Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI - QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.81 KB, 11 trang )

ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI - QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN
Thứ sáu, 10/06/2011 22:25
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các thương nhân
với nhau thông qua việc mua bán là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Khi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường, tuỳ thuộc vào đối tượng giao dịch, thị
trường cũng như tính chất, thời cơ của từng thương vụ, thương nhân có thể lựa chọn các phương
thức giao dịch cho phù hợp. Một trong những phương thức giao dịch được các thương nhân sử
dụng phổ biến nhất hiện nay là hình thức trung gian thương mại.
Giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc
thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử
dụng dịch vụ) và việc xác định giao dịch phải thông qua một người trung gian.Có rất nhiều hình
thức trung gian thương mại khác nhau như: đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ
thác mua bán hàng hoá, đại lý thương mại… Trong phạm vi bài viết này, tôi sẽ đi vào tìm hiểu vè
một trong các hình thức trung gian thương mại phổ biến nhất, đó là đại lý thương mại bằng việc
phân tích sâu quyền và nghĩa vụ của các bên thông qua tình huống cụ thể và bình luận về tình
huống có liên quan đến đại lý thương mại.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HAI BÊN TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ GIỮA CÔNG TY
X– BÊN GIAO ĐẠI LÝ VÀ CÔNG TY Y – BÊN ĐẠI LÝ BÁN HÀNG
1. Quyền và nghĩa vụ của công ty Y với tư cách bên đại lý bán hàng hóa
Với tư cách là bên đại lý – bên đại lý là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lý bán,
nhận tiền mua hàng hóa để làm đại lý mua hoặc là bên nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ thì công
ty Y sẽ là thương nhận nhận hàng hóa để làm đại lý bán hàng hóa. Như vậy, nếu không có thỏa
thuận khác giữa công X và công ty Y thì theo quy định của pháp luật công ty Y sẽ có những quyền
và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 174 và Điều 175 Luật thương mại năm 2005.
1.1. Nghĩa vụ của công ty Y với tư cách là bên đại lý
Điều 175 Luật thương mại năm 2005 quy định về nghĩa vụ cụ thể của bên đại lý: “Trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên đại lý có các nghĩa vụ sau đây: 1. Mua, bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ cho bên giao đại
lý ấn định; 2. Thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại lý; 3. Thực


hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật; 4. Thanh
toán cho bên giao đại lý tiền bán hàng hóa đối với đại lý bán; giao hàng hóa đối với đại lý mua;
tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ; 5. Bảo quản hàng hóa sau khi nhận đối với
đại lý bán hoặc trước khi giao đối với đại lý mua; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng
hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường
hợp có lỗi do mình gây ra; 6. Chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và báo cáo tình hình
hoạt động đại lý với bên giao đại lý; 7. Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý
chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ
nhất định thì phải tuân thủ quy định đó”. Như vậy, với tư cách là bên đại lý bán hàng hóa, công ty
Y phải thực hiện đúng theo những nghĩa vụ cụ thể mà pháp luật đã quy định trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác. Như vậy, công ty Y có nghĩa vụ:
- Công ty Y có nghĩa vụ bán hàng hóa cho khách hàng theo giá hàng hóa do bên giaođại lý –
công ty X ấn định Bên giao đại lý – công ty X có quyền ấn định giá bán hàng hóa cho bên đại lý
bán hàng hóa – công ty Y và công ty Y phải có nghĩa vụ bán đúng giá cho bên thứ ba theo đúng
giá đã được bên giao đại lý ấn định mà trong trường hợp này là công ty X. Nghĩa là bên công ty Y
– bên đại lý phải có nghĩa vụ tuân thủ mà không được tự ý nâng hoặc giảm giá bán hàng hóa mà
bên giao đại lý đã thông báo trước. Sau khi thực hiện dịch vụ đó, bên đại lý – công ty Y phải có
nghĩa vụ giao nhận tiền với bên giao đại lý – công ty Y theo đúng thỏa thuận.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh năm 2004 thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận
có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên trừ các trường hợp miễn trừ đối với
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định tai Điều 10 Luật cạnh tranh. Thỏa thuận ấn định giá
theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh là áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng,
tăng hoặc giảm giá ở mức cụ thể, áp dụng thức tính giá chung… Việc các bên đại lý nhận hàng
hóa của bên giao đại lý để thực hiện việc bán hàng hóa cho bên giao đại lý còn bên giao đại lý ấn
định giá bán hàng hoá cho bên đại lý phải tuân thủ đặc thù của quan hệ đại lý bán hàng hóa. Tuy
nhiên, Luật Thương mại năm 2005 và Luật cạnh tranh lại không có sự thống nhất trong quy định
về quyền ấn định giá của bên giao đại lý. Nếu căn cứ vào Luật cạnh tranh thì việc ấn định giá của
bên giao đại lý cho nhiều bên đại lý là một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bị cấm. Chính vì

vậy gây khó khăn khi công ty X thực hiện quyền ấn định giá bán hàng hóa của mình cũng như việc
công ty Y phải tuân thủ một việc ấn định giá bán của công ty X trong khi nó có thể bị cấm vì có
thể là một thỏa thuận cạnh tranh theo Luật cạnh tranh. Thiết nghĩ pháp luật cần có quy định cụ thể
và nhanh chóng sửa đổi Luật cạnh tranh theo hướng phù hợp hơn với quy định của Luật Thương
mại.
- Công ty Y có nghĩa vụ thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên công
ty X và thanh toán cho bên công ty X tiền bán hàng hóa. Đây là nghĩa vụ rất quan trọng của bên
đại lý hay nó là một nghĩa vụ mà bên công ty Y rất cần phải quan tâm để thực hiện cho đúng như
trong thỏa thuận của hợp đồng đại lý trước đó. Vì đây là đại lý bán nên bên công ty Y có nghĩa vụ
nhận hàng và thanh toán cho bên giao đại lý – công ty X. Trong quan hệ đại lý đây là khâu rất
quan trọng và rất hay phát sinh tranh chấp có liên quan bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và
lợi ích của cả công ty Y và công ty X.
Hai bên công ty X và công ty Y thỏa thuận về thời hạn thanh toán, nếu không có thỏa thuận cụ thể
về thời hạn thanh toán trong hợp đồng đại lý thì áp dụng thời hạn thanh toán theo quy định tại
Điều 176 Luật thương mại năm 2005: Việc thanh toán tiền hàng được thực hiện theo từng đợt sau
khi bên địa lý hoàn thành việc bán được một khối lượng hàng hóa nhất định, nếu các bên không có
thỏa thuận khác. Trên thực tế, trong hợp đồng đại lý các bên thường thỏa thuận, bên đại lý bán
hàng phải thanh toán tiền bán hàng sau một thời hạn nhất định kể từ khi nhận hàng không phụ
thuộc vào việc hàng hóa đó có bán được hay không, do đó nếu tình hình kinh doanh của bên đại lý
gặp khó khăn, hàng chưa bán được dẫn đến bên đại lý thanh toán không đúng hạn và tranh chấp
giữa hai bên rất dễ phát sinh. Do đó, các bên cần phải thỏa thuận rằng, trong một thời hạn nhất
định bên đại lý bán phải thnah toán tiền cho bên gioa đại lý tương ứng với số lượng hàng hóa đã
bán được cho khách hàng. Bên cạnh đó theo quy định của pháp luật Việt Nam việc thanh toán chi
bên đại lý chỉ được thực hiện trong thời gian hợp đồng đại lý có hiệu lực. Như vậy, nếu có sự thỏa
thuận cụ thể giữa hai bên công ty X và công ty Y giống như trên thì thiết nghĩ quan hệ đại lý sẽ
được bền vững hơn nhiều.
- Công ty Y có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sự theo quy
định của pháp luật. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một trong các biện pháp
được các thương nhân sử dụng trong giao dịch hàng hóa khi các bên không có quan hệ mật thiết,
chưa có độ tin tưởng lẫn nhau. Do vậy, trong quan hệ đại lý thương mại trong những trường hợp

như vậy cũng cần sử dụng biện pháp bảo đảm. Nghĩa là, khi bên công ty X chưa thật sự tin tưởng
vào khả năng thanh toán của bên đại lý – công ty Y hoặc ngược lại bên đại lý – công ty Y cũng
chưa có sự tin tưởng đối với bên giao đại lý thì hai công ty có thể thỏa thuận với nhau áp dụng
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ phù hợp nhất để đảm bảo quyền và lợi ích của mình một cách tốt
nhất. Do đó, khi công ty X ký hợp đồng giao cho công ty Y làm đại lý bán hàng tại tỉnh H thì giữa
hai công ty này có thể thảo thuận cụ thể về một biện pháp bảo đảm, có thể là cầm cố, thế chấp, ký
cược… Và mọi vấn đề liên quan đến biện pháp bảo đảm được hai bên thỏa thuận áp dụng phải
tuân thủ quy định trong Bộ luật dân sự về phần các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- Công ty Y có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa sau khi nhận; liên đới chịu trách nhiệm về chất
lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra; Vì là
đại lý bán hàng hóa nên khi bên giao đại lý – công ty X giao hàng hóa cho mình thì công ty Y phải
có trách nhiệm bảo quản tất cả số lượng hang hóa đó. Để bảo quản tốt số lượng hang hóa công ty
Y cần chủ động trong việc kho, bãi, các điều kiện tối cần thiết khác phù hợp với từng loại mặt
hàng hóa được giao để bán. Nếu có bất kỳ vấn đề nào sảy ra trong quá trình bảo quản đối với hàng
hóa được nhận thì bên công ty Y – bên đại lý sẽ phải lien đới bồi thường thiệt khi hàng hóa đó đến
tay người sử dụng với những thiệt hại sảy ra trừ trường hợp các bên có sự thỏa thuận nào khác.
Mặc dù, Luật thương mại năm 2005 quy định bên giao đại lý “Chịu trách nhiệm về chất lượng
hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ”(khoản 2
Điều 173) nhưng trong trường hợp chất lượng hàng hóa không được đảm bảo do lỗi của bên đại lý
thì bên đại lý phải chịu trách nhiệm liên đới, Ví dụ tại thời điểm công ty X giao hàng cho công ty
Y hàng hóa bảo đảm chất lượng như bên công ty X công bố. Tuy nhiên trong quá trình bảo quản
hàng hóa bên công ty Y không tuân thủ theo hướng dẫn của công ty X nên khi hàng hóa được bán
cho khách hàng đã còn đúng tiêu chuẩn, chất lượng như đã công bố. Trong trường hợp này bên đại
lý – công ty Y sẽ có trách nhiệm liên đới về chất lượng hàng hóa mặc dù hàng hóa không thuộc sở
hữu của bên công ty Y. So với Luật thương mại năm 1997 thì Luật thương mại năm 2005 đã xác
định rõ ràng trách nhiệm của bên đại lý đối với chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa.
Bên đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra
chứ không phải chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng và quy cách hàng hóa khi thực hiện hợp
đồng đại lý trong mọi trường hợp như quy định trong Luật thương mại năm 1997. Đây là một
điều đáng được nghi nhận.

- Công ty Y chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý – công ty X và báo cáo tình hình
hoạt động đại lý với bên công ty X. Quy định này cho thấy sự ràng buộc, lệ thuộc chặt chẽ của
bên đại lý vào bên giao đại lý. Đây là một điểm quan trọng làm đại lý mua bán hàng hóa khác với
ủy thác mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, quy định này trên thực tế đã nảy sinh nhiều bất cập khiến
cho các đại lý khốn đốn trong quá trình bán hàng hóa khi bên giao đại lý tham gia vào giữa và trở
thành một bên của quan hệ đại lý mới như vụ cocacola là một ví dụ điển hình. Vấn đề này sẽ được
đề cập cụ thể ở phần dưới. Như vậy, công ty Y phải báo cáo mọi vấn đề liên quan đến hoạt động
đại lý của mình cho công ty X, và đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý. Đây là
nghĩa vụ bắt buộc mà đại lý nào cũng phải thực hiện mà bên công ty Y không thể viện dẫn một
điều gì nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
- Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý
với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ
quy định đó. Đây là quy định mới của Luật thương mại năm 2005 so với Luật thương mại năm
1997. Nghĩa là nếu thuộc một trong các trường hợp trên thì công ty Y – bên đại lý có nghĩa vụ chỉ
được giao kết hợp đồng đại lý bán hàng hóa đối với ông ty X về loại hàng hóa đó mà thôi mà
không được gioa kết hợp đồng làm đại lý cho các công ty khác cùng sản xuất loại hàng hóa đó.
Đây là một điều kiện bắt của pháp luật đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp
cùng sản xuất một loại hàng hóa. Ví dụ, tổng đại lý kinh doanh xăng dầu chỉ được ký hợp đồng
làm tổng đại lý cho một thương nhân đầu mối theo quy định của pháp luật. Cụ thể “Đại lý chỉ
được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một tổng đạ lý hoặc một thương nhân đầu mối”
(khoản 1 Điều 17 Nghị định 84/209/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu).
1.2. Quyền của công ty Y với tư cách là bên đại lý
Song song với việc thực hiện nghĩa vụ, bên đại lý bán hàng hóa – công ty Y cũng có những quyền
nhất định theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng đại lý bán hàng hóa. Theo quy định tại
Điều 174 Luật thương mại năm 2005 thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại lý có các
quyền sau đây: 1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp
quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này; 2. Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo
hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý; 3. Yêu
cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan để thực hiện
hợp đồng đại lý; 4. Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại lý

bao tiêu; 5. Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại”. Cụ
thể công ty Y có các quyền:
- Công ty Y có quyền giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường
hợp quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này. Thông thường bên đại lý – công ty Y được
quyền ký kết hợp đồng đại lý với nhiều bên giao đại lý trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
và các bên không có thỏa thuận. Quy định này liên quan đến điều khoản không cạnh tranh (non –
competition) mà các bên thường sử dụng trong hợp đồng đại lý. Theo đó, các bên có thể thỏa
thuận “trong quá trình thực hiện hợp đồng đại lý hoặc một thời gian sau khi chấm dứt quan hệ hợp
đồng đại lý, bên đại lý không được ký hợp đồng đại lý với các đối thủ cạnh tranh của bên giao đại
lý” để bảo vệ lợi ích của bên giao đại lý. Đây là nội dung mới chưa được đề cập trong pháp luậ
Việt Nam mình nhưng đã được pháp luật các nước trên thế giới đề cập đến. Mục đích của việc
thỏa thuận này là để ngăn chặn bên đại lý không được quyền ký kết với các đối thủ cạnh tranh của
bên giao đại lý sẽ sử dụng các kỹ năng kinh doanh, bí mật kinh doanh để cạnh tranh trực tiếp hoặc
chuyển giao các kỹ năng, bí mật này cho đối thủ cạnh tranh của bên giao đại lý. Như vậy, nếu
không thuộc trường hợp tại khoản 7 Điều 175 thì công ty Y hoàn toàn có quyền này và ngượi lại.
- Công ty Y có quyền yêu cầu bên công ty X – bên giao đại lý giao hàng theo hợp đồng đại lý;
nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý với công ty X.
- Công ty Y có quyền yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện
khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý. Cũng giống như hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa bên công ty Y phải bán hàng hóa theo yêu cẩu của bên giao đại lý – công ty X. Vì vậy
bên công ty X phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin và các điều kiện cần thiết để bên đại lý có thể
bán hàng đúng yêu cầu của bên giao đại lý.
- Công ty Y có quyền hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý
mang lại. Thù lao đại lý do các bên thỏa thuận, nếu các bên không có thỏa thuận thì theo quy định
Điều 171 Luật thương mại năm 2005 thì thù lao đại lý được trả dưới hình thức hoa hồng hoặc
chênh lệch giá.Giá trong hợp đồng đại lý bao gồm giá mà bên giao đại lý giao cho bên đại lý (giá
gioa đại lý) và giá mà bên đại lý bán cho khách hàng. Giá giao đại lý thường do bên giao đại lý ấn
định trong bản báo giá cập nhật cho bên đại lý trong từng khoảng thời gian cụ thể. Giá bán hàng
hóa cho khách hàng có thể được xác định theo 3 cách: do bên giao đại lý ấn định (đối với đại lý
hàng hóa); do bên giao đại lý ấn định mức giá trần; do bên đại lý quyết định (đối với đại lý bao

tiêu). Luật thướng mại năm 2005 và Luật thương mại năm 1997 đều quy định cho các bên tham
gia quan hệ đại lý mua bán hàng hóa được quyền tự do thỏa thuận về thù lao đại lý. Do vậy, công
ty Y trở thành đại lý bán hàng hóa theo hợp đồng với công ty X nên họ được hưởng thù lao và
những lợi ích khác do hoạt động đại lý mang lại và không một ai hoặc bên giao đại lý có quyền
này.
2. Quyền và nghĩa vụ của công ty X với tư cách là bên giao đại lý
Hợp đồng đại lý là một hợp đồng song vụ có tính chất đền bù, do đó quyền và nghĩa vụ của
bên đại lý này chính là nghĩa vụ và quyền của giao đại lý. Với tư cách là bên giao đại lý – bên
giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua
hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vu cho đại lý cung ứng dịch vụ thì công ty X là
thương nhân giao hàng hóa và trở thành bên giao đại lý. Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác
giữa công X và công ty Y thì theo quy định của pháp luật công ty Y sẽ có những quyền và nghĩa
vụ được quy định cụ thể tại Điều 172 và Điều 173 Luật thương mại năm 2005.
2.1. Quyền của công ty X với tư cách là bên giao đại lý
Theo quy định Điều 172 Luật thương mại năm 2005 Điều 172 về quyền của bên giao đại lý
thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các quyền sau đây: 1. Ấn định giá
mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng; 2. Ấn định giá giao đại lý; 3.
Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật; 4. Yêu cầu bên đại
lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý; 5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp
đồng của bên đại lý”. Cụ thể công ty X có những quyền sau với tư cách là bên giao đại lý.

×