Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY VÀ BÀI HỌC TỪ TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.93 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài: SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI TRONG VIỆC
ĐIỀU HÀNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY VÀ
BÀI HỌC TỪ TRUNG QUỐC
Nhóm sinh viên:
1, Đào Hoài Thu – 1117120229
2, Trần Khánh Nga- 1117120181
3, Nguyễn Thị Thơ – 1211120101
4, Phạm Thu Hương – 1211120054
5, Trương Công Mỹ Hạnh-
1117120222
6, Nguyễn Thị Thảo - 1113120197
7, Vũ Thị Anh – 1113120103
8, Nguyễn Việt Anh - 1113120104
9, Nguyễn Minh Ngọc - 11111
20215
10, Nguyễn Thị Lan – 1113120170
11, Nguyễn Thị Phương Anh -
1111120212
12, Trần Thị Hoàng Hà –
1111120113
13, Nguyễn Quang Tùng –
1111120208
14, Lê Thị Thùy Dung -
1111120144
Giáo viên hướng dẫn: TS Hoàng Xuân Bình
Hà Nội
2013
MỤC LỤC


2
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hoá, môi trường kinh doanh quốc tế luôn tạo ra rất
nhiều cơ hội cho bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Theo đó, sự xuất
hiện và tồn tại của các quan hệ, các chính sách tài chính quốc tế là một
tất yếu của phạm trù tài chính gắn liền với sự phát sinh phát triển của
các hoạt động kinh tế chính trị của một nước.
Ngay khi thị trường mở phát triển, các quốc gia đã luôn mong có
một nền kinh tế hoàn hảo, khiến cho các nhà hoạch định chính sách
kinh tế luôn muốn đạt được cả ba mục tiêu: tự do hoá dòng vốn,
chính sách tiền tệ độc lập và duy trì tỉ giá ổn định. Tuy nhiên,
không một quốc gia nào, kể cả những nước phát triển như Mỹ, Trung
Quốc, Hàn Quốc,… lại có thể đạt được cả ba mục tiêu trên. Vì vậy, một lý
thuyết ra đời và trở thành nền tảng cho nền kinh tế học vĩ mô của nền
kinh tế mở đã được phát hiện ra bởi hai nhà kinh tế học Robert Mundell
và Marcus Fleming vào những năm 1960 đã đưa ra và giải thích sự thất
bại trong chính sách tài chính quốc tế mang tên “bộ ba bất khả thi”
(impossible trinity).
Hiện nay, dựa vào lý thuyết bộ ba bất khả thi này, chính phủ các
nước trên thế giới đã có những triết lý khá rõ ràng trong việc lựa chọn
các mục tiêu chính sách của bộ ba bất khả thi như từng bước mở cửa
tài chính nhưng không quên kiểm soát vốn, linh hoạt thay vì cố định tỷ
giá và sử dụng công cụ chính sách tiền tệ một cách khôn khéo, có hiệu
quả.
Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Sự vận dụng lý
thuyết Bộ ba bất khả thi trong việc điều hành nền kinh tế Việt Nam từ
năm 2007 đến nay và bài học từ Trung Quốc” để giúp tìm hiểu sâu hơn
3
về vấn đề này cũng như sự áp dụng lý thuyết này trong nền kinh tế Việt
Nam để tránh mắc phải những sai lầm không đáng có.


I. Lý thuyết chung về Bộ ba bất khả thi
Giáo sư Robert Mundell được xem là cha đẻ của lý thuyết bộ ba bất khả
thi. Và “mô hình Mundell-Fleming” được xem là điếm khởi đầu của bộ ba bất khả
thi, là kết quả nghiên cứu của Robert Mundell (1932) và J.M.Fleming (1911-
1976) trong thời gian làm việc tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF.
Đây là mô hình lý thuyết kinh tế học rất nổi tiếng. Vào những năm 1980
khi vấn đề kiểm soát vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa
việc neo giữ tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết
bộ ba bất khả thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế
mở.
1.Khái niệm
Lý thuyết về bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity) là một chính sách
kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát đó là: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện
cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô:
- Ổn định tỷ giá
- Tự do hóa dòng vốn
- Chính sách tiền tệ độc lập
“Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2
trong 3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do
hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó
có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song
phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm
4
soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm
phát hoặc suy thoái (giống như Archentina hoặc hầu hết Châu Âu)" trích lời đề
tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999.
1.1 Ổn định tỉ giá
Ốn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa đế chính phủ tiến hành các
biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với

rủi ro của nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng
nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt lên. Tuy nhiên tỷ giá cố định
hay ổn định quá mức có mặt trái của nó. Tỷ giá quá ổn định làm cho chính phủ
mất đi một công cụ đế hấp thụ các cú sốc bên trong và bên ngoài truyền dẫn vào
nền kinh tế.
Ví dụ lạm phát cao trong nước mà tỷ giá gần như cố định dễ dẫn đến nguy
cơ hàng hóa mất sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hậu quả là xuất khẩu
giảm và nhập khẩu tăng lên. Ngoài ra tính quá cứng nhắc của tỷ giá còn ngăn
cản không cho những nhà làm chính sách sử dụng công cụ chính sách phù hợp
với thực tế diễn biến cả nền kinh tế, nhất là khi đang có dấu hiệu bong bóng tài
sản.
Ví dụ vào những tháng đầu năm 2008 kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng
lạm phát tăng tốc 2 con số. Lúc bấy giờ tỷ giá dao động mức 1 USD=16.500 VND.
Nhiều nhà kinh tế lúc bấy giờ đưa ra đề xuất đế cho tỷ giá giảm xuống mức 1
USD = 15.500 VND đế nhập khẩu lạm phát thấp ở nước ngoài về. Tỷ giá giảm
làm cho giá hàng nhập khẩu giảm đi. Kết quả của việc giảm tỷ giá, tức để cho
đồng nội tệ lên giá, kéo theo giá hàng nhập khẩu giảm đi (nếu các yếu tố khác
không đối). Vào thời điểm này do dòng vốn chảy vào nền kinh tế Việt Nam quá
nhiều nên tỷ giá có lúc đã giảm xuống khoảng 1 USD = 15.500 VND. Vấn đề là
5
thay vì nhập khấu các vật tư cần thiết cho sản xuất giúp hạ nhiệt lạm phát thì
các doanh nghiệp Việt Nam lại nhập khẩu quá nhiều ô tô. Nhìn chung tỷ giả quá
cứng nhắc chẳng những có khả năng dẫn đến bất ổn trong tăng trưởng, rủi ro
lạm phát cao mà còn dẫn đến phân bổ sai nguồn lực và tăng trưởng không bền
vững.
1.2 Tự do hóa dòng vốn
Hội nhập tài chính hợp tác giữa các nền kinh tế, hay có thể nói là sự luân
chuyển dòng vốn giữa các nền kinh tế.
− Lợi ích :
+ Hữu hình :quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn, giúp

nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư.
+ Vô hình : Tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản
trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập.
− Lợi ích lớn nhất-lợi ích vô hình-mang lại từ hội nhập tài chính là tạo ra động lực
giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản trị tốt hơn để theo kịp
những thay đối tù' hội nhập. Trên thực tế chính nhờ vào quá trình tự do hóa tài
chính cuối những thập niên 1990, nhất là sau trở thành thành viên WTO 2007
mà chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách sâu rộng, trong đó có cải
cách thủ tục hành chính và chất lượng thể chế.
− Mặt trái: Hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh
tế những năm gần đây. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn
hạn và mang tính đầu cơ. Các cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1990 và cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng có nguyên nhân từ hội nhập tài chính
nhưng thiếu quy tắc điều tiết kèm theo. Tình trạng bong bóng chứng khoán và
bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 dẫn đến những bất ổn kinh tế vĩ
mô một phần cũng do tự do hóa tài chính nhung thiếu cơ chế giám sát tương
6
thích. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang
tính đầu cơ.
1.3.Chính sách tiền tệ độc lập
Chính sách tiền tệ độc lập là những chính sách mà nhà nước thực hiện
nhằm mục đích điều tiết kinh tế, nhưng không quan tâm đến những chính sách
đến tỉ giá hay tăng giảm, hay các biến số vĩ mô khác.
Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ để thực hiện chính sách phản chu kỳ kinh tế. Chẳng hạn nếu nền kinh
tế có dấu hiệu phát triển nóng, chính phủ sẽ tăng lãi suất hoặc thắt chặt cung
tiền và ngược lại. Trong các trường hợp này chính phủ không quan tâm đến tỷ
giá tăng hay giảm và các biến số kinh tế vĩ mô khác. Chính vì sự độc lập tiền tệ
này mà nhiều nhà kinh tế tin rằng chúng sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng ốn
định hơn. Tuy nhiên độc lập tiền tệ quá mức có thế là một cái cớ đế chính phủ

lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn.
Độc lập tiền tệ nhiều hơn vì vậy dễ dẫn đến bất ổn định trong tăng trưởng
và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Đó là chưa kể độc lập tiền tệ quá mức có khả
năng làm cho chính phủ tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ bằng cách phát hành tiền
trang trải cho thâm hụt ngân sách. Hậu quả là nền kinh tế rơi vào mất ổn định
với tình trạng lạm phát.
2.Sự vận dụng bộ ba bất khả thi trong việc điều tiết nền kinh tế
Hình 1 là sự minh hoạ về nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi
cạnh thế hiện cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc lập, sự
ốn định của tỷ giá, và hội nhập tài chính hoàn toàn. Đối nghịch với mỗi cạnh
(hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài
7
chính đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn; mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với
đỉnh thả nổi hoàn toàn; mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh
liên minh tiền tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bởi một đỉnh
nằm giữa. Ví dụ, mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá ốn định đạt được
bởi đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn. Mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội
nhập tài chính hoàn toàn có thể khả thi với đỉnh thả nổi hoàn toàn.
Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính đạt được bởi đỉnh
liên minh tiền tệ. Hoàn toàn không khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu.

Hình 1: Tam giác bộ ba bất khả thi
2.1.Sự kết hợp giữa ổn định tỉ giá và tự do hóa dòng vốn.
Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế
độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ
đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất
nước ngoài.
Phân tích trong mô hình Mundell-Fleming, khi dòng vốn ra vào được tự
do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì NHNN buộc phải tung đồng nội tệ
8

để mua vào đồng ngoại tệ hoặc giảm lãi suất trong nước nếu dòng tiền đi vào
quá nhiều; ngược lại, NHNN sẽ phải bán bớt ra một lượng ngoại tệ dự trữ để thu
về đồng nội tệ hoặc gia tăng lãi suất trong nước khi dòng vốn đảo chiều. Trong
bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều
hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế sẽ không thể
đảm bảo vì cung tiền và lãi suất không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền
kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định.
2.2.Sự kết hợp giữa độc lập tiền tệ và tự do hóa dòng vốn.
Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế
độ tỷ giá thả nổi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá.
Với lựa chọn này, chính phủ (NHNN) được quyền tự do ấn định lãi suất
nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường.
Ngược lại với cách kết hợp ở trên, nếu NHNN muốn có một chính sách tiền tệ
độc lập vì mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế thì buộc phải thả nổi tỷ giá
khi tài khoản vốn đã được tự do.
Trong nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, dòng vốn chảy vào và
chảy ra, tỷ giá hối đoái, và lạm phát là những yếu tố luôn có liên hệ mật thiết với
nhau. Tuy nhiên, khi dòng vốn ra vào được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái
ổn định thì ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại
tệ trong trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, một lượng ngoại tệ
dự trữ sẽ phải bán bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều. Trong
bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều
hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền
không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng
tiền vào ra quyết định.Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính
9
sách tiền tệ độc lập vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ
giá khi tài khoản vốn đã được tự do. Vì vậy, không thể có chính sách tiền tệ độc
lập trong điều kiện cố định hay coi như cố định tỷ giá hối đoái và tài khoản vốn
được tự do.

2.3.Sự kết hợp giữa ổn định tỉ giá và độc lập tiền tệ
Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị
trường vốn đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn.
Khi có kiếm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ. Việc kết hợp
giữa ổn định tỉ giá và độc lập tiền tệ có ưu điểm là có thể kiềm chế được lạm
phát và ổn định kinh tế vĩ mô bằng công cụ chính sách tiền tệ độc lập, tỉ giá cố
định có khả năng điều hòa nền kinh tế, giữ ổn định thị trường giá cả không bị
ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài và bên trong. Tuy nhiên, nhược điểm của sự
kết hợp này là khi dòng vốn không được tự do chu chuyển và bị kiểm soát bởi
Nhà nước sẽ không có lợi cho sự phát triển của đất nước, nhất là khi Việt Nam là
một nước đang phát triển cần nhiều vốn đầu tư từ bên ngoài.
II. Phân tích thực trạng vận dụng bộ ba bất khả thi trong nền kinh
tế Việt Nam từ năm 2007 đến nay
1. Các chính sách điều hành kinh tế tại Việt Nam giai đoạn trước năm 2007
1.1. Chính sách tỉ giá:
Năm 2006 là năm đầu tiên tỷ giá VND/USD được điều hành thử nghiệm
theo cơ chế tỷ giá thả nổi thận trọng, có quản lý, thực hiện mua bán ngoại tệ
trên thị trường theo mục tiêu điều hành.
Tỷ giá VND/USD sau đó có xu hướng tăng nhẹ, nhưng nhìn chung được
giữ tương đối ổn định trong thời gian dài
10
1.2. Chính sách tiền tệ:
- Chính sách về lãi suất:
Tháng 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng VND được chuyển
từ cơ chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản.
Năm 2001, lãi suất từng bước được điều hành theo hướng tự do hóa và
phù hợp với mục tiêu CSTT.
Từ năm 2003, việc điều hành CSTT chuyển biến theo hướng nới lỏng một
cách thận trọng. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần là lãi suất trần, lãi
suất chiết khấu được điều chỉnh là lãi suất sàn của thị trường.

NHNN đã tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết
khấu nhằm thắt chặt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm phát đang có xu hướng
gia tăng.
- Chính sách về dự trữ bắt buộc:
Tháng 5/2001 tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ DTBB
bằng VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ xuống còn
10%.
Từ năm 2003, các TCTD được tính cả tiền gửi DTBB tại các chi nhánh
NHNN, đây là bước khởi đầu cho việc thực hiện mục tiêu tăng cường khả năng
điều tiết tiền tệ của công cụ này.
1.3. Chính sách kiểm soát vốn:
Chính sách nghiệp vụ thị trường mở
Khai trường tháng 7/2000, chính sách về nghiệp vụ thị trường mở đã góp
phần điều chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng.
Từ năm 2004, Nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường sử dụng như
một công cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ, không chỉ khắc phục hiện tượng mất cân
đối cung cầu ngoại tệ, mà còn tạo điều kiện cho NHNN tăng dự trữ ngoại hối.
11
2. Các chính sách điều hành kinh tế tại Việt Nam từ sau 2007, vận dụng lý
thuyết bộ ba bất khả thi:
Sau khủng hoảng kinh tế 2008, các nền kinh tế trên thế giới đang phải đối
đầu với nhiều vấn nạn như sự gia tăng nợ công của khu vực Châu Âu, bong bóng
tài sản ở Trung Quốc và hiện nay là tình hình lạm phát ngày càng nghiêm
trọng ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Trong việc vận dụng bộ ba bất khả thi ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng,
Việt Nam đang chấp nhận độc lập tiền tệ ở mức trung bình để duy trì một chế độ
tỷ giá ổn định ở mức cao (neo tỷ giá) và kiểm soát dòng vốn. Tuy nhiên trước
thực trạng lạm phát ngày càng cao và xu hướng hội nhập toàn cầu thì buộc
chúng ta phải chuyển đổi sang một hướng đi mới, hướng các chính sách nhằm
giảm tốc lạm phát. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải thay đổi

mục tiêu trong bộ ba bất khả thi, kiểm soát vốn trong một chừng mực nào đó,
tỷ giá phải linh hoạt hơn để đổi lại có thể thực hiện một chính sách tiền tệ độc
lập hơn nhằm kiềm chế lạm phát.
Trong thực tế, từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đang thực hiện cố định tỉ
giá với một biên độ khá hẹp ( +/- 1-3%), điều chỉnh việc cố định tỷ giá khá
thường xuyên để đối phó với áp lực lên tiền đồng, việc sử dụng chính sách tiền tệ
vẫn còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như tỉ giá, lãi suất…, dòng vốn đổ
vào chịu kiểm soát của Nhà nước, dòng vốn trên thị trường tự do đa số là ngắn
hạn và mang tính chất đầu cơ.
Năm 2007
Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO,
đánh dấu bước phát triển cao của quá trình hội nhập của nước ta. Sau cam kết hội
nhập tài chính với WTO, dòng vốn nước ngoài chảy tự do vào Việt Nam tăng cao
12
(riêng FII đã khoảng 6.3 tỷ USD; FDI đạt 20,3 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến
nay).
Do đó, mục tiêu duy trì mức giảm giá đồng tiền một vài phần trăm, tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất khẩu trở nên khó khăn hơn khi mà lượng ngoại tệ chảy vào
Việt Nam gia tăng mạnh mẽ do sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và các
dòng vốn khác được khai thông tốt hơn trong tiến trình hội nhập.
Đứng trước áp lực nêu trên, cộng với việc mong muốn gia tăng số lượng ngoại tệ
dự trữ phòng khi bất trắc xảy ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã tung
tiền đồng để mua vào một lượng lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng Thế
giới, chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỉ Đôla, tương
đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông. Và kết quả là, tháng
6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên
16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian trước.
Việc bơm thêm một lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế của NHNN đã làm
áp lực lạm phát gia tăng: năm tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng
7,3% so với cùng kỳ năm ngoái (WB 2007). Điều này làm cho mục tiêu khống chế

mức tăng giá trong năm 2007 ở con số 6,5% của Chính phủ trở nên khó khăn hơn.
Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá trong thời gian còn lại của năm
2007, NHNN rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế bằng lựa chọn tăng dự trữ bắt buộc
tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10%; theo đó có khoảng 40.000-50.000 tỉ
đồng, tương đương với số tiền bỏ ra để mua 3 tỉ Đôla nêu trên, quay trở lại kho của
Ngân hàng Nhà nước.
Trong nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, ba yếu tố gồm: dòng vốn;
tỷ giá hối đoái và lạm phát luôn có liên hệ mật thiết với nhau.
Khi dòng vốn ra vào (tài khoản vốn) được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn
định thì ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong
13
trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẽ
phải bán bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều.
Trong bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều
hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền
không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền
vào ra quyết định.
Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách tiền tệ độc
lập vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá khi tài khoản
vốn đã được tự do.
Nhìn vào việc vận hành chính sách tiền ở Việt Nam, dường như ba đỉnh của
tam giác bất khả thi đều được hướng đến: dòng vốn ra vào tương đối tự do, chính
sách tiền tệ lạm phát mục tiêu vẫn được thực hiện và tỷ giá thì ổn định.
Đây chính là nghịch lý mà Ngân hàng Nhà nước đã tạo ra. Khi làm như vậy, tiền
chảy vào không được đưa vào đầu tư mà lại cất trong két không tạo ra giá trị gia
tăng cho nền kinh tế và theo thời gian sẽ không lấy gì trả được cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Về dài hạn chính sách như vậy sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Khi đồng tiền chảy vào không được đưa vào đầu tư mà lại cất trong két
không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế và theo thời gian sẽ không lấy gì trả
được cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì mục tiêu đưa tiền vào Việt Nam của các

nhà đầu tư nước ngoài là để tạo ra lợi nhuận mà theo Giáo sư Ari Kokko, thuộc
trường Kinh tế Stockholm: “ suất sinh lợi yêu cầu tối thiểu của các khoản đầu tư
phải là 15%; để có được suất sinh lợi nêu trên, chỉ có cách duy nhất là đem tiền đầu
tư tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Trường hợp đem tiền cất vào trong két
làm dự trữ hoặc đầu tư vào những loại chứng khoán ít rủi ro sẽ tạo ra suất sinh lợi
thấp hơn 15% rất nhiều. Khi đó, khoảng cách giữa chi phí vốn và suất sinh lợi sẽ
rất lớn…”
14
Về dài hạn chính sách như vậy sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh tế do nhiều dự
án, công trình đang chờ vốn, nhiều doanh nghiệp đang cần vốn để gia tăng hoạt
động kinh doanh. Nếu tăng dự trữ bắt buộc lúc này, không những làm cho chi phí
đầu ra của ngân hàng và doanh nghiệp gia tăng mà sự khan hiếm vốn cũng có thể
xảy ra và sẽ đẩy các ngân hàng vào một cuộc đua lãi suất mới gây bất lợi cho nền
kinh tế.
Năm 2008
Năm 2008 là năm mà nền kinh tế có nhiều biến động lớn: ba tháng đầu
năm, nên kinh tế đang trên đà phát triển, sáu tháng tiếp theo, chúng ta nhận ra
sự bất ổn trong nền kinh tế và bắt đầu đưa ra những biện pháp ngăn chặn. Ba
tháng cuối năm chúng ta chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế bộc lộ rõ và lan
rộng, giai đoạn này chúng ta tập trung vào điều chỉnh nền kinh tế. Mục tiêu kinh
tế lúc này là kiềm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán, kiềm hãm sự
tăng trưởng nóng của thị trường bất động sản (BĐS); tất cả những mục tiêu
trên chỉ có thể được điều hành bằng một chính sách tiền tệ (CSTT) hợp lý, hiệu
quả của ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Chính sách tiền tệ với 4 chính sách được coi là cứng rắn và kiên quyết đưa
ra lúc này được đánh giá là một cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền
kinh tế nhằm ngăn chặn vật giá leo thang và lạm phát:
- Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, đồng thời mở rộng phạm vi tiền gửi
dự trữ bắt buộc.
- Phát hành 20300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM nhà nước lớn

nhất, mỗi ngân hàng phải mua 3000 tỷ đồng.
- Tăng các loại lãi suất của NHNN
- NHNN ban hành quyết định thắt chặt cho vay chứng khoán.
15
Trên đây là những điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của
NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của
các NHTM.
Phản ứng của nền kinh tế sau những CSTT thắt chặt:
- Lãi suất biến động mạnh và liên tục tăng cao trong những tháng đầu năm, xu
hướng giảm nhẹ trong những tháng cuối năm.
- Tỷ giá trên thị trường diễn biến tăng giảm phức tạp, tăng giảm thất thường đòi
hỏi những can thiệp sâu hơn của NHNN.
- Đầu tư giảm do các nhà đầu tư lo ngại về tình hình kinh tế bất ổn và do tình
hình vay vốn đầu tư khó khăn.
- Xuất hiện đầu cơ ngoại tệ vào thời điểm tỷ giá VND/USD tăng cao; đẩy giá vàng
tăng mạnh.
Chính phủ không dự đoán được tình hình khủng hoảng xảy ra nên việc áp
dụng CSTT của NHNN được thực hiện trong bị động và tình hình kinh tế căng
thẳng. Việc thắt chặt CSTT đột ngột trong giai đoạn đầu tạo ra cú sốc lớn và gây
ra các phản ứng tiêu cực tức thời của thị trường tiền tệ và của NHTM.
Thêm vào đó, sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu trong ngắn hạn sẽ khiến
cho nền kinh tế trong ngắn hạn không thể thực hiện được tất cả các mục tiêu
của chính sách tiền tệ.
Năm 2009
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy
nền kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường
xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều
lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước ta.
16
Thêm vào đó, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu

tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại tác động mạng đến tâm lý
các nhà đầu từ trên thị trường ngoại hối, gây biến động khó lường đến tỷ giá.
Sự khan hiếm đồng tiền về mặt lý thuyết làm cho VND lên giá, nhưng
chính sách điều tiết vĩ mô theo hướng hạ lãi suất, kích thích đầu tư gây áp lực
giảm giá VND.
NHNN chủ trương thực hiện CSTT linh hoạt kết hợp đồng bộ với nhiều
giải pháp khác để ổn định thị trường:
- Hạ lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%
- Hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%
- Mở rộng biên độ ấn định tỉ giá mua bán USD/VND của các NHTM từ +/- 3% lên -
5%
- Giảm lãi suất huy động của các NHTM, đồng thời cho vay bằng ngoại tệ
- NHNN điều chỉnh nâng tỷ giá lên 17.980 VND/USD.
Năm 2010
Trong năm 2010, đã có những tiến bộ rất đáng hoan nghênh trong việc ổn
định thị trường ngoại hối. Sự kết hợp của việc thắt chặt chính sách tiền tệ đáng
kể nhằm ứng phó với giá hàng hóa sơ chế tăng, và một bước phá giá mạnh tiền
đồng đã hỗ trợ nhiều hơn cho tiền đồng, cho dù có sự hỗ trợ của các biện pháp
hành chính để hạn chế việc mua bán vàng và ngoại hối bên ngoài hệ thống ngân
hàng. Tiền đồng được kinh doanh thuận lợi trong phạm vi biên độ tỷ giá chính
thức và áp lực lên giá đang diễn ra đủ để cho phép Ngân hàng Nhà nước bắt đầu
bổ sung thêm dự trữ ngoại hối của mình, tăng 0,9 tỷ USD lên đến 13,5 tỷ USD
trong tháng 5/2011.
17
Sự ổn định trong thị trường ngoại hối đã giúp giảm lợi tức rủi ro ngoài
nước với chênh lệch lãi suất quốc gia của Việt Nam và chỉ số hoán đổi vỡ nợ tín
dụng (CDS) thu hẹp bớt đi khoảng 100 điểm cơ bản từ đỉnh cao hơn 400 điểm cơ
bản trong tháng 2/2011.
Dù vậy, vẫn còn những thách thức lớn vẫn còn đặt ra đối với Việt Nam.
Lạm phát vẫn đang ở xu hướng tăng lên, đạt gần 20% (so với cùng kỳ năm

trước) vào tháng 5 và lạm phát cơ bản cũng đang tăng lên, và có khả năng tăng
cao hơn nữa trước khi bắt đầu giảm vào cuối năm.
Đối với chính sách tiền tệ, ngay từ những tháng cuối năm 2009, những
biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN bắt đầu cho thấy dấu hiệu
chuyển dần từ nới lỏng sang chính sách thắt chặt.
Trong lúc thực hiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và định hướng tăng trưởng tín dụng của hệ thống,
NHNN cũng yêu cầu hệ thống tài chính tín dụng không được hạ thấp các điều
kiện cho vay và kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất. Việc đáp
ứng các nhu cầu vốn phục vụ kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán hay
cho vay tiêu dùng, kinh doanh theo đó sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Điều chỉnh
giảm các chỉ tiêu tăng trưởng, từ mức 28,7% tăng tổng phương tiện thanh toán
và 37,73% tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế đến cuối năm 2009 xuống
chỉ còn 25% trong năm 2010 cho thấy quyết tâm rõ rệt và cụ thể nhất của
NHNN.
Trong năm 2010, NHNN đã điều hành được lượng tiền cung ứng thông
qua các công cụ chính sách tiền tệ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các
ngân hàng thương mại (NHTM) và nền kinh tế, tác động làm giảm mặt bằng lãi
18
suất thị trường. Thực hiện cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận bằng VND,
điều hành linh hoạt các mức lãi suất, kết hợp với các biện pháp khác để điều tiết
mặt bằng lãi suất thị trường phù hợp. Thực hiện các giải pháp hỗ trợ khu vực
nông nghiệp, nông thôn và gói kích thích kinh tế theo Nghị quyết của Chính
phủ, trong đó tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng mở rộng và nâng cao chất
lượng, hiệu quả tín dụng, đơn giản hóa thủ tục cho vay; tập trung vốn cho vay
chi phí sản xuất, kinh doanh khu vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Điều hành tỉ giá và thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối
chống suy giảm dự trữ ngoại hối Nhà nước, kiểm soát nhập siêu và ngăn ngừa
nguy cơ rủi ro về thanh khoản ngoại tệ và tỉ giá. Trong năm 2010, NHNN đã 2
lần điều chỉnh tăng tỉ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng; quy định mức lãi

suất tiền gửi tối đa bằng USD 1%/năm của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng;
kiểm soát chặt chẽ việc mua, cho vay, thanh toán ngoại tệ …. Tuy nhiên, cũng
trong năm 2010, bên cạnh những mặt tích cực còn tồn tại những mặt hạn chế
như việc đặt áp lực lên việc kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng và ảnh hưởng tăng
giá vàng và các ngoại tệ khác do ảnh hưởng từ việc điều chỉnh tỉ giá, tốc độ sụt
giảm quá nhanh của mức tăng tổng dư nợ tín dụng làm cho các doanh nghiệp
khó tiếp cận đủ vốn để duy trì sản xuất và thanh khoản của nền kinh tế trở nên
khó khăn, việc điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo hài hòa giữa ổn định kinh tế
vĩ mô và tăng trưởng kinh tế nên khả năng linh hoạt chưa ở mức cao…
Năm 2011
Năm 2011 được xem là thành công của chính sách điều hành tỷ giá khi
những ngày cuối năm, tỷ giá đi vào ổn định. Ngoại trừ “cú sốc” điều chỉnh tỷ giá
19
tăng đến 9,3%, mức tăng mạnh nhất trong lịch sử của thị trường ngoại hối Việt
Nam vào ngày 9/2 cộng với việc siết biên độ từ +/-3% xuống còn +/-1%, năm
2011 được xem là một năm thành công của chính sách điều hành tỷ giá của
Ngân hàng Nhà nước. Việc điều chỉnh tăng tỷ giá USD tới 9,3% là một sự kiện
gây bất ngờ cho những nhà quan sát thị trường ngoại hối vào thời điểm 9/2.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh sự ổn định của tỉ giá trong hơn 7
tháng còn lại của năm 2011, trở lại với chính sách tỉ giá cố định như trong các
năm trước đó.
Trong việc sử dụng chính sách tiền tệ, chỉ tiêu lạm phát mục tiêu 2011 đặt
ra với mức kỳ vọng cao hơn nhiều so với thực tế, gây áp lực lớn cho điều hành
CSTT và buộc phải sử dụng công cụ, các biện pháp hành chính, ngắn hạn, gây
sốc cho nền kinh tế.
Năm 2011 lạm phát mục tiêu đề ra <7 %/năm, thấp hơn nhiều so với mức
lạm phát thực tế bình quân của 3 năm trước đó 2008-2010 (12.73%). Điều này
cho thấykỳ vọng quá cao của chính phủ, muốn ổn định nhanh kinh tế vĩ mô. Do
vậy, NHNN bắt buộc phải cắt giảm cung tiền và giảm tăng trưởng tín dụng đột
ngột, gây ra các hệ quả không như mong muốn: lãi suất cho vay và nợ xấu tăng

cao, thanh khoản của hệ thống Ngân hàng căng thẳng, thị trường chứng khoán
suy kiệt, thị trường bất động sản đóng băng, nhưng lạm phát thực tế vẫn ở mức
quá cao 18.13%. Nguyên nhân của mức lạm phát năm 2011 quá cao so với mục
tiêu đề ra (<7%) là do những hệ quả , tất yếu của việc mở rộng cung tiền quá
mức và tăng trưởng tín dụng quá nóng trong giai đoạn trước đó và một phần
xuất phát từ việc điều hành CSTT thiếu chủ động.
Năm 2012
20
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình đã giữ được lời hứa về biến động tỷ
giá khi tỷ giá USD/VNĐ ổn định xuyên suốt cả năm 2012. Tỷ giá bình quân liên
ngân hàng ở mức 20,828 VND/USD, và bằng con số cuối năm 2011. Việc giữ ổn
định thị trường ngoại hối có thể xem là điểm cộng lớn nhất cho công tác điều
hành chính sách tiền tệ năm 2012. Dưới đây là một số tác nhân quan trọng góp
phần bình ổn giữ tỷ giá USD/VNĐ trong suốt năm 2011:
(i) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nhập siêu tháng 11 ước tính 50
triệu USD; và tính chung 11 tháng, cán cân thương mại thặng dư 14 triệu USD,
bằng 0.01% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
(ii) Dữ liệu công bố của NHNN cho thấy cán cân thanh toán tổng thể quý
2/2012 thặng dư 2.169 tỷ USD; so với con số thặng dư 3.373 tỷ USD trong quý
1/2012. Dự báo, cán cân thanh toán tổng thể trong cả năm 2012 sẽ tiếp tục duy
trì trạng thái thặng dư.
(iii) Theo thống kê của nhiều tổ chức, dự trữ ngoại tệ quốc gia hiện dự
kiến khoảng hơn 20 tỷ USD, tương đương hơn 11 tuần nhập khẩu. Theo ước tính
của Chính phủ, dự trữ ngoại tệ sẽ tương đương 12 tuần nhập khẩu vào cuối năm
2012.
(iv) Giá vàng thế giới tương đối ổn định trong gần suốt cả năm qua đã góp
phần bình ổn thị trường hàng hóa này; và theo đó, không tạo ra sức ép đáng kể
nào cho thị trường ngoại hối như cùng kỳ năm 2011.
Trong việc sử dụng chính sách tiền tệ, NHNN đã tạo được sự ổn định cơ
bản trên hệ thống tài chính – ngân hàng, như thanh khoản được cải thiện, kéo

giảm mặt bằng lãi suất, chống vàng hóa và đôla hóa, ổn định tỷ giá… Tuy vậy,
công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng, giải quyết nút thắt nợ xấu hiện vẫn chưa
21
có nhiều tiến triển đáng kể và diễn biến giá vàng trong nước còn gây e ngại cho
người dân.
Dấu hiệu căng thẳng thanh khoản trên hệ thống ngân hàng trong những
tháng cuối năm 2011 tiếp tục kéo dài sang năm 2012 khiến Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) duy trì áp dụng biện pháp hành chính là áp trần lãi suất huy động.
Trong quý 1, trước xu hướng giảm tốc của chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát kỳ
vọng, NHNN đã bắt đầu kéo giảm đồng loạt các lãi suất chính sách và trần lãi
suất huy động. Một số yếu tố cộng hưởng khác cũng giúp ủng hộ quan điểm này
là thanh khoản ở một số ngân hàng lớn dần được cải thiện; các kênh đầu tư
vàng, ngoại hối không còn thu hút dòng tiền… Trong năm 2012, lãi suất tái cấp
vốn đã giảm từ 15% xuống còn 10%, lãi suất tái chiết khấu đã giảm từ 13%
xuống còn 8%, và trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn ngày giảm từ 14% xuống
còn 9%.
Trong năm 2012, Chính phủ cũng đưa ra những chính sách điều chỉnh cơ
cấu ngân hàng ( tái cơ cấu những ngân hàng yếu kém, trong đó nổi bật là việc
hợp nhất ngân hàng, ví dụ như việc hợp nhất 3 ngân hàng Ngân hàng TMCP Sài
Gòn (SCB), Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Đệ Nhất (Ficombank)), phân
loại ngân hàng thành 4 nhóm với những mức chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng
riêng cho từng nhóm (Nhóm 1 tăng trưởng tối đa 17%, Nhóm 2 tăng trưởng tối
đa 15%, Nhóm 3 tăng trưởng tối đa 8% và Nhóm 4 không được tăng trưởng),
siết chặt thị trường liên ngân hàng, quản lý thị trường vàng ( chấm dứt các hoạt
động huy động mới và cho vay vốn bằng vàng, đặt thương hiệu vàng quốc gia,
…), giữ vững ổn định thị trường ngoại hối… Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt được còn tồn tại một số mặt hạn chế như cơ chế điều hành bằng biện
pháp hành chính khiến cho hoạt động lách trần lãi suất vẫn ngầm diễn ra sôi
22
động, khó khăn trong việc tái cơ cấu ngân hàng do việc chống đối từ các cổ

đông, sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá quốc tế và sự lúng túng
của người dân trong tình hình áp dụng thương hiệu vàng quốc gia, giải quyết
nút thắt nợ xấu hiện vẫn chưa có nhiều tiến triển đáng kể vẫn là những vấn đề
còn tồn tại trong việc thực hiện chính sách tiền tệ năm 2012.
Năm 2013
Quý I/2013 đã đạt được một số kết quả tích cực, như lạm phát thấp hơn
cùng kỳ năm trước, đã có xuất siêu
Kết quả của quý I cũng là tín hiệu để giảm hệ số ICOR năm 2013 so với
năm trước, cải thiện dần hiệu quả đầu tư - yếu tố tiềm ẩn, nguyên nhân sâu xa
để giảm lạm phát, giảm nhập siêu. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền
kinh tế nói chung và của khu vực kinh tế nhà nước nói riêng còn thấp so với
nhiều nước.
Về cán cân thương mại, chúng ta đã chuyển từ nhập siêu lớn trong nhiều
năm trước sang xuất siêu từ tháng 5/2012 đến tháng 2/2013.
Trong 3 tháng đầu năm, Việt Nam vẫn xuất siêu gần nửa tỷ USD, mức xuất
siêu lớn nhất so với cùng kỳ từ trước tới nay và là tín hiệu khả quan để cả năm
2013 tiếp tục xuất siêu hoặc nếu nhập siêu cũng không lớn như chỉ tiêu kế hoạch
(dưới 8% kim ngạch xuất khẩu, tương đương với 10 tỷ USD). Nhờ đó, cán cân
thương mại được thặng dư (theo ước tính của các chuyên gia, dự trữ ngoại hối
tính đến nay đã đạt được 14 tuần nhập khẩu, vượt qua ranh giới an toàn tài
chính theo thông lệ quốc tế).
23
Tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm với 2 lý do chính: Tỷ giá đã được ổn
định trong thời gian tương đối dài (năm 2011 chỉ tăng 2,24%, năm 2012 giảm
0,96%, quý I/2013 chỉ tăng 0,36%); lãi suất gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ thấp xa
so với lãi suất tiết kiệm bằng VND, mặc dù lãi suất tiết kiệm bằng VND đã qua
nhiều lần giảm. Nếu tính chung cả 2 yếu tố này thì việc giữ ngoại tệ là không có
lợi. Tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm tạo điều kiện để giảm tình trạng “đô la
hoá” nền kinh tế kéo dài trong nhiều năm trước đó, đồng thời củng cố và nâng
cao lòng tin đối với đồng nội tệ, một trong những yếu tố rất quan trọng góp

phần kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, trong tháng 3/2013 theo ước tính của Tổng cục Thống kê,
chúng ta đã nhập siêu trở lại (300 triệu USD); việc xuất siêu trong thời gian qua
bên cạnh những yếu tố tích cực có một phần quan trọng do nhu cầu đầu tư, sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng bị co lại; có một phần do xuất khẩu đá quý, kim
loại quý và sản phẩm chế tác quý I năm nay lên đến trên nửa tỷ USD, cao gấp
gần 4 lần cùng kỳ năm trước. Do vậy việc xuất siêu chưa thật bền vững.
Năm 2013 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2011-2015, vừa phải thực
hiện mục tiêu kép (lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn), vừa phải tạo điều
kiện cho tăng trưởng bền vững, mà ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện của tăng
trưởng bền vững.
III. Một số nghiên cứu về việc vận dụng Bộ ba bất khả thi trong việc
điều hành nền kinh tế ở Trung Quốc và bài học đối với Việt Nam.
24
1. Một số nghiên cứu về việc vận dụng Bộ ba bất khả thi trong việc
điều hành nền kinh tế ở Trung Quốc và bài học đối với Việt Nam
Trung Quốc là một quốc gia điển hình về việc vận dụng bộ ba bất khả thi
trong việc điều hành nền kinh tế. Theo xu hướng phát triển của nền kinh tế thế
giới, từ một nước đóng cửa hoàn toàn với chính sách tỷ giá cố định và chính
sách tiền tệ độc lập, Trung Quốc đã từng bước mở cửa để dòng vốn tự do đổ vào.
Về ổn định tỷ giá, chính sách tỷ giá của Trung Quốc gần như là cố định với việc
luôn duy trì mức giá đồng Nhân dân tệ ở mức thấp so với đồng ngoại tệ. Tuy
nhiên, theo thuyết “Bộ ba bất khả thi” của Mundell, chính phủ sẽ phải từ bỏ chính
sách độc lập tiền tệ, như vậy chính phủ đã mất đi công cụ kiểm soát lạm phát
cũng như công cụ điều hành lãi suất trong nước thay vì phụ thuộc vào lãi suất
thế giới.
Việc áp dụng bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc trong các giai đoạn:
1.1. Giai đoạn từ 1990-2001:
1.1.1.Kiểm soát dòng vốn đổ vào
Hạn chế đầu tư nước ngoài cũng như đầu tư trong nước ra nước ngoài:

đầu tư nước ngoài chỉ được mua cổ phiếu được định danh bằng đồng ngoại tệ
chứ không được mua trái phiếu cũng như cổ phiếu được định danh bằng đồng
nhân dân tệ. Điều này sẽ duy trì mức cung nội tệ trong nước nhằm ổn định lãi
suất trong nước và theo đuổi mục tiêu lạm phát ổn định.
Hạn chế đầu tư nước ngoài trực tiếp: hoạt động đầu tư nước ngoài phải
chịu sự kiểm soát và điều phối bởi Ủy ban kế hoạch Nhà nước.
Kiểm soát chặt chẽ đối với thủ tục phê chuẩn FDI.
1.1.2 Thực hiện duy trì tỷ giá cố định
Trước năm 1990, Trung Quốc theo đuổi chính sách điều chỉnh tỷ giá liên
tục, đồng nhân dân tệ liên tục giảm giá nhằm kích thích tăng xuất khẩu, giảm
25

×