Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

luận văn Sự chuyển biến kinh tế - xã hội của thị trấn Lang Chánh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1996 – 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.08 KB, 85 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu lịch sử địa phương là một việc làm quan trọng để từ đó hiểu
rõ hơn về lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương. Trong đó mảng đề tài về kinh tế
xã hội địa phương đang được nhiều người chú ý, bởi qua kinh tế xã hội địa
phương ta sẽ thấy được sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong một
giai đoạn nhất định.
Năm 1986 Đảng ta đã đưa ra chủ trương đổi mới đất nước.Cũng từ đó
nước ta thu được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế - xã
hội.Sau mười năm tiến hành sự nghiệp đổi mới Việt Nam không những
thoát khỏi cuộc khủng hoảng sâu sắc vào cuối thập niên 70 đầu thập niên 80
của thế kỷ trước mà còn vươn lên bắt kịp nhịp phát triển sôi động của nền
kinh tế - khu vực và thế giới.Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với
cơ chế thị trường xó hụị chủ nghĩa, nền kinh tế nhiều thành phần hình thành
phát triển đồng bộ và đạt kết quả mới, niềm tin của nhân dân vào sự tất
thắng của chủ nghĩa xã hội được củng cố.
Nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên, tháng 6 – 1996, Đảng
ta tiến hành đại hội lần thứ VIII, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải
pháp đưa sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu – công nghiệp hoá - hiện đại hoỏ
vỡ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.Chớnh sỏch đổi mới của Đảng đã tác động sâu sắc đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của nhiều địa phương trong cả nước, Huyện Lang Chánh nói
chung cũng như thị trấn Lang Chánh nói riêng là một trong những địa phương
thực hiện tốt đường lối “Công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ” của Đảng.
Thị trấn Lang Chánh là thị trấn miền núi vùng cao nằm ở phía Tây, Tây
Bắc Thanh hoá, được thiên nhiên ban tặng về tài nguyên thiên nhiên phong
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội


1
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

phú, đa dạng.Hơn nữa, về mặt địa kinh tế, do quốc lộ 15A đi qua nên thị trấn
Lang Chánh có điều kiện thuận lợi trong giao lưu văn hoá và phát triển kinh tế.
Từ khi có đưởng lối “công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ” của Đảng, thị
trấn Lang Chỏnh đó đún nhận, áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp
với các điều kiện địa phương, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh vốn cú.Trải
qua hơn 10 năm tiến hành đường lối “công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ”, thị
trấn Lang Chỏnh đó cú những chuyển biến lớn về kinh tế - xã hội.Sự chuyển
biến đú đó mang lại diện mạo mới cho thị trấn Lang Chánh. Đời sống vật
chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng nâng cao, củng cố
niềm tin cho nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi đã đạt được, thị trấn Lang
Chánh vẫn có nhiều khuyết điểm, thiếu sót, những hạn chế cần được khắc
phục và phát huy mặt tích cực nhằm tạo tiền đề cho việc thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong việc thực hiện
đường lối phát triển ở những giai đoạn tiếp theo.
Tìm hiểu công cuộc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá của thị
trấn Lang Chánh là tìm hiểu quá trình vận dụng đường lối đổi mới đất nước
của trung ương Đảng, đồng thời khẳng định Đại hội đại biểu lần thứ VIII là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại và làm rõ những thành
tựu mà công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại cho quê hương.Từ
đó góp một phần nhỏ bé của mình vào việc gợi mở một số giải pháp, hướng
đi cho nền kinh tế thị trấn trong những giai đoạn sắp tới, góp phần làm cho
nền kinh tế thị trấn phát triển cùng đất nước. Mặt khác là người con sinh ra
và lớn lên trên mảnh đất thị trấn Lang Chánh, với mong muốn tìm hiểu sâu
hơn về kinh tế, văn hoá, con người quờ mỡnh để từ đó thờm yờu xóm làng,
yêu quê hương, yêu đất nước, góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ trên địa bàn

thị trấn truyền thống tốt đẹp của quê hương thị trấn Lang Chánh. Đồng thời
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

góp một phần thiết thực phục vụ cho việc giảng dạy và nghiên cứu lịch sử
địa phương ở nhà trường phổ thông của bản thân sau này.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Sự chuyển
biến kinh tế - xã hội của thị trấn Lang Chánh trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (1996 – 2008)” để làm đề tài tốt nghiệp đại học, đồng
thời đóng góp một phần công sức của mình vào việc nghiên cứu, đánh giá
những kết quả đạt được trong công cuộc đổi mới của thị trấn Lang Chánh.
2. Lịch sử vấn đề
Đổi mới là một chủ trương hết sức quan trọng, chủ trương đú đó tác
động sâu rộng đến từng ngành, từng địa phương trong cả nước.Quỏ trỡnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước tức là tiếp tục thực hiện công cuộc đổi
mới của đất nước.Chớnh vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước như tác phẩm : “ Con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nụng thụn”- NXB Chính trị quốc
gia – Hà Nội – 2002; “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước
trong khu vực” - Phạm Khiêm Ích – NXB Thống Kê – 1994,…Cỏc công trình
trờn đã nghiên cứu “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ” ở nhiều khía cạnh nhưng
cú ớt tác phẩm nghiên cứu về một thị trấn, đặc biệt là một thị trấn miền núi
trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên những tài liệu trên đã cung cấp những kiến
thức về “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ”, giỳp cho người viết có cách nhìn
khái quát về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nghiờn cứu về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thị trấn
Lang Chánh còn là vấn đề tương đối mới mẻ, chưa thu hút được sự quan

tâm nghiên cứu đặc biệt của các học giả. Tuy nhiên trong một số tác phẩm
cũng đã đề cập đến lịch sử hình thành và quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của thị trấn Lang Chánh.
- Trong cuốn “Lịch sử Việt Nam từ năm 1975 đến nay” do PGS.TS
Trần Bá Đệ biên soạn (NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 1998) đã nêu lên
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

nhiều thành tựu, tiến bộ, hạn chế của đất nước khi tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
- Trong cuốn “Đảng bộ và phong trào cách mạng Lang Chánh (1945 –
1990)” do Ban chấp hành Đảng bộ Lang Chánh nghiên cứu và biên soạn năm
1991, đã nói lên đặc điểm tự nhiên và truyền thống đấu tranh của nhân dân
Lang Chánh nói chung và thị trấn Lang Chánh nói riêng trong quá trình lịch sử.
- Cuốn “Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh phát huy truyền thống cách
mạng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới (1945 – 1998)”, do ban chấp hành Đảng
bộ Lang Chánh nghiên cứu và biên soạn năm 1999, đã đề cập đến vai trò
lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong cách mạng và đẩy mạnh công cuộc đổi
mới của huyện Lang Chánh.
- Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Lang Chánh (1949 – 2004)”, do Ban
chấp hành Đảng bộ Lang Chánh nghiên cứu và biên soạn năm 2005, cuốn
sách đã nêu lên toàn bộ đặc điểm tự nhiên, truyền thống cách mạng, vai trò
lãnh đạo của Đảng bộ trong cách mạng và công cuộc đổi mới của huyện
Lang Chánh nói chung và thị trấn Lang Chánh nói riêng.
Ngoài ra, một số báo cáo của ban chấp hành Đảng bộ huyện Lang
Chánh từ khoá XV và XIX, các báo cáo tổng kết uỷ ban nhân dân huyện, đã
đánh giá tổng kết những thành tựu của toàn huyện, các báo cáo tổng kết của

uỷ ban nhân dân thị trấn… chỉ ra những thành tựu và hạn chế của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thị trấn Lang Chánh.
Nói chung, các tác phẩm và tài liệu nói trên đã làm sáng tỏ được một
số vấn đề của thị trấn Lang Chỏnh.Tuy nhiờn cho đến nay chưa có một công
trình, hay bài viết nào nghiên cứu cụ thể về sự chuyển biến kinh tế - xã hội
của thị trấn Lang Chánh từ năm 1996 – 2008.Chính vì thế luận văn tập trung
tìm hiểu một cách hệ thống sự chuyển biến kinh tế - xã hội thị trấn Lang
Chánh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ năm 1996 – 2008).
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài.
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự chuyển biến
kinh tế - xã hội của thị trấn Lang Chánh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá từ 1996 đến 2008
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế - xã
hội của thị trấn Lang Chánh từ năm 1996 – 2008
Về mặt không gian: Địa bàn mà khoá luận tìm hiểu là thị trấn Lang
Chánh - huyện Lang Chánh - tỉnh Thanh Hoá.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu.
Để hoàn thành khoá luận này chúng tôi đã tiến hành sưu tầm, tích luỹ
nhiều nguồn tư liệu:
- Tài liệu lưu trữ của tỉnh, huyện, thị trấn: Đó là những báo cáo hàng
quý, hàng năm; Các nghị quyết, văn bản, các chỉ thị tỉnh uỷ, của uỷ ban

nhân dân huyện Lang Chánh, uỷ ban nhân dân thị trấn Lang Chỏnh, cỏc
phũng ban trong huyện và thị trấn Lang Chỏnh: phũng thống kê, phòng nông
nghiệp, và tiểu thủ công nghiệp, phòng địa chớnh…
- Các văn kiện Đảng: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI,VII,VIII,XIX; Các văn kiện Hội nghị trung ương và các tài liệu khác
lien quan đến nội dung khoá luận tìm hiểu.
- Các sách báo của Trung ương tỉnh Thanh Hoỏ: Bỏo Thanh Hoỏ cú đưa
tin về chủ trương, chính sách cũng như tình hình kinh tế huyện Lang Chánh nói
chung trong đó có thị trấn Lang Chỏnh.Cỏc luận văn, tạp chí như: tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, tạp chí cộng sản, các bài chuyờ khảo có lien quan đến luận văn.
- Tư liệu điền dã.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

Vì thuộc đề tài nghiên cứu lịch sử địa phương, nên phương pháp
nghiên cứu chủ yếu được vận dụng là phương pháp lịch sử nhằm tái hiện lại
quá trình phát triển kinh tế của thị trấn Lang Chánh trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ năm 1996 – 2008). Đồng thời sử dụng phương
pháp logic để đi đến nhận định, đánh giá mang tính chất khái quát.
Ngoài ra đề tài của luận văn thuộc đề tài Lịch sử địa phương, nờn khõu
giám định tư liệu rất quan trọng.Sau khi sưu tầm tư liệu, phân loại tư liệu theo thời
gian và vấn đề rồi phân tích, đối chiếu so sánh và kết hợp với điều tra điền dã.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách toàn diện, cụ thể về
kinh tế - xã hội của huyện Lang Chánh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá từ năm 1996 – 2008.

Dựa vào nguồn tư liệu, luận văn đã dựng lại bức tranh toàn cảnh về
kinh tế - xã hội của thị trấn Lang Chánh, làm sáng tỏ sự chuyển biến về kinh
tế - xã hội của thị trấn Lang Chánh trong thời kỳ 1996 – 2008, qua đó nêu
lên những thành tựu và hạn chế.
Luận văn đã hệ thống được những tư liệu có thể cung cấp về thị trấn
Lang Chánh. Đồng thời, qua luận văn cũng cung cấp tư liệu cho việc giảng dạy
lịch sử địa phương, góp phần giáo dục truyền thống qua các bài học lịch sử.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần ở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội
dung chính của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát vài nét về mảnh đất và cọn người thị trấn Lang Chánh
Chương 2: Những chuyển biến kinh tế của thị trấn Lang Chánh trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1996 – 2008)
Chương 3: Những chuyển biến xã hội của thị trấn Lang Chánh trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1996 – 2008)
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƯỜI

THỊ TRẤN LANG CHÁNH
1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên thị trấn Lang Chánh
1.1.1 Vị trí địa lý
Thị trấn Lang Chánh là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của một
huyện vùng núi cao - Huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoỏ.Nằm ở phía Tây
– Tây Bắc tỉnh Thanh Hoá, có toạ độ địa lý: từ 20
0
00

13
’’
– 20
0
18

15
’’
vĩ độ
Bắc; từ 105
0
17

30
’’
– 105
0
45

20
’’

kinh độ Đông.
Thị trấn Lang Chánh nằm trên trục đường quốc lộ 15A - trục đường
quốc lộ nối liền các huyện miền núi phớa tõy tỉnh Thanh Hoá.Thị trấn cách
thành phố Thanh Hoá 101 km, cách đô thị Ngọc Lặc (tương lai là trung tâm
các huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa) 16 km, cách huyện Bá Thước 40
km, cách biên giới nước CHND Lào 60 km.Hiện nay khi con đường Hồ Chí
Minh được đưa vào sử sụng đã rút ngắn khoảng cách của thị trấn Lang
Chánh với trung tâm thủ đô Hà Nội còn khoảng 170 km cũng như nối liền
thị trấn với sự phát triển của đất nước. Thị trấn Lang Chánh có danh giới
như sau:
Phía Đông Bắc giáp xã Đồng Lương
Phía Tây Nam giỏp xã Quang Hiến
Con đường chính trong thị trấn là đoạn nối từ quốc lộ 15A thẳng lên
trung tâm thị trấn đến ngã 4 đi xó Tõn Phỳc, xó Quang Hiến, xã Đồng
Lương.Thị trấn không có giao thông đường thuỷ và đường sắt.Toàn bộ hệ
thống đường bộ của thị trấn đã rải đường nhựa tạo điều kiện thuận cho việc
vận chuyển hàng hoá và sinh hoạt của người dân thị trấn.
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

Với vị trí địa lý như vậy ta có thể thấy rằng mặc dù là một thị trấn
miền núi, xa các trung tâm phát triển của đất nước, nhưng thị trấn Lang
Chỏnh cú tiềm năng phát triển kinh tế mạnh mẽ trong tương lai.
1.1.2 Địa hình, đất đai, sông ngòi
Thị trấn Lang Chánh trước kia là vùng rừng núi với những khu rừng
tự nhiên bao quanh.Nhưng với quá trình phát triển, sự thay đổi của môi
trường tự nhiên cùng những tác động của con người, diện tích rừng của thị

trấn giảm mạnh, thay vào đó là những khu nhà mọc lên san sát, những khu
đồi cây ăn quả, cây trồng khác và là địa bàn cư trú của dân cư.
* Địa hình
Thị Trấn Lang Chánh nhìn từ xa như một lòng chảo, có đồi núi
bao quanh. Đặc điểm địa hình của thị trấn là thuộc vùng thấp và bằng
phẳng nhất của huyện Lang Chánh. Độ cao trung bình từ 400 – 500m. Vì
vậy so với cỏc xó trong huyện, thị trấn có những điều kiện thuận lợi
nhất cho phát triển kinh tế - xã hội.
* Đất đai
Đất đai Thị trấn được hình thành, phát triển trờn cỏc núi đá mẹ khác
nhau (phiến thạch, sét, sa thạch, phiến sa, phi lớch…) do vậy chất đất ở các
khu vực cũng có phần khác nhau.Hiện nay thị trấn Lang Chỏnh cú 226,6 ha
diện tích tự nhiên trong đó được phân loại như sau:
- Đất nông nghiệp: 63,4 ha
- Đất lâm nghiệp: 69,4 ha
- Đất chuyên dùng: 29,42 ha
- Đất ở: 58,5 ha
- Đất sông suối: 5,85 ha
- Đất chưa sử dụng: không có
Diện tích thị trấn Lang Chánh chiếm 0,4% diện tớch toàn huyện, trong đó
đất lâm nghiệp chiếm diện tích lớn nhất là 30,5% tổng diện tích tự nhiên của thị
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

trấn. Đất nông nghiệp chiếm 28% diện tích tự nhiên. Tỷ lệ đất lâm nghiệp và
nông nghiệp gần như bằng nhau (đất lâm nghiệp hơn nông nghiệp 6 ha), điều
này cho thấy thế mạnh của thị trấn là kết hợp phát triển nông – lâm nghiệp.Bỡnh

quân diện tích nông nghiệp/người là 0,014 ha/người và 0,05 ha/hộ.
Diện tớch đất ở cũng chiếm phần lớn trong diện tích tự nhiên của toàn
huyện (chiếm 25,7 %). Đất chưa sử dụng của thị trấn không cũn chứng tỏ
người dõn thị trấn đã tận dụng hết đất đai của địa phương. Sự phân chia gần
như đồng đều giữa đất nông nghiệp, lâm nghiệp, và đất ở cho thấy quá trình
chuyển dịch cơ cấu đất ở thị trấn đang diễn ra mạnh mẽ. Cùng với quá trình
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thị trấn cũng đang diễn ra quỏ
trình đụ thị hoá. Đất ở đang có xu hướng tăng lên và chiếm tỷ lệ cao trong
diện tích tự nhiên.Cùng với đó là sự thu hẹp diện tích đất nông nghiệp.
Đất thị trấn rất thuận lợi cho các loại cây lúa, cây rau màu và các loại
cây trồng lương thực khỏc.Những loại cây trồng phù hợp với các loại đất
của thị trấn:
- Đất vườn, phù hợp các loại cây như: cây chuối, cây dừa. cây bưởi,
cây cam, cây chanh, cây xoài, cõy mớt…
- Đất ruộng thị trấn Lang Chánh là những thũng lũng cấy lúa nhỏ hẹp
được khai phá từ ngàn đời của đồng bào các dõn tộc Lang Chánh, phù hợp
với cây lúa, cây ngô, khoai lang.Cõy rau màu vụ đông bao gồm: cải bắp, xu
hào, xúp lơ, xà lách, cải củ, cải bẹ, cải cỳc.Cõy rau màu vụ hè phù hợp với:
rau ngót, rau đay, bầu, mướp, xu xu, bí
Tổng diện tích đất nông nghiệp là 63,4 ha, trong đó:
- Diện tích đất trồng lúa là 25 ha:
- Diện tích đất ruộng trồng màu: 5,4 ha
- Đất trồng cây hàng năm: 7 ha
- Đất vườn tạp : 6 ha
- Đất trồng cây lâu năm : 7 ha
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền


- Đất có mặt nước nuôi thuỷ sản: 13 ha
(số liệu tính đến tháng 6 năm 2007 theo báo cáo tổng kết UBND thị trấn).
Thị trấn có diện tích nương rẫy khá lớn nằm rói rỏc trờn cỏc đồi núi
thấp. Hiện nay nguyên nhõn khiến rừng thị trấn Lang Chánh bị thu hẹp là do
việc đốt phá nương rẫy của người dõn địa phương.
1.1.3 Khí hậu, thuỷ văn
Thị trấn Lang Chánh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng do
điều kiện tự nhiên chi phối nên hình thành hai mùa khí hậu rừ rệt.Mựa mưa
từ tháng 4 đến tháng 9, còn lại là mựa khụ.Nhiều năm khô hạn, thuỷ văn ở
một số khu vực biến đổi thất thường.Nhiệt độ cao nhất là 38
0
C, nhiệt độ
trung bình là 21
0
C, thấp nhất là 4
0
C.Lượng mưa bình quân hàng năm trên
2.000 mm, nhưng lượng bốc hơi lên tới 1.000 mm.Bỡnh quõn hàng năm có
tới 70 – 80 ngày sương mù.Các cơn bão ít đổ bộ lên thị trấn Lang Chánh.
Có 3 con sông, suối đi qua thị trấn Lang Chánh là: sông Âm, suối Cui,
suối Xuốm.
Dòng sông Âm bắt nguồn từ nước Lào chảy qua xó Yờn Khương và
đi qua thị trấn.Ngày xưa dòng sông đó giỳp cho việc vận chuyển lâm sản từ
vùng cao xuống thị trấn.
Dòng suối Cui, suối Xuốm bắt nguồn từ phía Đông và phía Bắc nỳi
Bự Bằng có tác dụng đắp đập lấy nước sinh hoạt và tưới tiêu cho đồng
ruộng ở Bản Trải và Bản Lưỡi.Nhưng hiện nay do hạn hán nên dòng suối
Cui không cũn tác dụng như trước.
Mật độ ao hồ ở thị trấn thưa thớt, các ao hồ chủ yếu dùng vào việc

nuôi cá thịt.Mỏng tự nhiên và hồ nhân tạo khụng cú.Năm 1967 xây dựng
đập và mương Lãm dài 2.500m.Năm 2003 xây dựng đập và mương Lưỡi dài
700m để cung cấp nước cho 2 vùng nông nghiệp trọng điểm của thị trấn là
Bản Trãi và Bản Lưỡi.Vì vậy ngư nghiệp không phát triển mạnh ở thị trấn
Lang Chánh.
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

1.2. Khái quát về lịch sử, văn hoá – xã hội.
1.2.1 Lịch sử hình thành.
Trải qua biến cố của lịch sử, địa giới hành chính Châu Lang Chánh
luôn luôn thay đổi.Thời thuộc Hán là phần đất thuộc huyện Đô Lung (Cát
Lung) sau này ghép vào huyện Vụ Biờn.Thời Tam Quốc cho đến nhà Tuỳ
(Trung Quốc) thuộc huyện Do Phong.Thời nhà Đường thuộc huyện Trường
Lõm.Thời Trần - Hồ gọi vùng này là “Mường Một” thuộc huyện Nga Lạc,
Châu Ái.Thời Lê Quang Thuận năm thứ 10 (1469) đặt tên là châu Lang
Chánh, gồm 14 động và thôn. Đến thời Tây Sơn đổi thành châu Lương
chính. Đến thời Minh Mệnh ghép huyện Thọ Xuân với châu Lang Chánh và
lấy lại tên cũ là châu Lang Chánh thuộc phủ Thanh Đô.
Năm 1829 nhà Nguyễn quyết định lập châu Quan Hoá bao gồm châu
Quan Gia, châu Tằm (thuộc vùng đất các huyện Quan Hoá, Quan Sơn,
Mường Lát) cắt một phần đất Lang Chánh và một phần đất Nông Cống lập
châu Thường Xuõn, tỏch chõu Lang Chánh ra khỏi phủ Thanh Đô lập châu
lỵ tại Ninh Lương (nay thuộc xã Quang Hiến).
Năm 1834, vua Minh Mệnh đổi động và thôn thành xã và đặt thêm
tổng, đồng thời xuống dụ, đặt các thổ ty, lang đạo dưới quyền kiểm soát của
Chánh Tổng.Thực chất của chính sách này là do triều đình phong kiến nhà

Nguyễn muốn hợp pháp hoá vai trò cai trị của thổ ty, lang đạo để phục vụ
chính quyền phong kiến cỏc cấp.Chõu Lang Chánh được chia thành 4 tổng,
8 mường, hai xã.
Sau cách mạng tháng 8 thành công (1945) châu Lang Chánh đổi
thành huyện Lang Chánh, bỏ Tổng, Mường lập xó, thụn bản và vẫn lấy Ninh
Lương thuộc xã Quang Hiến làm huyện lỵ. Đến năm 1954, huyện Lang
Chỏnh cú 6 xó: Yờn Khương, Quyết Thắng, Lê Lai, Giao An, Tõn Phỳc,
Đồng Lương.Năm 1964 chia xã Quyết Thắng thành hai xó: Trớ Nang và
Quang Hiến, chia xó Lờ Lai thành hai xã: Lõm Phú và Tam Văn.Năm 1981
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

chia xó Yờn Khương thành hai xó Yờn Thắng và Yên Khương.Năm 1982
chia xã Giao An thành hai xã Giao An và Giao Thiện. Đến những năm đầu
thập kỷ 90 kinh tế châu Lang Chánh phát triển, yêu cầu xây dựng một mô
hình tổ chức quản lý hành chính mới được đặt ra một cách cấp bỏch.Việc
thành lập một thị trấn với quy mô và tính chất phù hợp tạo điều kiện cho khu
vực phát triển huyện. Theo quyết định của tỉnh Thanh Hoá, tháng 4 – 1991
chia xã Quang Hiến thành thị trấn Lang Chánh và xã Quang Hiến. Thị trấn
huyện xáp nhập thêm làng Lưỡi Xá Đồng Lương. Sự phát triển của thị trấn
cũng như yêu cầu về một trung tâm kinh tế - xã hội của một huyện, năm 2006
thị trấn xáp nhập thêm Bản Trải 2 được tách ra từ làng Chiềng Trại thuộc địa
phận quản lý của xã Quang Hiến.Thỏng 11 năm 2006 chính thức trở thành địa
phận của thị trấn Lang Chánh với 115 hộ và 634 nhân khẩu.Trong đó dân tộc
kinh: 127 người; Mường: 451 người ; Thái:56 người.Người Mường chiếm số
đông ở đây và là dân sống ở đõy lõu nhất. Đến nay thị trấn Lang Chánh gồm:
Làng Lưỡi, Làng Chiềng Trải, Phố Vinh Quang (tiểu khu 1,2,3,4), phố II (tiểu

khu 1,2,3) và phố III.
Tổ 1, phố II hình thành là do một số hộ của phố Đồng Lương cũ hình
thành. Đến năm 1991 thì được đặt tên chính thức là tổ 1 phố II với tổng số 144
hộ và 504 nhõn khẩu.Dõn tộc Thỏi cú 8 người, dân tộc Mường có 127 người,
dân tộc kinh có 369 người.Dõn tộc Mường là ở lâu đời nhất.
Tổ 2, phố II hình thành là do một số hộ cán bộ công nhân viên chức nghỉ
hưu cũ Lâm Trường Bù Rinh trước được gọi là phố Đồng Lương 2, sau khi
thành lập thị trấn Lang Chánh được đặt tên chính thức là tổ 2, phố II.Bao gồm
100 hộ và 386 nhân khẩu, trong đó có 5 người Thái, 49 người dân tộc Mường,
dân tộc Kinh: 331.Người kinh là ở đây lâu nhất.
Phố III.Do một số hộ là cán bộ công nhân viên chức cũ của công ty xây
dựng cơ bản về hưu hoặc nghỉ theo chế độ 176 trước đây ở và cùng với một số
hộ dân miền xuôi đến định cư làm ăn ở.Trước 1991 được đặt là phố 3 với tổng
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

số hộ là 105 và 358 nhân khẩu.Trong đó dân tộc Thái: 23 người; Mường: 12
người ; Kinh: 323 người.Người kinh sống ở đõy lõu nhất.
Bản Lưỡi được hình thành từ trước năm 1945 do một số hộ dân làng Lãi Ó
và một số dân bản Lưỡi cũ khai phá mở mang.Thời phong kiến cha con Kỳ Tín
đặt tên là Làng Lưỡi.Trước năm 1991 khi thị trấn chưa thành lập là một làng của
xã Đồng Lương.Thỏng 4- 1991, thị trấn thành lập được đặt lại là Bản Lưỡi bao
gồm 66 hộ và 332 nhân khẩu.Trong đó dân tộc Thái là 5 người; dân tộc Kinh: 14
người; dân tộc Mường: 314 người.Người Mường sống ở đõy lõu nhất.
Bản Trải 1 được chia tách ra từ làng Chiềng Trại, là một phần đất
thuộc xã Quang Hiến. Sau khi thị trấn thành lập được đặt lại là Bản Trải 1
bao gồm 114 hộ và 598 nhõn khẩu. Trong đó dõn tộc Thái là 31 người, dõn

tộc Kinh là 124 người và dõn tộc Mường là 443 người.
Phố I được chia thành: Tổ 1, tổ 2, tổ 3 được hình thành từ tháng
4/1991.Nguồn gốc là một số hộ thuộc phố Vinh Quang trước đây tách ra và
một bộ phận dân cư thuộc xã Quang Hiến quản lý.Bao gồm 1517 nhân khẩu,
trong đó dân tộc Mường: 261 người; dân tộc kinh:1181 người; dân tộc Thái:
75.Người kinh ở đây lâu nhất.
Như vậy, thị trấn Lang Chánh là một thị trấn vừa được thành lập từ
nhu cầu thiết lập một trung tõm hành chớnh của khu vực. Sau khi thành lập,
thị trấn có những nhiều biến đổi về tất cả các mặt kinh tế - xã hội, từ đó thị
trấn Lang Chánh không chỉ là trung tõm hành chớnh mà trở thành trung tõm
kinh tế - xã hội- văn hoá, là trung tõm huyện lỵ Lang Chánh.
1.2.2 Văn hoá – xã hội
* Dân cư và nguồn lao động
Hiện nay thị trấn Lang Chánh gồm 9 phố bản với 1235 hộ và 4329
nhân khẩu chiếm 0,99% dân số toàn huyện.Mật độ dân số trung bình là 1775
người / km
2
.Lao động trong độ tuổi là 2.486 người chiếm 57% dân số thị
trấn, chủ yếu là lao động trẻ, khoẻ.Trong đó 6 phố bản chủ yếu là lao động
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, chỉ có 3 phố bản là sản xuất nông
lâm nghiệp (Bản Lưỡi, Bản Trải 1, Bản Trải 2).Theo sự phân loại đô thị của
nghị định số 72/2002/NĐ-CP (2001) với mật độ dõn số như vậy thị trấn
Lang Chánh thuộc đô thị loại V của đất nước.Với đầy đủ các yếu tố phát
triển của một đô thị, thị trấn Lang Chánh đang tiến nhanh trên con đường

công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thị trấn là mái nhà chung của 3 dân tộc: Thái, Mường, Kinh từ ngàn
đời nay đã chung lưng đấu cật, đoàn kết gắn bó lao động sản xuất và chiến
đấu, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.Trong đó:
- Dân tộc Mường chiếm 30,2%
- Dân tộc Thái chiếm 7,05%
- Dân tộc kinh chiếm 62,43%
(số liệu này được tính đến tháng 6 năm 2008)
Người Kinh chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số thị trấn (62,43%) là một
thuận lợi cho sự phát triển của thị trấn Lang Chỏnh.Việc đưa khoa học kỹ
thuật vào đời sống và sản xuất của địa phương được nhanh chóng hơn.Mặt
khác dân số thị trấn trẻ, với lực lượng lao động hùng hậu như vậy là một điều
kiện tốt cho sự phát triển của thị trấn hơn cỏc xó khỏc.Tuy nhiờn chính điều
này dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế cũng như trình độ văn hóa giữa người
Kinh và dân tộc khác, cũng như của thị trấn với cỏc xó trong huyện.
Dân tộc mường với sử thi “đẻ đất đẻ nước” được lưu truyền qua nhiều
thế hệ, với cỏc khỳc dân ca Xướng, với lễ tục Pũụn Pụụng – hỏt mỳa quây
quanh cây hoa, ước mong cuộc sống yên lành với tiếng trống, tiếng kèn và sỏo
ụi âm vang sâu thẳm.Hội “Xộc bựa” với dàn cồng chiêng do các cô gái mường
biểu diễn…
Dân tộc thái với tiếng nói, chữ viết, trang phục và những khúc dân ca
(khắp thái), các điệu múa hát nghi lễ, cỏc trũ: cá sa, phấn chá (múa hát xung
quanh cây hoa) coong giàm, kốn bố… đó tạo nên những giá trị văn hoá đặc
sắc riêng cho người dân thị trấn.
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền


1.3 Vài nét về kinh tế - xã hội của thị trấn Lang Chánh giai đoạn 1991-1996
1.3.1 Kinh tế
Thị trấn Lang Chánh vừa được thành lập nên đang còn gặp nhiều khó
khăn trong phát triển kinh tế cũng như đời sống.Nhưng với cố gắng đưa kinh
tế địa phương phát triển theo đường lối đổi mới của Đảng, UBND thị trấn
cũng như toàn nhân dân thị trấn đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận.Trong giai đoạn này cơ cấu kinh tế của huyện Lang Chánh là nông –
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, trong đó lấy việc phát triển nông nghiệp,
lâm nghiệp làm nhiệm vụ hàng đầu. Trong nông lâm phải kết hợp theo
phương thức luân canh đất đồi, đất bãi, đẩy mạnh thâm canh đất ruộng.
* Nông – lâm nghiệp
Trước năm 1996, do diện tích tự nhiên của thị trấn Lang Chánh chưa
được mở rộng như hiện nay, chỉ có 186,6 ha.Trong đó, đất nông nghiệp có
khoảng 61 ha chiếm 32,8% diện tích đất tự nhiên.
Trong sản xuất nông nghiệp, ngành trồng trọt được coi là thế mạnh
của thị trấn. Nhưng do diện tích nông nghiệp ít, trình độ thâm canh của nhân
dân còn thấp, nên sản xuất nông nghiệp của thị trấn trong giai đoạn này cũn
gặp nhiều khó khăn. Trước điều đó huyện đã chủ trương đưa giống mới vào
sản xuất, mở rộng diện tích trồng cây màu(sắn, ngụ…). Cây công nghiệp
cũng được đưa vào sản xuất nhưng chưa phát triển rộng rãi.
Về trồng trọt, Năm 1994 diện tích trồng lỳa cú 11,2 ha, đạt năng xuất
3 tấn/ha. Thị trấn đó cú sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng nhưng chưa được
áp dụng mạnh và đạt hiệu quả cao. Diện tích cây màu khoảng 18 ha, sản
lượng quy thóc 11 tấn.Tổng sản lượng quy thóc cả năm là 137 tấn = 115 %
kế hoạch. Tổng thu nhập cõy công nghiệp khoảng 120 triệu.
Về Chăn nuôi, tổng đàn Trâu trong giai đoạn 1991 – 1996 là 157
con=103% kế hoạch; Tổng đàn Bò hiện có: 78 con = 100% kế hoạch; Tổng
đàn lợn là 1450 con.Tổng sản lượng thịt lợn hơi là 115 tấn đạt 104 %. Giai
đoạn này tình trạng chăn nuôi gia súc ở dưới gầm nhà Sàn của người dõn
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

cũn phổ biến nhiều. Điều này không chỉ gõy ô nhiễm môi trường sinh hoạt
mà cũn làm giảm năng suất chăn nuôi của người dõn địa phương.
Thời kỳ này về ngư nghiệp chủ yếu là thả cá ở sông, suối. Việc nuôi
cá lồng chưa được người dõn thị trấn quan tõm.
* Về Lâm Nghiệp
Thị trấn Lang Chánh là một thị trấn miền núi nên lâm nghiệp là một
thế mạnh để phát triển kinh tế thị trấn.Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huỵện
cũng như UBND thị trấn, cùng với sự phối hợp chặt chẽ của hai Lâm trường
đúng trờn địa bàn nhân dân thị trấn đã tập trung vốn, nguồn lực, khoa học kỹ
thuật vào việc khôi phục và phát triển rừng theo nghị quyết của trung ương,
của tỉnh. Tổng diện tích đất Lâm nghiệp năm 1995 là 61,4ha. UBND thị trấn
đã giao đất cho 41 hộ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp lâu
dài theo quyết định 02 của chớnh phủ.Cả năm lõm nghiệp của thị trấn khai
thác được 20 triệu đồng.
Trong giai đoạn này người dõn thị trấn đang cũn xem nhẹ việc sản
xuất kinh doanh nghề rừng và chăn nuôi, chưa thực hiện nông – lõm kết hợp
chặt chẽ. Cùng với đó là nạn phá rừng đang cũn nhiều ở thị trấn. Vì vậy kết
quả lõm nghiệp đạt được cũn thấp so với tiềm năng vốn có của thị trấn.
* Tiểu thủ công nghiệp.
Bờn cạnh nhịp độ phát triển của nông – lâm nghiệp thì tiểu thủ công
nghiệp cũng được nhõn dõn thị trấn quan tõm. Trong giai đoạn 1991 – 1996
thủ công nghiệp của thị trấn Lang Chánh bước đầu chuyển biến và đưa lại
hiệu quả thiết thực, giá trị hàng năm tăng lên. UBND thị trấn tổ chức ra
nghề rốn, tổ chế biến lâm sản, tổ chức nung gạch, nung vôi phục vụ nhu cầu
xây dựng cơ bản và sản xuất.

Năm 1994 ngành Mộc dân dụng sản xuất được 80 m
3
sản phẩm thành
tiền là 312 triệu.Dụng cụ cầm tay 200 sản phẩm = 30 triệu.Khai thỏc đỏ, cỏt,
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
17
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

sỏi: 650m
3
= 200 triệu.Gạch các loại sản xuất được 610 ngàn viên= 170 triệu
đồng.Sản xuất vôi cục: 110 tấn=315 triệu đồng.
Nhưng nhìn chung giai đoạn này thủ công nghiệp chưa đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế thị trấn.Giỏ trị thủ công nghiệp đưa lại cho
người dân thị trấn còn nhỏ so với nông – lâm nghiệp.
* Ngành Dịch vụ
Thực hiện cơ chế đổi mới hoạt động sản xuất, năm 1994 thị trấn đã
hình thành các hoạt động dịch vụ chế biến lâm sản, thức ăn gia súc, nhiều
loại hình cưa xẻ, say xát, đan lỏt…đó thu hút được lao động dư thừa. Nhưng
đõy mới chỉ là những hoạt động dịch vụ nhỏ, lẻ chưa đưa lại lợi nhuận kinh
tế cao. Ước tính thu nhập ngành dịch vụ thị trấn khoảng 880 triệu đồng/năm.
* Ngành thương mại – dịch vụ
Thương mại - dịch vụ của thị trấn giai đoạn này đã có những hoạt
động hiệu quả phục vụ cuộc sống nhõn dõn địa phương.
Chợ Lang Chánh nằm trên địa bàn thị trấn nhưng chưa đươc quy hoạch.
Đến năm 1995 chợ vẫn là hai dãy nhà tranh, mặt hàng bán trong chợ không
phong phú và đa dạng. Trong giai đoạn 1991 – 1996 thương mại của thị trấn
chủ yếu là giao lưu buụn bán với các xã lân cận. Giai đoạn này chủ yếu là trao

đổi lương thưc- thực phẩm.
Tóm lại, hoạt động phát triển kinh tế của thị trấn trong giai đoạn này đạt
được những kết quả đáng phấn khởi.Ngành nghề phát triển thu hút được phần
lớn lao động có công ăn việc làm ổn định.Năng suất cõy trồng, chăn nuôi tăng.
Một số hộ nhõn dõn đã từng bước đi vào chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, từ đó
dẫn đến sự thay đổi trong lĩnh vực văn hoá – giáo dục.
1.3.2 Văn hoá – giáo dục
Tháng 4 năm 1996 Thị trấn Lang Chánh được thành lập và trở thành
trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội của huyện Lang Chánh. Là nơi đặt trụ
sở của các cơ quan đầu ngành trong huyện như: UBND Huyện, Nhà văn
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
18
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

hoá, Kho bạc Nhà Nước, Công an huyện, Trung tâm y tế huyện,…Chớnh vì
vậy tình hình văn hoá – giáo dục của thị trấn phát triển nhất so với cỏc xó
trong huyện.
Về giáo dục, trong giai đoạn này trên địa bàn thị trấn có 5 trường:
trường mầm non thị trấn, trường tiểu học thị trấn, trường THCS thị trấn,
trường phổ thông cấp 2-3, trường bổ túc văn hoá.
Trường mầm non đầu tiên của huyện được ra đời tại phố I thị trấn Lang
Chánh bước đầu đáp ứng nhu cầu gửi trẻ của các gia đỡnh.Nhưng tỷ lệ gửi trẻ
đến trường trong giai đoạn này còn thấp.Năm 1994 có 281 cháu.Cùng với sự
thành lập thị trấn là mô hình trường Phổ thông cấp 2-3, trường bổ túc văn hoá
cấp III, tạo điều kiện cho con em thị trấn cũng như toàn huyện đến học tập.Tỷ
lệ học sinh lên lớp 89%.Nhưng tình trạng bỏ học trong giai đoạn này tăng
nhanh, trung bình 11,2%.Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 95%, tốt nghiệp phổ
thông cơ sở 96,6%. Hàng năm đều có học sinh giỏi tuyến huyện và tỉnh.Năm

1994 có 3 em thi đậu đại học và 28 em thi đậu vào các trường trung cấp
chuyên nghiệp.
Hệ thống giáo dục của thị trấn Lang Chánh trong giai đoạn này nhìn
chung đã hoàn chỉnh nhưng về chất lượng và cơ sở vật chất còn gặp nhiều
khó khăn. Đa số các trường trong giai đoạn này còn là nhà tranh hoặc cấp
bốn.Bàn học, ghế, bảng thiếu thốn.Một số trường còn học hai ca như trường
Phổ thông cấp II-III.
* Về y tế
Thị trấn Lang Chánh vừa được thành lập nên cũn gặp nhiều khó khăn,
trong đó khó khăn nhất là lĩnh vực y tế của thị trấn. Trung tâm y tế huyện
vừa được xây dựng nằm trên địa bàn thị trấn. Điều này thuận lợi cho nhu
cầu khám chữa bệnh của người dân địa bàn.Nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật ở
đây mặc dù đã được đầu tư nhưng cũn nhiều hạn chế. Trang thiết bị y tế
chưa hiện đại, người dân thị trấn luụn cú tâm lý xuống Trung tâm y tế Ngọc
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

Lặc khám bệnh vì không yên tâm với kỹ thuật y tế ở đây. Đội ngũ thầy
thuốc năm 1995 là 89 cán bộ, trong đó ngành y là 63 người, bác sỹ 37
người, ngành dược 5 người.Tỷ lệ phát triển dân số năm 1995 là 2,1%.
Trạm xá thị trấn đã được xây dựng năm 1992 nhưng điều kiện trang
thiết bị chưa đầy đủ cho nên việc thu nhận bệnh nhân tại trạm chưa làm được,
chưa thu hút được nhân dân thị trấn đến khám bệnh.Trạm xá lúc này chỉ là hai
gian nhà cấp 4 với 3 cán bộ y tế.Tổng số lượt khám - chữa bệnh năm 1995 là
766 lượt người trong đú có 131 lượt người chữa bệnh sốt rột.Khỏm bứơu cổ:
370 người, cấp phát thuốc điều trị bệnh 122 người. Khám phụ khoa 54 người,
đặt vòng 8 người, khám thai 7 người, cấp bao cao su 8 người.

Công tác dõn số kế hoạch hóa thị trấn giai đoạn này chưa phát
triển.Tỷ lệ sinh tự nhiên 2%,sinh con thứ ba trở lên chiếm 12,5%.
Về đời sống nhân dân mặc dù cao hơn cỏc xó trong huyện nhưng chỉ
mới dừng lại ở nhu cầu đủ ăn, đủ mặc. Nhà văn hoá Huyện Lang Chánh
được xõy dựng nhưng chưa thực hiện rừ vai trò của mình trong đời sống văn
hoá của người dõn thị trấn.51% gia đình trong thị trấn đã có tivi và 69% có
điện thắp sáng.
Về cơ sở hạ tầng: Cho đến năm 1995 thị trấn Lang Chánh cơ sở hạ
tầng cũn kém, chưa có cơ sở hạ tầng đô thị. Chỉ có 2/3 hệ thống đường thị
trấn được rải nhựa.
* Tiểu kết chương 1
Điều kiện tự nhiên của thị trấn Lang Chánh như: vị trí địa lý, khí hậu,
thuỷ văn, địa hình, đất đai thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, trong
đó phát triển nông – lâm nghiệp kết hợp là thế mạnh của địa phương. Thương
nghiệp dịch vụ và thủ công nghiệp là những ngành có điều kiện phát triển
thuận lợi nhất. Thị trấn Lang Chánh là địa bàn thuận lợi nhất trong huyện đối
với việc giao lưu kinh tế với các vùng lân cận. Những điều kiện, thế mạnh
trên không chỉ tạo tiền đề vững chắc cho nền kinh tế phát triển mà nếu được
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
20
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

phát huy, khai thác tốt và đúng hướng, nếu kết hợp với những điều kiện khách
quan sẽ tạo thuận lợi lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hay
cũng chính là quá trình đô thị hoá của địa phương.
Nông nghiệp thị trấn từ khi thành lập đến năm 1996 nhìn chung cũng
có bước phát triển.Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo đường lối đổi mới
của đất nước nhưng còn chậm, sản xuất đang còn độc canh, khoa học kỹ

thuật mới bước đầu áp dụng vào sản xuất, chưa có sản phẩm hàng hoá, cũn
nặng tớnh tự cung tự cấp, chưa có khả năng tự tích luỹ để đầu tư cho thương
nghiệp, thủ công nghiệp và công nghiệp. Đi liền với thực trạng kinh tế đó là
một cơ cấu xã hội mà nông dõn vẫn đang cũn chiếm tỷ lệ lớn.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp của thị trấn bước đầu phát triển
nhưng còn gặp nhiều khú khăn.Nhõn dõn thị trấn chưa phát huy được hết
tiềm năng phát triển của địa phương.Người dân đa số còn sản xuất lẻ tẻ, nhỏ
và chưa đầu tư nhiều vào ngành này. Thương mại - Dịch vụ xuất hiện và
đem lại nhiều biến đổi cho thị trấn Lang Chánh. Nhưng trong giai đoạn này
mới chỉ là những ngành dịch vụ cơ bản.
Những thế mạnh kinh tế xuất phát từ vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
của thị trấn đã nêu ở phần trên, thực tế chưa được phát huy. Nhưng chớnh vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên đã làm tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn
sau của thị trấn.Vì vậy khi tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở giai đoạn sau, thị trấn Lang Chỏnh đó đạt được nhiều thành tựu vượt bậc.
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

Chương 2
NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ CỦA THỊ TRẤN LANG
CHÁNH TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ (1996 – 2008)
2.1 Chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xá hội của
Đảng, nhà nước trong thời kỳ 1996 – 2008:
2.1.1. Quan điểm chung
Trong giai đoạn này tình hình quốc tế có nhiều biến động đã ảnh
hưởng đến công cuộc đổi mới của nước ta.

Cuộc cách mạng khoa học kỷ thuật công nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế
thế giới phát triển nhanh chúng.Quốc tế hoá, đa phương hoá đang trở thành
xu thế mạnh mẽ tác động đến các mặt của xã hội loài người. Sự hợp tác
quốc tế ngày càng tăng.Việc Việt Nam gia nhập “Hiệp Hội Các Nước Đông
Nam Á” (ASEAN), bình thường hoá quan hệ với Mỹ là điều kiện tốt để
chúng ta phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng đặt nước ta trước những
thách thức, khó khăn mới.
Nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên, tháng 6 năm 1996
Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VIII đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu, giải pháp đưa sự nghiệp đổi mới của nước ta đi vào chiều sâu – Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với những tiến bộ khoa học và công nghệ
tiờn tiến.Vỡ vậy khoa học công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp
hoá, hiện đại hoỏ.Mục tiờu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa là xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng
thành công chủ nghĩa xó hụị.
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

Tháng 4 năm 2001, Đảng tiến hành Đại hội lần thứ IX đã chỉ ra mô
hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xó hụị chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua đường lối phát
triển kinh tế là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh
tế dân tộc dân chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.Phỏt huy cao nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển văn hoá, kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh.
Trước những yêu cầu của đất nước nói chung, tỉnh Thanh Hoá nói
riêng, tháng 5/1996 Đảng bộ Thanh Hoỏ đó tổ chức Đại hội đại biểu lần
thứ XV nhằm xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương. Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề
ra nhiệm vụ tổng quát soi sáng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá giai doạn đầu tiên trên địa bàn toàn tỉnh: phát huy thành tựu đạt được,
tranh thủ thời cơ vận hội, khắc phục khó khăn, thách thức, tạo ra sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhanh, mạnh, vững chắc theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đẩy mạnh cơ chế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa,
khai thác sử dụng tốt nguồn lực, xây dựng đảng và hệ thống chính trị vững
mạnh, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân.
Nghiên cứu, học tập đóng góp ý kiến cho văn kiện dự thảo trình đại hội
lần thứ IX của Đảng, triển khai thực hiện đường lối của Đảng trong giai đoạn
mới, tháng 1 năm 2001 Đảng bộ Thanh Hoá đại hội lần thứ XV, đã tiếp tục đề
ra phương hướng, nhiệm vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ
trờn toàn tỉnh. Đại hội khẳng định việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu trên tất cả các lĩnh vực,
phát huy nội lực, khai thác các nguồn lực, đặc biệt là nhân lực, ưu tiên phát
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền

triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế có tiềm năng lợi thế đáp ứng nhu cầu thị
trường.Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững.Nõng cao hiệu quả và

sức cạnh tranh, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với phát triển và giải quyết tốt các vấn đề xã hội chủ
nghió, nâng cao đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện công bằng xó
hụị.Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng- an ninh, giữ vững ổn định
chớnh trị.Xõy dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Đảng
và nhà nước ta đã kịp thời phân tích những biến đổi của tình hình trong nước
và quốc tế để đề ra những đường lối đúng đắn cho quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên, làm động lực
thúc đẩy xã hội ta tiến lên văn minh hiện đại
2.1.2 Chủ trương và biện pháp của thị trấn Lang Chánh trong việc vận
dựng đường lối của Đảng.
Quán triệt đường lối đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và nghị
quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Đảng bộ Lang chánh tiến hành tổ
chức đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII (3/1996) đề ra phương hướng, mục tiêu
cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện.Công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoỏ trờn địa bàn Lang Chánh thực chất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nụng thụn.Trong nông nghiệp bao gồm nông nghiệp và lâm
nghiệp, trong nông thôn bao gồm cả kinh tế, văn hoá, xã hội.
Ánh sáng của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, của Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XV đã hướng dẫn các Đảng bộ trong tỉnh tiếp tục đưa sự
nghiệp đổi mới vào chiều sâu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ ngày 27 đến ngày 29-11-2001 Đảng bộ huyện Lang Chánh tiến
hành Đại hội lần thứ XIX. Đại hội đã đề ra những giải pháp cụ thể cho từng
ngành. Trong phát triển kinh tế Lang Chánh phải phát huy tiềm năng đất đai,
tài nguyên, lao động sẵn có, nâng cao tính tự lực, tự cường, tranh thủ sự đầu
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị
Huyền


tư phát triển trồng trọt và chăn nuôi, đưa chăn nuôi đại gia súc trở thành
ngành sản xuất hàng hoá, phát triển mạnh mạng lưới dịch vụ - thương mại ở
các tụ điểm dân cư, xây dựng các cụm kinh tế - kỹ thuật, thực hiện tốt các
dự án kinh tế - xã hội. Đối với cỏc xã vùng cao: Tập trung quản lý bảo vệ
rừng phòng hộ đầu nguồn, phát triển chăn nuôi gia súc và các loại cây lúa,
cây lấy củ có bột, cây ăn quả phù hợp với điều kiện. Đối với cỏc xó vựng
thấp: Tập trung thâm canh cây lúa và các loại cây công nghiệp ngắn ngày,
phát triển cây ăn quả có chất lượng. Đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ chăm sóc
tu bổ, khai thác rừng một cách hợp lý; phát triển chăn nuôi gia súc, gia
cầm.Từng bước hình thành vùng nguyên liệu giấy theo quy hoạch của tỉnh
đề ra. Đặc biệt đối với thị trấn phải phát triển cả lâm – nông – công nghiệp
và dịch vụ, hình thành vành đai thực phẩm, thực hiện quy hoạch dân cư, bảo
vệ môi trường.Về văn hoá – xã hội phải đẩy lùi tệ nạn xã hội, thực hiện tốt
chính sách xã hội của Đảng, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhõn tài.Xõy dựng
đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Được sự quan tâm và chỉ đạo của Đảng bộ huyện Lang Chánh, uỷ ban
nhân dân thị trấn Lang chánh đã thực hiện quán triệt đường lối “công nghiệp
hoá, hiện đại hoỏ” của Đảng cho toàn bộ nhân dân thị trấn.Phải phát huy
sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, khai thác hợp lý tiềm năng thế
mạnh.Tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội để khai thác hiệu quả tiềm năng của
mình.Gần 10 năm đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương,
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thị trấn, toàn thể nhân dân thị trấn Lang
Chỏnh đó tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, hạ thấp tể lệ nông
nghiệp trong GDP, tăng nhanh tỷ lệ thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,
đổi mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi phát triển
Líp: K55A - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

Hà Nội
25

×