý khẩn cầu
Bỗng sai Giang sứ hiện vào Kim Qui
Hóa ra thưa nói cũng kì
Lại còn can cớ bởi vì: iêu tinh
Lại hay phù phép cũng linh
Vào rừng sát Qủy , đào thành trừ hung
Thành xây nửa tháng mà xong
Thục vương cảm tạ tấm lòng Giảo Linh
Lại bàn đến sự chiến tranh
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương
Dặn sau làm máy Linh quang
Chế ra Thần Nỏ dự phòng việc quân
Bấy giờ gặp hội cường Tần
Tằm ăn lá Bắc toan lần cành Nam
Tiến Đức nhận xét: Từ năm Mậu tuất -2879 tr CN ,LỘC TỤC nhận
đất phong Vương ở châu Kinh, Châu Dương lập nước XÍCH QUỸ ,
Đến năm Qúy mão -258 tr CN nước Văn Lang diệt vong , trải 2622
năm , tại sao không có một trang chính sử ghi chép để lại ? Việc
bang giao có từ ngày lập nước , cụ thể là đem Rùa Thần tiến cống
Đế Nghiêu nhà Đào Đường , được ghi chép thành Qui lịch , đem
bạch trĩ tiến cống nhà Thành Chu , được ban tặng xe chỉ Nam ,
không có ngôn ngữ , văn tự thì lấy gì để giao hảo ? Đã có bang giao
thì văn minh Hoa Hạ tuyệt vô ảnh hưởng đến dân nước ta sao được!
Tại sao nước Văn Lang bị Thục Phán người nước Thục tiêu diệt ,
cuộc chiến Hùng – Thục không một trang sử chép vì sao vậy ? Dân
Văn Lang theo về Thục –Cao Lỗ làm quan Thục chế ra Thần Nỗ Linh
Quang –Lý Ông Trọng làm quan Uý của Tần Thủy Hoàng trấn ải
quân Hung Nô khiếp đảm- không thể nói là không có dũng lược ! Lí

do đưa đến nước diệt vong chỉ là quyền lợi của nhà cầm quyền đi
ngược lại lợi ích của quốc gia – dân tộc , khiến mâu thuẫn giữa nhà
cầm quyền và nhân dân lao động thành đối kháng nước lửa, trong
nhà tàn hại lẫn nhau , người ngoài mới có cơ vào cướp, nước mất
nhà tan mạng sống không giữ được , của cải ích gì mà tham luyến !
12
Châu ki vốn nặng túi tham
Đồ Thư – Sử Lộc sai làm hai chi
Lĩnh Nam mấy chốn biên thùy
Quế Lâm – Tượng Quận thu về bản chương
Đặt ra Úy Lệnh rõ ràng
Họ Nhâm – họ Triệu sai sang giữ gìn
Hai người thống thuộc đã quyen
Long Châu – Nam Hải đôi bên lấn dần
Chia nhau Thủy Bộ hai quân
Tiên Du ruổi ngựa , Đông Tân đỗ thuyền
Thục Vương có Nỏ Thần truyền
Muôn quân buông một lượt tên còn gì
Nhâm Ngao nhiễm bệnh trở về
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu Uý Nam là Thục Vương
Mặt ngoài hai nước phân cương
Mà trong Triệu lại mượn đường Thông gia
Nghĩ rằng Nam Bắc một nhà
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù
Thục cơ tên gọi Mỵ Châu
Gả cho Trọng Thủy con đầu Triệu Vương
Trăm năm đã tạc đá vàng
Ai ngờ Tế Tử ra đàng phụ ân

Tóc tơ tỏ hết xa gần
Thừa cơ đem máy Nỏ Thần đổi đi
Tỉnh thân giả tiếng Bắc qui
Đinh ninh dặn hết mọi bề thủy chung
Rằng : Khi đôi nước tranh hùng
Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?
Trùng lai dầu họa có ngày
Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau !
Cạn nhời thẳng ruổi vó câu
Quản bao liễu oán hoa sầu nẻo xa
Giáp binh sắp sẵn từ nhà
Về cùng Triệu Uý kéo ra ải tần
An Dương cậy có Nỏ Thần
Vi kì còn hãy ham phần vui chơi
13
Triệu quân đuổi đến tận nơi
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền
Để cho quân Triệu theo liền bóng tinh
Kim Qui đâu lại hiện Linh
Mới hay giặc ở bên mình không xa
Bấy giờ Thục chúa tỉnh ra
Dứt tình phó lưỡi Thái A cho nàng
Bể Nam đến bước cùng đường
Văn Tê theo ngọn suốt vàng cho xuôi
Tính là nước Thục một đời
Ở ngôi vừa được năm mươi năm tròn
Nghe Thần rồi lại tin con
Cơ mưu chẳng nhiệm thôi còn trách ai
Triệu vương thay nối ngôi trời

Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên Ngung
Loạn Tần gặp lúc ngư cô
Trời Nam riêng mở cơ đồ một phương
Rồng Lưu bay cõi Bái Dương
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù
Cõi Nam lại cứ phong cho
Biên thùy gìn giữ cơ đồ vững an
______________________________
Chú thích :Vi kì:là cờ vây ,Nga mao: áo khoác làm bằng lông ngỗng .
Tiến Đức nhận xét : Thục chúa diệt nước Văn Lang , san phẳng
thành trì của chủ cũ , truy diệt người chống đối tận núi sâu hang
cùng để thị uy , tuy cục diện chính trị đã định,nhưng lòng người
chưa định . Không thi ân bố đức với thần dân , nặng thổ mộc cung
tường khiến sức dân không kham nổi , cậy võ lực Thần uy sinh kiêu
căng, táng bại là đáng lắm , chỉ thương dân Bách Việt chìm trong
binh lửa liên miên, quốc đã diệt chủng khó toàn , diệt nước người
lại bị người diệt chuyện thường thôi . Thục Phán hay Triệu Đà làm
chúa có gì khác , đều là quân xâm lược cả thôi . Nấu sử xôi kinh là
bổn phận của người có học , không chỉ biết sử ta , còn phải biết sử
thế giới , hiểu thấu việc đã qua , dự liệu việc chưa tới , lúc ở yên
phải lo phòng lúc nguy biến. Từ buổi sơ khai loài người đã phải hợp
đoàn , để chống lại thiên tai địch họa , nên mới có bộ lạc , nhiều bộ
lạc liên thủ thành bang , nhiều bang hợp lại thành nước . Một nước
thì có cương vực,có chủ quyền, có người đại biểu chủ trương …
14
Gặp khi gà Lữ gáy càn
Chia đôi Hán Việt lại toan sinh lòng
Vì ai cấm chợ ngăn sông
Để cho dứt nẻo khai thông đôi nhà
Thân chinh hỏi tội Trường Sa

Mân - Âu muôn dặm mở ra một lần
Hán Văn lấy đức mục lân
Sắc sai Lục Giả cựu thần lại sang
Tỉ thư một bức chiếu vàng
Ngỏ điếu ơn ấy,kể đường thủy chung
Triệu vương nghe cũng bằng lòng
Mới dâng Tạ biểu một phong vào chầu
Ngoài tuy giữ Lễ chư hầu
Trong theo hiệu Đế làm đầu nước ta
Trăm hai mươi tuổi mới già
Tính năm ngự vị kể đã bảy mươi
Văn Vương vừa nối nghiệp đời
Lửa binh đâu đã động ngoài biên cương
Phong thư tâu với Hán Hoàng
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quân
Vương Khôi vâng mệnh tướng thần
Ải lang quyét sạch bụi trần một phương
Hán đình có chiếu ban sang
Sai con Triệu lại theo đường cống nghi
Xe rồng phút bóng mây che
Minh vương ở Hán lại về nối ngôi
Bợm già vụng nếm họa thai
Vợ là Cù thị vốn người Hàm Đan
Khuynh thành quyen thói hồng nhan
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hành
Dâng thư xin với Hán đình
Lập con thế tử phong mình cung phi
Ai vương thơ ấu nối vì
Mẹ là Cù thị nhiều bề riêng tây
Cầu phong đã rắp những ngày

Ngoài thông Bắc sứ , trong gầy lệ giai
Khéo đâu rắt réo lạ đời
Sứ là Thiếu Qúy vốn người tình nhân
15

Hoa tàn lại bén hơi xuân
Giao hoan chốn mặt, hòa thân một lòng ?
Nghĩ rằng về Hán là xong
Tình riêng phải mượn phép công mới già !
Làm thư gửi sứ đưa qua
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu
Lữ Gia là tướng ở đầu
Đem lời can gián bày mưu xa gần
Một hai ngăn đón hành trần
Để cho Triệu Bích về Tần sao nên
Nàng Cù đã quyết một bên
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tay
Tiệc vui chén cúc giả say
Mắt đưa cao thấp giáo rơi nhùng nhoàng
Đương khi hoan yến nửa chừng
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra
Chia quân cấm lữ vệ nhà
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Lão Cù yếu sức sứ thần non gan
Vũ thư đặt đến Nam quan
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương
Nội Hưng thơ dại , nội nàng ao ao
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ

Chuyên vận bảo ngọc các đồ sạch không !
Rắp toan bán nước làm công
Quyên ơn thủa trước không lòng mai sau
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu
Chồi non chẳng bẻ rễ sâu khó đào
Quan binh một trận đổ vào
Lửa nào tiếc ngọc , nắng nào tiếc hoa
Vệ Dương lên nối nghiệp nhà
Trong là quốc nạn , ngoài là địch nhân
Hai ngàn giết sạch Hán quân
Đem cờ sứ tiết để gần ải quan
Tạ từ giả tiếng nói van
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng
16
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang
Một kì tịnh tiến năm đường giáp công
Trong thành một ngọn lửa thông
Chiêu hàng ngoại mạc hội đồng các doanh
Chạy ra lại gặp truy binh
Vệ Dương – Lữ Tướng phọc mình cửa viên
Kể từ Triệu lịch kỉ niên
Năm ngoài chín chục ngôi truyền năm vua
Trách ai gây việc tranh đua
Ngắn dài vận nước – được thua cơ trời ?
Giao châu mới thuộc nước người
Ấy về Tây Hán là đời Nguyên Phong
Bản đồ vào sách hỗn đồng
Đất chia chín quận quan phong Thú thần
Đầu sai Thạch Đái trị dân
Cầm quyền Tiết Việt giữ phần phong cương

Tuần tuyên mới có Tích Quang
Dạy dân Lễ Nghĩa theo đường Hoa phong
Nhâm Diên khuyến việc canh nông
Đổi nghề ngư lạp về trong quê điền
Sính nghi lại giúp bổng tiền
Khiến người bần khổ thỏa nguyền thất gia
Văn phong nức dấy gần xa
Từ hai hiền Thú ấy là khai tiên
Luân hồi trăm có dư niên
Trải qua Đông Hán Thừa Tuyên mấy người
Đường ca lâu đã vắng rồi
Đến như Tô Định vốn người chí hung
Bà Trưng quê ở châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quyên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bức chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành
Đô kì đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
17
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục hai là Bá Vương
Uy thanh động đến Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi chống với anh hùng được nao ?
Cấm Khê đến lúc hiểm nguy

Chị em thất thế cùng về với sông !
Phục Ba mới dựng cột đồng
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài
Trưng Vương vắng mặt còn ai ?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan !
Trải Minh – Chương đến Hiếu An
Tuần lương đã ít tham tàn thiếu đâu
Mới từ Thuận Đế về sau
Đặt quan Thứ Sử thuộc vào chức phương
Kìa như Phàn Diễn , Giả Xương
Chu Ngung , Lưu Tháo dung thường kể chi
Trương Kiều thành tín vỗ nuôi
Chúc Lương uy đức Man Di cũng gần
Hạ Phương ân trạch ngấm nhuần
Một châu Tiết Việt hai lần thừa tuyên
Tuần lương lại có Mạnh Kiên
Khúc ca Giả phụ vang miền trung châu
Ba năm bệ trạc về chầu
Thổ quan LÝ Tiến mới đầu Nam nhân
Sớ kêu ai chẳng vương thần
Sĩ đồ chi để xa gần khác nhau
Tình từ động đến thần Lưu
Chiếu cho cống sĩ bổ châu huyện ngoài
Lý Cầm triều trực điện đài
Nhân khi Nguyên Đán kêu lời xa xôi
Rằng sao phúc tải bồi hồi
Gió mưa để một cõi ngoài Viêm phương
Tấm thành cũng thấu quân vương
Trung châu lại mới bổ sang hai người
Nước Nam mấy kẻ nhân tài

Mới cùng người Hán chen vai từ rày
18
Lửa lò Viêm Hán gần bay
Thế chia chân vạc nào hay cơ trời
Tranh nhau ba nước ba nơi
Cầm quyền sinh sát mặc người phong cương
Hậu lưu lại có Sĩ Vương
Khơi nguồn Chu Tứ , mở đường Lễ Văn
Phong tiêu rất mực Thú thần
Sánh vai Đậu Mục chen chân Triệu Đà
Sỹ Huy nối giữ nghiệp nhà
Dứt đường thông hiếu gây ra cừu thù
Cửa viên phút bỗng hệ tù
Tiết mao lại thuộc về Ngô từ rày
Binh qua trải bấy nhiêu ngày
Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần
Anh hùng chán mặt phong trần
Nữ nhi lại cũng có lần cung đao
Cửu Chân có ả Triệu kiều
Vú dài ba thước tài cao muôn người
Gặp cơn thảo muội cơ trời
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang
Đầu voi phất ngọn cờ vàng
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc khai hà
Dẫu khi chiến tử còn là hiển linh
Tiến Đức bàn:Tôi nghe sử gia Lê Văn Hưu nói: “Người giỏi trị
nước không cứ gì đất rộng hay hẹp , người Hoa hay người Di ,
chỉ xem ở Đức mà thôi” .Tần là nước nhỏ ở hẻo lánh của Trung
Quốc, mà gồm thâu tất cả các nước lớn , như tằm ăn lá dâu ,

nhờ biết sử dụng nhân tài mà nhân tài tự đến vậy . Sử thần Ngô
Sĩ Liên lại nói : “Việc giữ nước chống giặc tự có đạo lí , đúng đạo
thì được nhiều người giúp mà nước hưng thịnh , lỗi đạo thì ít
người giúp mà phải bại vong” . Nước Việt từ khi mất cửa ải hiểm
yếu ở Ngũ Lĩnh thì không khôi phục được nữa buồn thay! Thánh
nhân bảo : Dân ngu dễ trị - là nói dân tục thuần hậu chất phác
không sảo trá dễ ổn định , cho nên nền giáo dục trọng Đức Hiếu
Nghĩa hơn Trí Sảo , ít bàn đến Lợi, vì Lợi là mối đầu của Loạn,
có áp bức có đấu tranh , cứ xem như việc Trưng Nữ Vương hô
một tiếng, thu phục được sáu mươi lăm thành của Lĩnh ngoại đủ
biết sức Dân như nước. Chở thuyền ,lật thuyền cùng là nước cả!
19
Từ giờ Ngô lại tung hoành
Đặt làm Giao – Quảng hai thành mới phân
Tôn Tư rồi lại Đặng Tuân
Lã Hưng – Dương Tắc mấy lần đổi thay
Đổng Nguyên – Lưu Tuấn đua tay
Kẻ Ngô người Tấn những ngày phân tranh
Đào Hoàng nối dựng sứ tinh
Tân Hưng-Cửu Đức – Vũ Bình lại chia
Mười năm chuyên mặt phiên li
Uy gia bốn cõi ơn thừa một châu
Khi đi dân đã nguyện lưu
Khi già thương khóc khác nào Từ thân
Ngô công nối dấu phương trần
Hai mươi năm lẻ nhân tuần vỗ yên
Dân tình cảm kết đã bền
Tước nhà Cố bí lại truyền Cố Tham
Dân tình khi đã chẳng kham
Dẫu là Cố Thọ muốn làm ai nghe ?

Quận phù lại thuộc Đào Uy
Rồi ra Đào Thục – Đào Tuy kế truyền
Bốn đời Tiết Việt cầm quyền
Phiên bình muôn dặm Trung –Hiền một môn
Tham tàn những lũ Vương ôn
Binh qua nối gót nước non nhiễm trần
Tấn sai Đô đốc tướng quân
Sĩ Hành là kẻ danh thần chức cao
Dẹp yên rồi lại về Triều
Uy danh nào kém họ Đào thửa xưa
Nguyễn Phu tài chí có thừa
Phá năm mươi lũy tảo trừ giặc man
Chu Diên lại có thổ quan
Đỗ công danh Viện dẹp đoàn Cửu chân
Tướng môn nối chức phiên thần
Con là Tuệ Độ thêm phần uy danh
Bổng riêng tán cấp cùng manh
Cơm rau áo vải như hình kẻ quê
Dâm từ cấm thói ngu mê
Dựng nhà học hiệu , giảng bề minh luân
20
Ân – Uy ra khắp xa gần
Cửa thành đêm mở , gió xuân một trời
Hoằng Văn vỗ ngự cũng tài
Một nhà kế tập ba đời tuần lương
Đến triều Lưu Tống hưng vương
Hòa Chi , Nguyên Cán sai sang hội đồng
Đuổi Dương Mại , giết Phù Long
Khải ca một khúc tâu công về triều
Gió thu cuốn bức chinh biều

Y thường một gánh qui thiều nhẹ không
Từ khi vắng kẻ triết xung
Trường Nhân , Lưu Mục tranh hùng mấy phen
Pháp Thặng cũng chức Thừa tuyên
Nhưng chăm việc sách để quyền lại Ti
Dưới màn có Phục Đặng Chi
Cướp quyền châu mục lộng uy Triều đình.
Tề suy Nguyên Khải tung hoành
Hùng phiên chiếm giữ cô thành một phương
Bắc triều đã thuộc về Lương
Lại sai Lý Tuấn chiêu hàng nẻo xa
Giao Châu một dải sơn hà
Ái châu lại mới đặt ra từ rày
Kể từ Ngô – Tấn lại đây
Hai trăm mười bốn năm chầy cắt phân
Cỏ cây chan chứa bụi trần
Thái Bình mới có Lý Phần hưng Vương
Vốn xưa bát sĩ nước Lương
Binh qua gặp lúc phân nhương lại về
Cứu dân đã quyết lời thề
Văn thần , Võ tướng ứng kì đều ra
Tiêu Tư nghe gió chạy xa
Đông tây muôn dặm quan hà quyét thanh
Vạn Xuân mới đặt quốc danh
Cải nguyên Thiên Đức , đô thành Long Biên
Lịch đồ vừa mới kỉ niên
Hưng vương khí tượng cũng nên một đời
Quân Lương đâu đã đến ngoài
Bá tiên là tướng thiết bài chuyên chinh
21

Cùng nhau mấy trận giao binh
Thừa cơ quyét sạch Gia Ninh đôi đường
Thu quân vào ở Tân Xương
Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài
Mới hay : “Nhật phụ mộc lai” *
Sấm văn trước đã an bài những khi .
Bấy giờ Triệu mới thừa cơ
Cứ đầm Dạ Trạch liệu bề tấn công
Lý vương phút trở xe rồng
Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doanh
Hương nguyền trời cũng chứng minh
Rồng vàng trao vuốt dắt vành đầu mâu
Từ khi Long qua đội đầu
Hổ hùng thêm mạnh quân nào dám đương
Bá Tiên đã trở về Lương
Dương Sàn còn ở chiến trường ganh đua
Một cơn gió bẻ cành khô
Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra
Bốn phương phẳng lặng can qua
Theo nền nếp cũ lại ra Long thành
Lý xưa còn có một cành
Tên là Thiên Bảo náu mình Ai Lao
Chiêu binh lên ở động Đào
Họ là Phật Tử cũng vào hội minh
_______________________________
• chỉ Trần Bá Tiên
Tiến Đức bàn : Từ lúc nước Văn Lang bị diệt vong , đến hai bà
Trưng khởi nghĩa gần ba trăm năm . Dân tình không chịu nổi ách
áp bức bóc lột của nhà cầm quyền chuyên chế, mà nổi lên giết kẻ
tham bạo, thực bụng không có tư tưởng làm chủ vận mệnh của

mình. Cho nên dù có Trưng vương,Triệu ẩu ,Lý Nam Đế cũng
không độc lập được , vì sao ? Vì rằng nền giáo dục nô dịch đã
nhồi sọ người dân Việt rồi, cho dù cha con, ông cháu nhà Đỗ Viện
muốn sửa dân tục, tự mình làm gương cũng chưa đủ, cái nọc độc
của văn hóa nô dịch sợ thay ! Nhà ái quốc Phan Bội nói: “Không ai
làm ngu yếu mình bằng tự mình làm ngu yếu mình” . Cũng đúng
như Binh pháp nói “ Không sợ thế giặc đương cường, chỉ sợ lòng
dân đã hở”. Việc Nhân Nghĩa cốt ở yên dân, lòng dân đã hở thì
không thể lấy ít địch nhiều, mưu cơ đã hở tất rước vạ vào thân!
22
Đào Lang lại đổi quốc danh
Cũng toan thu phục cựu kinh của nhà .
Cành dâu mây tỏa bóng tà
Bấy giờ Phật Tử mới ra nối dòng
Rừng xanh gió phất cờ hồng
Đề binh kéo xuống bên sông tung hoành
Triệu vương giáp trận đại bình
Lý thua rồi mới thu binh xin hòa
Triệu về Long Đỗ - Nhĩ Hà
Lý về Hạ Lão ấy là Ô Diên
Hai nhà lại kết nhân duyên
Nhã Lang sánh với gái hiền Quả Lương
Có người Hống -Hát họ Trương (Trương Hống-Trương Hát)*
Võ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu
Rằng : Xưa Trọng Thủy – Mỵ Châu
Hôn nhân là giả - khấu thù là chân
Mảnh gương vãng sự còn gần
Lại toan giả mối Châu Trần sao nên
Trăng già sao nỡ xe duyên
Để cho hậu Lý gây nền nội công

Tình con rể nghĩa vợ chồng
Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau
Lân la mới hỏi tình đầu
Nhã Lang trộm lấy đầu mâu đổi liền
Trở về giả tiếng vấn yên
Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang
Triệu vương đến bước vội vàng
Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua
Đem con chạy đến Đại Nha
Than thân bách chiến phải ra đường cùng !
Từ nay Phật Tử xưng hùng
Hiệu là Nam Đế nối dòng Lý vương
Phong Châu mới mở triều đường
Ô Diên – Long Đỗ giữ giàng hai kinh
Tùy sai Đại tướng tổng binh
Lưu Phương là chức quản hành Giao Châu
Đô Long một trận giáp nhau
Xin hàng Lý phải sang chầu Tấn vương.
* sau hiểnThần Linh, giúp Thường Kiệt phá Tống ở Như Nguyệt.
23
Từ rày lại thuộc Bắc phương
Mấy năm Tùy loạn rồi Đường mới ra
Quan Tùy lại có Công (Khâu)Hòa
Lại đem đồ tịch nước ta về Đường
An Nam lại mới canh trương
Đặt Đô Hộ Phủ theo đường Trung Hoa
Mười hai châu lại chia ra
Giao – Phong – Lục –Ái – Chi – Nga – Diễn -Trường
Vũ – An – Phúc Lộc – Hoan Thang
Ki Mi các bộ Man hoang ở ngoài

Quan Đường lắm kẻ tham tài
Binh dân hàm oán trong ngoài hợp mưu
Mai Thúc Loan ở Hoan châu
Binh ba mươi vạn ruổi vào ải xa
Hiệu là Hắc Đế mở ra
Cũng toan quyét dẹp sơn hà một phương
Đường sai Tư Húc tiếp sang
Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp công
Vận đời còn chửa hanh thông
Nước non để giận Anh Hùng ngàn thu
Trấn Nam lại đổi tên châu
Một đời canh cải trước sau mấy kì
Tiến Đức bàn :Người có mưu chước lo xa cho muôn dân rất là
hiếm có , vì tư lợi mà làm thì chuốc nhiều sự oán , lòng tham che
mờ mắt khiến việc làm để giận ngàn thu . Nhân dân vì chán ghét
nhà cầm quyền mà để cho giặc ngoài vào nước là mắc sai lầm
diệt tộc , nhà cầm quyền sợ dân hơn sợ giặc mà đầu hàng hèn
nhát thì rước họa diệt quốc, như Phật Tử phản bội lòng thành của
Quang Phục mà đoạt nước , giặc đến chưa quyết một trận trống
mái đã hàng trước .Thân bị bắt về Bắc, còn tướng soái bị bắt giết
sạch thảm thay ! Quả có như câu : “Làm chim chọn cây mà đỗ -
làm người chọn chủ mà thờ” . Việc đời phá dễ xây khó , “để là áo
tháo là dẻ” , khối thống nhất bị xé lẻ , việc bẻ gãy dễ như chiếc
đũa tách khỏi bó đũa thôi .Trong xã hội không có nhiều giai cấp
như người ta đã chia ra , thường chỉ tồn tại hai giai cấp là : Giai
cấp thống trị ( Nhà cầm quyền) và giai cấp bị trị ( Nhân dân lao
động) , khi nào cùng chung lợi ích, thì khi đó có đoàn kết chung lo
tối cao . Để có được một xã hội ổn trị có trình độ chuyên môn hóa
cao,vô tri như loài ong , kiến còn có vua tôi huống chi ta là
người ?

24
Xa khơi ngoài chốn biên thùy
Đồ Bà giặc mọi đua bề phân tranh
Bá Nghi hợp với Chính Bình
Dẹp đoàn ngoại khấu xây thành Đại La
Xiết bao phú trọng chính hà **
Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng ?
Đường Lâm mới có Phùng Hưng
Đã tài trí dũng lại thưng phú hào
Cõi Tây một việc cung đao
Đô Quân tôn hiệu Tản Thao thử tình
Đem quân thẳng đến vây thành
Đại La thế bức Chính Bình hồn tiêu
Nhân phủ trị mở ngôi Triều
Phong Châu một dải huỳnh điều mới chuyên
Đế hương chút trở xe biền
Đại Vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu
Phùng An con nối sơ ngu
Nghe quan Nhu Viễn bày mưu hàng Đường
Kể từ đô hộ Triệu Xương
Thành La xây lại vững vàng hơn xưa
Thuyền chơi qua bến sông Từ
Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sao
Thấy người hai trượng dài cao
Bàn Kinh giảng Truyện khác nào văn nhân
Cùng nhau như cởi tâm thần
Tỉnh ra mới hỏi căn nguyên tỏ tường
Lý Ông Trọng ở Thụy Hương
Người đời vua Thục mà sang thi Tần
Hiếu Liêm nhẹ bước thanh vân

Làm quan Hiệu úy đem quân ngự Hồ
Uy danh đã khiếp Hung Nô
Người về Nam quốc hình đồ Bắc phương
Hàm Dương đúc tượng người vàng
Uy thừa còn giúp Tần Hoàng phục xa
Hương thôn cổ miếu tà tà
Từ nay tu lí mới là phong quang
** phú trọng : thuế khóa nặng nề - chính hà : chính sự gay gắt
khiến nhân dân không chịu nổi , tiếng ta thán vang dậy , giặc
cướp nổi lên , một đốm lửa giữa cánh đồng cỏ khô !

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×