Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận Tổng quan về WTO và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.94 KB, 34 trang )

GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
DANH MỤC
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ WTO……………………………… 3
1) Sự hình thành và phát triển……………………………………………3
2) Mục tiêu của WTO ………………………………………………… 6
3) Chức năng của WTO………………………………………………….7
4) Cơ cấu tố chức của WTO…………………………………………… 8
5) Ban thư ký…………………………………………………………….11
6) Cơ chế vận hành WTO……………………………………………….12
7) Những nguyên tắc luật lệ, quy định cơ bản của WTO……………….14
II. QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO , CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM……………………………………………18
1) Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam……………18
2) Cơ hội và thách thức của WTO ……………………………………….20
a. Cơ hội WTO mang lại cho Việt Nam………………………………20
b. Thách thức WTO đặt ra…………………………………………….23
3) Biện pháp đối phó với thách thức…………………………………… 25
Trang 1
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hóa, các quốc gia không ngừng hội nhập, WTO là
một đặc trưng cho quá trình đó. WTO là tên viết tắt của Tổ chức thương mại thế
giới, khi gia nhập vào tổ chức này các thành viên sẽ bị ràng buộc các điều khoản,
đổi lại họ sẽ hưởng được những đặc quyền mà các nước không phải là thành viên
sẽ không có. Mục đích của việc thành lập WTO là tạo một môi trường kinh tế cạnh
tranh công bằng tự do, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại. Bất kể là một quốc
gia mạnh hay yếu khi gia nhập vào tổ chức này sẽ được đãi ngộ như nhau. WTO là
xu thế của thời đại mà hầu hết các nước trên thế giới đều hướng tới. Hiện nay các
nước có nền kinh tế phát triển đều là thành viên của WTO.
Ngày 11/1/2007 –Việt Nam gia nhập WTO là một bước ngoặt mới mở ra cho
nền kinh tế nước ta. Vị thế của Việt Nam sẽ dần được nâng cao, thế giới sẽ nhìn


thấy sự năng động của kinh tế Việt Nam. Gia nhập WTO là đòn bẩy cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến nhanh đến nền công nghiệp hiện đại,
cùng các cường quốc bước tới nền văn minh mới – văn minh công nghệ.
Vậy WTO là gì, cơ cấu tổ chức như thể nào, nguyên tắc hoạt động ra sao. Việt
Nam phải kí những cam kết gì để được hưởng lợi ích từ tổ chức này. Nền kinh tế
Việt Nam sẽ bị tác động như thể nào: đâu là cơ hội và đâu là thách thức và giải
pháp nào cho những khó khăn. Đó là nội dung mà nhóm 4 đã tìm hiểu và trình bày
dưới đây.
Bài tiểu luận này được viết dựa trên những thông tin từ sách, báo và chủ yếu
nhóm lấy thông tin từ trên các trang web sau đó thảo luận chọn ý kiến thích hợp
nhất.TG
Trang 2
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Mặc dù nhóm đã có nhiều cố gắng nhưng sự hiểu biết về WTO và ảnh hưởng
của nó tới Việt Nam còn hạn chế nên có thể có nhiều thiếu sót nên mong nhận
được sự góp ý của thầy và các bạn.
Nhóm 4
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ WTO
1. Lịch sử hình thành và phát triển.
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa
các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang
được các nước đàm phán và ký kết.
Trụ sở Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO / OMC) tại Geneve
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương
mại quốc tế của tổ chức tiền thân là GATT - Hiệp định chung về Thuế quan
Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu
hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế
đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường
được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế

(IMF) ngày nay.
Trang 3
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc
tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa, khắc
phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập
GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và
dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO)
với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước này đã cùng
nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những biện pháp bảo hộ
mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30,
nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại
phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các
nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thỏa
thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ
11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn,
nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện
được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được
ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên
tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng
lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính
thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay(1986-1994) do thương mại
quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán
không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành các
chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ,
quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương

mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều
tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký
kết mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại
Trang 4
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại
Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức
được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ
1/1/1995.
- Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau:
- WTO là nơi đề ra những quy định:
Ðể điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới
hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến thời điểm 31/12/2005, WTO có 148 thành
viên. (Xem thêm Phụ lục Danh sách các thành viên Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) ).
- WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán:
Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm
phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. "Tất cả
những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán". Có thể nói,
WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận,
thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ , để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các
bên.
Một cuộc họp của tổ chức WTO
- WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế:
Trang 5
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Ra đời với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO
tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và

thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và
nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản
chất là các "hợp đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận
(thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính
sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính
phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất
nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.
- WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp:
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương
mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh (gọi chung là
quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy định đã
thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của
WTO chính là ?mục tiêu chính trị? của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu
kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng
cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường.
2. Mục tiêu của WTO
Hình dung đơn giản về WTO như nêu trên cũng chính là nội dung của các mục
tiêu của WTO như được ghi nhận tại Lời mở đầu của Hiệp định thành lập WTO
như sau:
"Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan hệ
của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và thương mại
phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và
một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản
xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối
ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy
Trang 6
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền

trì môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù
hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát
triển kinh tế khác nhau.
(Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích cực
để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát
triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng
với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
(Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này
bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo hướng
giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ
sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;
Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế thương
mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc
cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa
biên này.
3. Chức năng của WTO
Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới,
WTO có 5 chức năng sau:
a. WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và những
mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO,
cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện
các hiệp định nhiều bên.
b. WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về
những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO.
WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về
những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các
kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng
đưa ra.
Trang 7
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền

Diễn đàn về các cuộc đàm phán
c. WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải
quyết tranh chấp giữa các thành viên (''Thoả thuận'' này được quy định trong Phụ
lục 2 của Hiệp định thành lập WTO).
d. WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành
viên), ''Cơ chế'' này được quy định tại Phụ lục 3 của Hiệp định thành lập WTO.
e. Ðể đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính
sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.
4. Cơ cấu tổ chức của WTO:

Trang 8
Hội nghị Bộ Trưởng
USB- Cơ quan
giải quyết tranh
chấp
Đại hội đồng
Cơ quan rà soát
kiểm soát
Hội đồng
TRIPs
Hội đồng
dịch vụ
Hội đồng
hàng hóa
Cơ quan tố
tụng
Uỷ ban phát
triển môi
trường, ngân

sách…
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
a. Hội nghị bộ trưởng:
Hội nghị bộ trưởng gồm đại diện của tất cả các nước thành viên của WTO. Hội
nghị bộ trưởng họp hai năm một lần. Hội nghị bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao
nhất của WTO.
Hội nghị bộ trưởng sẽ thực thi các chức năng của WTO và thực hiện hiện
những hành động cần thiết để thực thi các chức năng này. Khi một thành viên nào
đó yêu cầu, Hội nghị bộ trưởng cũng có quyền đưa ra những quyết định về tất cả
các vấn đề thuộc các hiệp định đa biên, theo trình tự ra quyết định được quy định
tại Hiệp định thành lập WO và các hiệp định đa biên.
Tính đến thời điểm 12/2005, WTO đã tổ chức được 6 kỳ hội nghị. Hội nghị
bộ trưởng lần thứ nhất tổ chức tại Singapore vào tháng 12/1996; lần thứ hai tại
Geneva, Thuỵ Sỹ, tháng 5/1998; lần thứ 3 tại Seatle, Mỹ, tháng 12/1999; lần thứ 4
tại Doha, Qatar, tháng 11/2001; lần thứ 5 tại Cancun, Mehico, tháng 9/2003; lần
thứ 6 tại Hongkong, tháng 12/2005.
b. Ðại hội đồng:
Ðại hội đồng gồm đại diện của tất cả các nước thành viên, sẽ họp khi cần
thiết. Trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị bộ trưởng thì chức năng của
Hội nghị bộ trưởng sẽ do Ðại hội đồng đảm nhiệm. Như vậy, có thể hiểu Ðại hội
đồng là cơ quan quyết định tối cao của WTO trong thời gian giữa các khoá họp của
Hội nghị bộ trưởng.
Trang 9
Uỷ ban tài
chính…
Uỷ ban nông
nghiệp, BT,
AD, ROO…
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Khi cần thiết, Ðại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của

Cơ quan giải quyết tranh chấp.
Khi cần thiết, Ðại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của
Cơ quan rà soát chính sách thương mại.
Như vậy, các hoạt động hàng ngày trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội nghị bộ
trưởng thuộc trách nhiệm giải quyết của 3 cơ quan:
- Ðại hội đồng;
- Cơ quan giải quyết tranh chấp;
- Cơ quan rà soát chính sách thương mại.
Nhưng theo như quy định của WTO, thực chất, cả 3 cơ quan này chỉ là một. Tức
là tuỳ theo từng trường hợp cụ thể:
Ðại hội đồng nhóm họp với các chức năng và nhiệm vụ của Cơ quan giải
quyết tranh chấp hay là của Cơ quan rà soát chính sách thương mại.
Cơ quan giải quyết tranh chấp giám sát việc thực thi các thủ tục giải quyết
tranh chấp giữa các thành viên (quy định tại Thoả thuận về những quy tắc và thủ
tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp).
Cơ quan rà soát chính sách thương mại tiến hành việc phân tích các chính
sách thương mại của các nước thành viên (quy định tại Cơ chế rà soát chính sách
thương mại).
c. Các hội đồng; các uỷ ban; các nhóm công tác:
• Các hội đồng:
Các hội đồng trực thuộc Ðại hội đồng, hoạt động theo sự chỉ đạo chung của Ðại
hội đồng. Các hội đồng cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên của WTO.
Ðại hội đồng có các hội đồng sau:
- Hội đồng thương mại hàng hoá
- Hội đồng thương mại dịch vụ
- Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
Trang 10
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Chức năng của các hội đồng là giám sát việc thực hiện các hiệp định liên
quan đến lĩnh vực của mình. Các hội đồng sẽ nhóm họp khi cần thiết. Các hội đồng

này thành lập ra các cơ quan cấp dưới theo yêu cầu.
• Các uỷ ban:
Hội nghị bộ trưởng thành lập ra các uỷ ban. Các uỷ ban cũng bao gồm các đại diện
của tất cả các thành viên của WTO. Các uỷ ban này đảm nhiệm các chức năng
được quy định trong các hiệp định của WTO hoặc các chức năng do Ðại hội đồng
giao cho.
Tuy cũng trực thuộc Ðại hội đồng nhưng thẩm quyền hoạt động của các uỷ ban
hẹp hơn so với các hội đồng. Ðại hội đồng có các uỷ ban sau:
- Uỷ ban về thương mại và môi trường;
- Uỷ ban về thương mại và phát triển;
- Uỷ ban về hiệp định thương mại khu vực;
- Uỷ ban về các hạn chế nhằm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế;
- Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị;
• Các nhóm công tác:
Các nhóm công tác cũng trực thuộc Ðại hội đồng nhưng cấp độ nhỏ hơn và
hẹp hơn so với các uỷ ban. Ðại hội đồng có nhóm công tác sau:
- Nhóm công tác về gia nhập tổ chức;
- Nhóm công tác về quan hệ giữa thương mại và đầu tư;
- Nhóm công tác về tác động qua lại giữa thương mại và chính sách cạnh tranh;
- Nhóm công tác về minh bạch trong chi tiêu chính phủ;
- Nhóm công tác về thương mại, nợ và tài chính;
- Nhóm công tác về thương mại và chuyển giao công nghệ.
5. Ban thư ký của WTO:
Trang 11
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Ban thư ký của WTO đặt tại Geneva. Ban thư ký có khoảng 550 nhân viên. Nhân
viên của Ban thư ký do Ban thư ký tuyển dụng qua thi tuyển. Ðiều kiện trước tiên
là phải thông thạo 3 ngoại ngữ là ngôn ngữ chính thức của WTO là Anh, Pháp, Tây
Ban Nha.
Ban thư ký làm việc.

Ðứng đầu Ban thư ký là Tổng giám đốc. Tổng giám đốc của WTO do Hội nghị
bộ trưởng bổ nhiệm, quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, điều kiện phục vụ và thời
hạn phục vụ của Tổng giám đốc. Nhiệm kỳ của Tổng giám đốc là 4 năm.Tổng
giám đốc sẽ bổ nhiệm các thành viên của Ban thư ký. Dưới Tổng giám đốc là các
Phó tổng giám đốc. Các vụ chức năng của Ban thư ký trực thuộc Tổng giám đốc
hoặc một Phó tổng giám đốc.
Ban thư ký có nhiệm vụ:
- Trợ giúp về mặt hành chính và kỹ thuật cho các cơ quan chức năng của WTO
(các hội đồng, các uỷ ban, ) trong việc đàm phán và thực thi các hiệp định;
- Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và kém phát triển;
- Thống kê và đưa ra phân tích về tình hình, chính sách và triển vọng thương mại
thế giới;
- Hỗ trợ các quá trình giải quyết tranh chấp và rà soát chính sách thương mại;
- Tiếp xúc và hỗ trợ các nước thành viên mới trong quá trình đàm phán gia nhập;
tư vấn cho các chính phủ muốn trở thành thành viên của WTO;
Trang 12
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
6. Cơ chế vận hành của WTO:
Tổ chức thương mại thế giới họp 2 năm một lần dưới hình thức Hội nghị Bộ
trưởng các nước thành viên. Ngoài các cuộc họp của Hội nghị bộ trưởng, còn có
các cuộc họp của Ðại hội đồng.
Trong các cuộc họp của WTO, việc ra quyết định được tiến hành trên cơ sở
đồng thuận. Ðây là một thông lệ của GATT 1947 (tổ chức tiền thân của WTO)
trước kia và được WTO tiếp tục sử dụng.
Cơ chế "đồng thuận" khác với cơ chế "biểu quyết". ở cơ chế biểu quyết (có
thể biểu quyết bằng bỏ phiếu, bằng giơ tay, bằng ấn nút điện tử ) quyết định được
thông qua kể cả khi không có được 100% số phiếu tán thành, mà tuỳ theo quy định
của mỗi tổ chức, mỗi cuộc họp, khi đạt được một tỷ lệ phiếu thuận (tán thành) nhất
định thì quyết định đã được thông qua.
"Ðồng thuận" là cơ chế ra quyết định mà tại thời điểm thông qua quyết định

đó không có thành viên nào (có mặt tại phiên họp) chính thức phản đối quyết định
được dự kiến.
Ví dụ, tại thời điểm 12/2005, WTO có 148 thành viên, nếu Hội nghị bộ
trưởng họp và ra một quyết định nào đó, quyết định được thông qua nếu tất cả 148
nước thành viên đều không phản đối về quyết định đó thì gọi là đồng thuận.
"Ðồng thuận" cũng khác với "nhất trí". Nhất trí là biểu quyết với 100% tán
thành, tức là đạt được 100% số phiếu thuận.
Trang 13
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Cờ các nước thành viên WTO tại trụ sở Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO /
OMC) tại Geneve
Nếu không thể đạt được một quyết định trên cơ sở đồng thuận thì vấn đề cần
giải quyết sẽ được quyết định bằng hình thức bỏ phiếu. Tại các cuộc họp của Hội
nghị bộ trưởng và Ðại hội đồng, mỗi thành viên của WTO có một phiếu. Cộng
đồng châu Âu thực hiện quyền bỏ phiếu thì họ sẽ có số phiếu tương đương với số
lượng thành viên của cộng đồng là thành viên của WTO.
Các quyết định của Hội nghị bộ trưởng và Ðại hội đồng được thông qua trên
cơ sở đa số phiếu.
7. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản pháp lý
quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, viễn thông, các biện pháp kiểm dịch
động - thực vật, sở hữu trí tuệ song thực chất, tất cả các văn bản đó đều được xây
dựng và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt
động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
Trang 14
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
7.1: Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
• Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):

"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất".
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các
quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO
phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối
tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một
hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với
tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được
"ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác
thương mại nào.
• Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
"Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản
phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự
sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập
khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại
cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng
(không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên
tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa
các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ của các nước A, B, C khi xuất
khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục tiêu
tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp
nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước X,
Trang 15
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan,
đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
7.2: Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm

phán):
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt
giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch,
giấy phép ). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho thấy đó
chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả đàm
phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm phán cả
những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát
triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền
kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là
khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có
thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền
sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy
định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ
trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng
rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để
thực hiện.
7.3: Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch:
Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các
nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về
các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình
thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ
đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình
mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của
họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan,
phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây
Trang 16
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền

là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO
tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
• Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân
nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán
phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối
tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một
bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác,
ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và
không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp
nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ
sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế
đó gây ra.
Các nước thỏa thuận cắt giảm thuế quan.
• Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng
khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu,
tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh
nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do
Trang 17
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ
hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu
chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch")
các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Ðồng thời, WTO
có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ
chế rà soát chính sách thương mại.
7.4: Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn:

Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại
song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về
bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của
các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hoặc các biện
pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh
tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không
được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá
7.5: Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi.
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự do
hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO đóng
góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận rằng,
các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Nói
cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ "cầu thủ" thì
không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là các nước đang
phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4
số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm
khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền
kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử
đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào
hệ thống thương mại đa biên.
Trang 18
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Một trong những mặt hàng được cắt giảm thuế.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong
việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này
một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ
hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện các
hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các nước này

điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các nước kém
phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
II. QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO , CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM.
1. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam.
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn
sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực.
Trang 19
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G8; nâng
quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện,
gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ
quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán,
20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn
phòng kinh tế văn hóa.
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế
giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được
đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế,

thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương.
Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ
1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn
đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới – WTO vào ngày 11/1/2007 sau hơn 11 năm đàm phán.
2. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
a. Những cơ hội do WTO mang lại.
Trang 20
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam không chỉ liên quan đến lĩnh vực kinh
tế đối ngoại mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế – xã hội và góp
phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, việc gia nhập WTO của Việt Nam là một tất yếu trong
quá trình phát triển của mình. Khi gia nhập WTO Việt Nam sẽ thực sự tham gia có
hiệu quả vào nền kinh tế thế giới, nó sẽ tạo ra những cơ hội mới cho sự phát triển
của kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất, đây là sân chơi lớn toàn cầu. Việt Nam gia nhập sẽ tăng vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Việc gia nhập WTO cho phép Việt Nam tiếp cận
đến môi trường thương mại toàn cầu, tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng hoá và các quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư. Bởi vì, khi đó Việt Nam sẽ
được hưởng qui chế tối huệ quốc, qui chế đối xử quốc gia, sẽ không bị phân biệt
đối xử trong thương mại quốc tế. Việt Nam sẽ được hưởng những thành quả đàm
phán suốt mấy chục năm của GATT và WTO, mà cụ thể là giảm mạnh hàng rào
thuế quan và phi thuế quan, tạo điều kiện cho một số mặt hàng chủ lực của Việt
Nam như hàng dệt may, nông sản, lương thực và sau này là các mặt hàng công

nghiệp chế tạo xâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường thế giới, nhất là các thị trường
lớn như Mỹ, Nhật và EU. Tác dụng của việc hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN),
tránh bị phân biệt đối xử (NT), thể hiện rõ nét trong mức thuế thấp, những quy
định và thể lệ xuất khẩu khác như: tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, xuất xứ hàng hóa
… đỡ ngặt nghèo hơn. Ngoài ra, khi gia nhập WTO, Việt Nam còn có thể được
hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), là mức ưu đãi cao nhất do các nước
công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển khi xuất khẩu hàng hoá
công nghiệp chế biến vào các nước này mà không đòi hỏi điều kiện có đi có lại.
Việt Nam đã khắng định được vị thế của mình trên trương quốc tế.
Trang 21
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Thứ hai, khi gia nhập WTO Việt Nam sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với
nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế lớn như WB, IMF, EDB,
ADB… bởi vì WTO có mối quan hệ mật thiết và tương hỗ với các tổ chức tài
chính thế giới đó. Việt Nam đã đàm phán với các tổ chức tài chính quốc tế này để
tranh thủ nguồn vốn ưu đãi và trong quá trình đàm phán đó, họ đều yêu cầu Việt
Nam phải thực hiện cơ chế chính sách thương mại của mình theo những chuẩn
mực của WTO. Vì vậy, nếu Việt Nam không có những cam kết và cơ chế chính
sách theo quy tắc, chuẩn mực của WTO, thì việc vay vốn ưu đãi từ các tổ chức này
sẽ hết sức khó khăn. Đồng thời, nếu là thành viên của WTO, việc tranh thủ nguồn
viện trợ, vay ODA và các nguồn tín dụng song phương khác của Việt Nam cũng sẽ
dễ dàng hơn.
Thứ ba, gia nhập WTO là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh cải cách kinh tế theo
thể chế thị trường, bởi vì , WTO yêu cầu các quốc gia thành viên phải mở của thị
trường của mình, tăng cường trao đổi thông tin về kinh tế – thương mại, tăng tính
trong sáng trong việc quản lý thương mại. Tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường
Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới với những luật chơi của nó.
Đồng thời, khi là thành viên của WTO Việt Nam có thể tham gia thương lượng và
giải quyết những tranh chấp thương mại trên thị trường thế giới nhằm bảo vệ lợi
ích quốc gia, bởi vì, các quốc gia không phải là thành viên của WTO sẽ không có

quyền tham gia những cuộc đàm phán, thương lượng phân chia quyền lợi và thị
trường. Các cuộc tranh chấp thương mại lớn về các mặt hàng như chuối, tôm và
gần đây là thép… giữa các trung tâm kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, EU,
Trung Quốc … diễn ra thường xuyên và hiện đang được WTO phân xử cho phép
phía EU, Nhật, Trung Quốc được quyền đánh thuế trừng phạt các hàng hoá của Mỹ
nếu Mỹ không giảm thuế đối với mặt hàng thép của các nước này. Như vậy, nếu
không phải là thành viên của WTO thì không thể bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc
gia mình nếu gặp những tranh chấp thương mại kiểu “cá ba sa” giữa Mỹ và Việt
Nam vừa qua.
Khi tham gia vào WTO, chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng lớn trên cả cấp
vĩ mô và vi mô. Lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ hội nhập là thị trường
xuất khẩu thuận lợi cho Việt Nam mở rộng. Do VN được hưởng qui chế MFN vô
điều kiện, theo đó hàng hóa Việt Nam sẽ được cạnh tranh bình đẳng với các đối
thủ khác, không còn vướng nhiều rào cản về thuế và hạn ngạch như hiện nay nữa
(Hiện nay, thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm tới 90% khối lượng
thương mại thế giới). Từ đó sẽ tăng cường tiềm lực kinh tế thông qua việc đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài
Trang 22
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Là thành viên WTO sẽ khiến thị trường Việt Nam được nhìn ở một góc độ
khác. Thị trường Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn với giới đầu tư nước ngoài đã quen
thuộc với cung cách làm việc của WTO. Họ sẽ đem đến những công nghệ tiên tiến,
những thói quen kinh doanh tốt hơn. Những điều này sẽ giúp gia tăng mức sản xuất
tại Việt Nam, phát triển thị trường nội địa, tạo công ăn việc làm cho dân chúng.
Thị trường nội địa phát triển sẽ cho người tiêu dùng có nhiều chọn lựa hơn về chất
lượng sản phẩm và dịch vụ không có được trước đó.
Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu hút đầu
tư. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, có năm 23%, có năm
19%, năm 2005 kim ngạch của chúng ta đạt 32,5 tỷ USD. So với các nước trong
khu vực thì như vậy là rất nhỏ.

Ví dụ: so với Thái-lan, 63 triệu dân, kim ngạch đạt hơn 100 tỷ USD. Chúng ta chỉ
bằng 1/3 trong khi dân số là 83 triệu người; nếu so với Philippines, chúng ta bằng
2/3.
Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trở lên, nhập
khẩu phải ở mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị phân biệt đối
xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ.
Xuất nhập khấu của Việt Nam tăng nhanh.
Ví dụ: xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn không được
hưởng ưu đãi thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo vào châu Âu được.
Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO chúng ta mới được chia hạn
Trang 23
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
ngạch. Với Hoa Kỳ, không gia nhập WTO chúng ta vẫn bị hạn ngạch dệt may. Nếu
gia nhập WTO, chúng ta được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập WTO chúng ta
mới dỡ bỏ được rào cản, phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho các thành viên
WTO.
Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán
thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO chúng ta
có hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải
minh bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính
sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì vậy mà trong đoàn đàm phán
chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả các bộ, ngành tham gia để đảm
đương được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều vấn đề liên quan kinh tế,
thương mại. Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp luật.
Gia nhập WTO chúng ta phải tiến hành đàm phán đa phương và song phương.
Ða phương là để chúng ta minh bạch hóa các chính sách và đi đến cam kết các
chính sách kinh tế vĩ mô. Ði đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô về đa
phương, cho đến nay, cơ bản chúng ta chấp nhận các hiệp định của WTO khi
chúng ta gia nhập.

b. Những thách thức mà chúng ta vấp phải.
Chúng ta kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO, chúng ta cũng gặp
rất nhiều thách thức.
Hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho 1 đất nước đang phát triển như VN,
nhưng cũng đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một nội lực đủ mạnh.
Chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước phát triển. Nỗi
đau tụt hậu, chậm phát triển, thua kém bạn bè quốc tế là không của riêng ai, mà là
của toàn thể những con người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng trên toàn thế
giới. Chúng ta cần nhận thức rõ mối nguy chung này để biến thành những nội lực
mạnh mẽ của Việt Nam, trước hết là tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết; sau là
nhiệm vụ phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà,
song song với việc phát triển văn hóa - xã hội, nhằm tạo nên một mô hình phát
triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững.
Trang 24
GVHD: TS. Nguyễn Đình Hiền
Chúng ta muốn có thị trường toàn cầu thì chúng ta phải mở cửa thị trường cho
các nước. Ðây là thách thức lớn nhất. Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam tuy bây giờ
có số lượng rất đông 230 nghìn doanh nghiệp nhưng phần lớn là nhỏ và vừa, cho
nên năng lực cạnh tranh kém. Ðó cũng là thách thức. Nhưng cũng có điều các
doanh nghiệp Việt Nam năng động và cũng chuyển động rất nhanh khi môi trường
kinh doanh thay đổi, nhưng lại bị hạn chế bởi vốn, công nghệ và năng lực. Từ đó
dẫn tới năng lực cạnh tranh thị trường các mặt hàng của Việt Nam bị hạn chế. Tất
nhiên, từng ngành có khác, năng lực cạnh tranh chỉ là tương đối, nay khác, mai
khác.
Tàu HQ-571 do Viện khoa học và công nghệtàu thuỷ Việt Nam thiết kế
Ví dụ, đóng tàu chẳng hạn, trước đây có bao giờ Việt Nam nghĩ là sẽ đóng
nhiều tàu biển đâu, nhưng sau khi lợi thế về đóng tàu thay đổi, chuyển từ châu Âu
sang Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, lương công nhân rất cao, thì Việt Nam lại trở
thành nơi hấp dẫn đối với ngành đóng tàu trên thế giới. Chúng ta có ưu điểm:
công nhân nhiều, nhiều vũng, vịnh kín có thể đóng tàu quanh năm. Ngành may

mặc thì lương công nhân ở các nước ASEAN cao, họ sẽ chuyển sang Việt Nam;
Thái Lan, Malaysia đang rất thiếu lao động. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu
đến ba triệu lao động, Singapore nhập khẩu 0,5 triệu lao động. Các nước khác
phải chuyển sang Việt Nam. Ở nước ta, Singapore có hai khu công nghiệp. Họ
chuyển các lĩnh vực ít khả năng cạnh tranh sang ta. Ðây là một lợi thế. Chúng ta
Trang 25

×