Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề
Chúng ta đang sống ở thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển vượt bậc về
khoa học kỹ thuật. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, nhu cầu xã hội
ngày càng tăng, cũng là lúc vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường được
thế giới nói chung và Việt Nam chúng ta nói riêng đặc biệt quan tâm.
Bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách không
của riêng ai. Việt Nam hứng chòu hậu quả nặng nề từ biến đổi khí hậu gây ra.
Do đó, chúng ta cần phải có những hành đông cụ thể để chung tay với thế giới
góp phần bảo vệ trái đất, môi trường sống của chúng ta.
Ngoài việc đưa ra Hiến pháp, Luật môi trường, các quy đònh, tiêu chuẩn…
thì việc giáo dục môi trường là một trong những biện pháp lâu dài và rất quan
trọng. Trong khi đó nhận thức của người dân nói chung, học sinh nói riêng về
bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ học sinh Trung học cơ sở
(THCS) chiếm số đông. Đây là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành nhân
cách, là những người chủ tương lai của đất nước, lứa tuổi dễ tiếp thu, dễ rèn
luyện hành vi và thói quen, là lực lượng đông đảo góp phần xây dựng và Bảo vệ
môi trường (BVMT) một cách tốt nhất.
Giáo dục BVMT là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính
quy và không chính quy, giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường làm cho
con người có được sự hiểu biết về môi trường, kỹ năng và giá trò về nhân cách
trong ứng xử với môi trường, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một
xã hội bền vững về sinh thái. Để việc đưa giáo dục BVMT vào nhà trường đạt
kết quả mong muốn, quá trình triển khai sẽ thực hiện theo đường hướng được
xác đònhvà phải đảm bảo theo nguyên tắc, mục tiêu, nội dung với những phương
pháp thích hợp
1
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
1.2.Lý do chọn đề tài
Từ khi xuất hiện trên trái đất, con người gắn bó với thiên nhiên, nhờ có lao
động con người đã chủ động khai thác tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc
sống của mình. Trong quá trình lao động và sản xuất con người đã cải tạo thiên
nhiên, nhưng ngược lại cũng tàn phá thiên nhiên như đốt rừng, tiêu diệt các loài
động thực vật, sử dụng chất độc hoá học, chất phóng xạ huỷ hoại thiên nhiên
gây nên tình trạng khủng hoảng sinh thái. Cần phải làm gì để ngăn chặn thực
trạng trên cứu lấy con người và cuộc sống muôn loài?
Một trong những biện pháp có hiệu quả lâu dài và rất quan trọng là phải
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của
đất nước, những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường. nước ta, vấn đề giáo
dục môi trường cũng là mối quan tâm sâu sắc của Đảng, nhà nước và hệ thống
nhà trường. Nghò quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII năm
1993 đã đề ra nhiệm vụ:” Đẩy mạnh giáo dục pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, dân
số rèn luyện thể chất cho học sinh”
Trong hệ thống nhà trường, việc giáo dục môi trường (GDMT) cần được
coi trọng đặt biệt ở bậc THCS, bởi lẽ: bậc THCS là bậc học nền móng, bậc phổ
cập của hệ thống giáo dục quốc dân. Hàng chục triệu em một khi đã được giáo
dục đầy đủ các hành trang về nhận thức, tri thức về BVMT sẽ là một lực lượng
hùng hậu đóng vai trò nòng cốt trong mọi hoạt động cải thiện môi trường, bảo
vệ tài nguyên của xã hội. Học sinh THCS ở độ tuổi đang phát triển và đònh hình
về nhân cách. Vì vậy những hiểu biết cơ bản của các em được bồi dưỡng qua
GDMT sẽ để lại dấu ấn sâu sắc trong toàn bộ cuộc đời sau này của các em.
Đồng thời các em ở lứa tuổi này có tính tích cực cao, dễ hưng phấn, hiếu động
nghòch ngợm nếu không được giáo dục sẽ dẫn tới những hành động làm tổn hại
môi trường một cách vô ý thức hoặc có ý thức.
2
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Do đó làm thế nào để nâng cao hiệu quả GDMT cho học sinh ở các trường
THCS là phải hình thành cho học sinh những tri thức về môi trường, bảo vệ môi
trường. Xây dựng cho học sinh thái độ, hành vi cư sử đúng với môi trường là vấn
đề cần thiết hiện nay.
1.3.Tên đề tài
“Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Phổ thông cơ sở”
1.4.Mục đích của đề tài
Đánh giá công tác công tác giáo dục môi trường tại các trường Trung học
cơ sở trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đánh giá hiện trạng nhận thức môi trường của học sinh ở các trường Trung
học cơ sở trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Xây dựng các giải pháp tăng cường công tác giáo dục môi trường cho học
sinh.
3
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Lòch sử giáo dục môi trường
2.1.1. Sự phát triển về GDMT trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1.1. Sự phát triển về GDMT trên thế giới
Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn thế
giới. Trong mấy chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác động
của cách mạng khoa học kỹ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh đã làm cho
môi trường bò biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tài nguyên bò vắt kiệt,
nhiều hệ sinh thái bò tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bò rối loạn.
Môi trường lâm vào khủng hoảng với quy mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực
sự đối với cuộc sống hiện đại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai.
Để bảo vệ cái nôi sinh thành của mình, con người phải thực hiện hành loạt
các các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề GDMT. GDMT là một trong những
biện pháp có hiệu quả nhất, giúp con người có nhận thức đúng trong việc khai
thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Lần đầu tiên trong lòch sử, vào năm 1984, tại cuộc họp Liên hiệp quốc về
BVMT và tài nguyên thiên nhiên (TNTN) ở Pari, thuật ngữ “Giáo dục môi
trường” được sử dụng. Tiếp sau đó, có rất nhiều cố gắng để đònh nghóa thuật ngữ
này
IUNC, 1970 đã đònh nghóa GDMT là quá trình nhận biết các giá trò và làm
sáng tỏ các khái niệm nhằm phát triển các kỹ năng và quan điểm cần thiết để
hiểu và đánh giá được sự quan hệ và tương tác giữa con người, nền văn hoá và
thế giới vật chất bao quanh GDMT đồng thời cũng thực hiện quyết đònh đưa ra
bộ quy tắc ứng xử với những vấn đề liên quan đến đặc tính môi trường
Chương trình IEEP ( Chương trình GDMT quốc tế) ra đời t một hội thảo ở
Belyrade năm 1972. Hội thảo đưa ra bản tuyên bố liên chính phủ lần đầu tiên về
GDMT. Các mục đích, mục tiêu, những khái niệm cốt yếu và những nguyên tắc
4
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
hướng dẫn của chương trình được đưa ra vào một văn kiện của hội thảo có tên
là: “Hiến chương Belyrade – một hệ thống nguyên tắc toàn cầu cho GDMT”.
Một tập hợp các mục tiêu ngắn gọn, bao quát GDMT được đưa ra tại Belyrade
có thể tóm tắt như sau:
Nâng cao nhận thức và quan tâm tới mối quan hệ tương tác về kinh
tế, xã hội, chính trò, sinh thái giữa nông thôn và thành phố.
Cung cấp cho mỗi cá nhân những cơ hội tiếp thu kiến thức những
giá trò, quan niệm, trách nhiệm và những kỹ năng cần thiết nhằm bảo vệ và cải
tạo môi trường
Tạo ra những mô hình ứng xử với môi trường cho các cá nhân, các
tổ chức, cũng như toàn xã hội.
Tại Hội nghò liên chính phủ lần đầu tiên về GDMT do UNESCO tổ chức
tại Tbilisi, Liên Xô năm 1977 có 66 thành viên các nước tham dự. Hội nghò đưa
ra các ý kiến đóng góp cho việc áp dụng rộng rãi hơn nữa GDMT trong chương
trình giáo dục chính thức và không chính thức. Sự kiện quan trọng này và những
công bố liên tiếp theo dự kiến hội nghò đã tiếp tục đóng góp cho hệ thống
nguyên tắc của sự phát triển GDMT trên toàn thế giới ngày nay
Đây là một trong những văn kiện có ý nghóa quan trọng nhất quan tâm tới
vấn đề bảo tồn và GDMT trên toàn thế giới. Chiến lược bảo tồn thế giới đã
công bố (IUCN 1980). Văn kiện cốt yếu này nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc giữ gìn tài nguyên thông qua “sự phát triển mang tính chất duy trì” và ý
nghóa của mối quan hệ tương tác giữa bảo tồn và phát triển. Chiến lược về bảo
tồn thế giới có một chương về GDMT với nội dung tom tắt như sau:
Nếu như đạt được các mục tiêu bảo tồn thì hành vi cư xử của một xã hội
đối với sinh quyển phải bắt buộc thay đổi. Nhiệm vụ lâu dài của GDMT là
khuyến khích hoặc củng cố các hành vi, thái độ mang tính đạo đức mới
5
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Từ năm 1986 trở đi, các hoạt động quốc tế tiếp tục bổ sung, đóng góp cho
chiến lược bảo tồn thế giới, giải quyết các vấn đề về GDMT, đạo đức và văn
hoá
Năm 1987 đánh dấu 10 năm kỷ niệm hôi nghò Tbilisi đầu tiên và Hội nghò
này một loạt các vấn đề cơ bản được đưa ra thảo luận trong đó có tầm quan
trọng đặt biệt của GDMT, với nội dung: Rút cục là sẽ không có gì giảm được
mối đe doạ mang tính khu vực và quốc tế đối với môi trường trừ khi ý thức của
đại đa số quần chúng về mối liên quan thiết yếu giữa đặt trưng môi trường và
sựtiếp tuc thoả mãncác nhu cầu của con người được thức tỉnh. Hoạt động của
con người phụ thuộc vào động cơ, mà động cơ phụ thuộc vào sự hiểu biết của
chúng. Vì thế chúng ta hiểu được tầm quan trọng tại saomỗi người phải nhận
thức môi trường đúng đắn thông qua GDMT.
Cũng trong năm 1987, Uỷ ban thế giới về môi trường và sự phát triển đã
có báo cáo “Tương lai của chúng ta” (WCED 1987). Bản báo cáo đã đưa ra một
công bố chính “chương trình nghò sự toàn cầu” để nhất trí vấn đề môi trường với
sự phát triển, và vì thế đã tăng cường và mở rộng thực chất cuộc bảo tồn thế
giới 1980. Giáo dục được coi là phần trọng tâm của chương trình này “Sự thay
đổi trong thái độ mà chúng ta cố gắng làm phụ thuộc các chiến dòch giáo dục
lớn, các cuộc thảo luận và sự tham gia của quần chúng” (WCED 1987). Tranh
luận xuất phát từ báo cáo trên đã đưa tới một hội nghò quan trọng thứ hai, sau
hội nghò Stockholm 20 năm, hội nghò Liên hiệp quốc về môi trường và sự phát
triển hội nghò thượng đỉnh, Brazil (1992)
Hội nghò thượng đỉnh diễn ra tại Rio de Janero năm 1992, hội thảo trên
một phạm vi rộng về các đề tài và vấn đề môi trường. Có nhiều công bố dành
cho GDMT thông qua suốt văn kiện. Một trong những kết quả chính của hội
nghò là sự nhất trí rằng phát triển và giáo dục và môi trường phải là một bộ phận
thống nhất của quá trình học tập ở cả hai dạng chính thức và không chính thức.
6
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Và một dự kiến được đưa ra là mọi chính phủ phải nổ lực phấn đấu để cập nhập
hóa hoặc chuẩn bò các chiến lược nhằm mục đích kết hợp môi trường và phát
triển thành vấn đề trung tâm để đưa vào tất cả các cấp giáo dục.
2.1.1.2. Tình hình GDMT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1966 Chủ tòch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào
Tết trồng cây để giữ gìn và làm đẹp môi trường sống. Cho đến nay phong trào
này vẫn được duy trì và phát triển mạnh mẽ.
Năm 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chương trình trồng cây phát triển
giáo dục – đào tạo và BVMT (1991 – 1995).
Trong kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền vững
của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000, GDMT được ghi nhận như một bộ phận
cấu thành.
Từ năm 1995, Dự án GDMT trong nhà trường phổ thông Viêt Nam (VIE
95/041) của Bộ Giáo duc và Đào tạo do UNDP tài trợ đã nhắm vào mục tiêu cơ
bản:
− Hổ trợ xây dựng một chính sách và chiến lược thực hiện quốc gia về GDMT
tại Việt Nam.
− Tăng cường năng lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc truyền đạt
những nội dung và phương pháp GDMT vào các chương trình đào tạo giáo viên.
− Xây dựng các hoạt động GDNT cụ thể để thực hiện ở cấp Tiểu học và
Trung học.
Các mục tiêu trên đã thực hiện ở mức chi tiết và cụ thể hơn trong thực tiễn
thông qua dự án VIE98/018.
Đặt biệt gần đây nhất, tháng 8 – 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết
đònh số 153/2004/ QĐ – TTg về việc ban hành Đònh hướngchiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam gồm 5 phần:
7
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Phần 1: Phát triển bền vững – Con đường tất yếu của Việt Nam.
Phần 2:Những lónh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm PTBV.
Phần 3: Những lónh vực xã hội cần ưu tiên nhằm PTBV.
Phần 4: Những lónh vực sử dụng TNTN, BVMT và kiểm soát ô nhiễm cần
ưu tiên nhằm PTBV.
Phần 5: Tổ chức thực hiện nhằm PTBV.
Ở các trường Đại học, GDMT được coi như một nôi dung quan trọng trong
các giáo trình Con người và môi trường; Dân số, tài nguyên, môi trường. các
khoa:Sinh học, Đòa lí, Hoá học của các trường Đại học Sư phạm (Hà Nội, Huế,
Tp. HCM…) đã có các môn học về môi trường.
2.1.2. Một số thành tựu về GDMT trên thế giới
Đức, có chương trình “Tìm hiểu đất nước” trong bậc tiểu học. Các cấp
học từ trung học trở lên thì nội dung GDMT được gắn hữu cơ vào chương trình
Sinh học và Đòa lí
Bungari, cấu tạo chương trình khoa học ở cấp 1 và học sinh ở cấp 2và 3
theo tư tưởng chủ đạo “Con người và Môi trường”. Trong chương trình cấp 1 có
hẳn một môn riêng biệt là “Kiến thức về môi trường”, cung cấp cho học sinh
nội dung đơn giản nhưng rất cơ bản về môi trường xung quanh như: nhà trường,
làng mạc, thôn xóm, đòa phương, đường xá, giao thông, vườn cây, rừng, nước,
lửa, động vật có ích, có hại. Chương trình học sinh cấp 2 biên soạn theo quan
điểm “Tìm hiểu môi trường từ gần tới xa” như môi trường thôn xóm, môi trường
rừng, các cây nông nghiệp, sinh vật đồng ruộng,…
Nhật, trọng tâm của GDMT là chống ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe, nội
dung này đựơc lồng ghép vào các môn học đặc biệt là môn Sinh học và Đòa lý.
Indonesia, người ta đã thiết lập các trung tâm nghiên cứu về môi trường
trong các học viện. Các trung tâm này là nơi cung cấp các chuyên gia cho việc
nghiên cứu, đào tạo cho các công việc khác có liên quan đến khoa học môi
8
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
trường ở các cấp quốc gia và khu vực. Tuy nhiên ở các vùng sâu vùng xa thì
trình độ dân trí về môi trường chưa được cao.
Malaysia, các trường đại học đã có mối liên kết với các học viện trong
và ngoài nước để đào tạo các chuyên gia về môi trường. Một số trường đại học
đã tổ chức các khóa chính trò, các khóa học ngoại khóa về môi trường cho hầu
hết các sinh viên ở các ngành khác nhau. Trình độ môi trường của nhân dân
Malaysia khá cao.
Singapore, các chương trình giảng dạy môi trường ở các trường đại học
tổng hợp, đại học bách khoa. Học viện giáo dục được tiến hành tốt nhất. Việc
giáo dục về môi trường được các quy đònh về pháp luật đi kèm. Các trường đại
học thành lập các ủy ban để cố vấn cho chính phủ về mặt môi trường nhằm đưa
ra những chính sách, những chủ trương kòp thời và thích hợp. Ngoài ra, các
trường còn tập trung vào các “Dự án thành phố sạch và xanh”, “Nguồn gốc của
ô nhiễm không khí và sự kiểm soát nó”, “Quản lý chất thải nguy hiểm”, “Bảo
quản, lọc và xử lí nước thải”…
Philipines, hầu hết các trường đại học đều có khoa học hay chỉ ít cũng có
một bộ môn môi trường (Hoặc Environmental Sciences hoặc Environmental
Study). đây đào tạo cả chuyên ngành môi trường tài nguyên, môi trường sinh
thái lẫn công nghệ môi trường. Là một đất nước chòu nhiều thiên tai nên
Philipines rất chú trọng giáo dục các sự cố môi trường và phòng chống.
Thái Lan, nơi có trường AIT là nguồn cung cấp và đào tạo các kỹ thuật
viên môi trường, giáo dục ở cấp học sau trung học bao gồm đào tạo chuyên
nghiệp và chuyên gia môi trường cũng được xúc tiến mạnh mẽ. Hầu hết các
trường đại học ở Thái Lan đều có quyền cấp bằng cử nhân hoặc thạc só về môi
trường. Một số trường còn có cả chương trình đào tạo tiến só trong lónh vực này.
Tuy nhiên người Thái Lan vốn sợ rằng, trong tương lai gần sẽ có một sự cung
cấp quá dư các nhà môi trường được đào tạo một cách tổng quát mà thiếu hẳn
9
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
những chuyên gia sâu trong một số lónh vực môi trường học. Các báo cáo của
các chuyên gia Thái ở Hội nghò GDMT cho rằng: “Thái Lan cần có nổ lực hơn
nữa để đưa giáo dục và đào tạo, huấn luyện GDMT vào các chương trình học
hiện hành dành cho tất cả các ngành học mà họ sắp tốt nghiệp có liên quan đến
sự phát triển”. Mặt khác, TS Chunaphicun cũng xác nhận “GDMT, nước chúng
tôi được quan tâm và đạt đươc những cao trào rộng khắp, có lẽ chỉ đứng sau giáo
dục AIDS”.
Tuy hình thức và phương phháp GDMT ở mỗi nước có khác nhau nhưng đều đã
khẳng đònh sự cần thiết và tính cấp bách của giáo dục môi trường trong nhà
trường và trong cộng đồng xã hội. Hội nghò thượng đỉnh về Trái Đất họp tại Rio
Janeiro (Braxin) năm 1992 đã xác đònh chiến lược hành động cho loài người về
môi trường và phát triển môi trường ở thế kỷ 21, trong đó có hành động xem xét
lại tình hình GDMT và đưa GDMT vào chương trình giáo dục cho tất cả mọi lớp
và ở các cấp học. Đây cũng là một trong những mục tiêu chủ yếu của chương
trình GDMT quốc tế (IEEP) của UNESCO và UNEP. Sau hội nghò này tất cả các
nước xem lại tình hình GDMT ở quốc gia mình vả xây dựng những mô hình giáo
dục mới phủ hợp nhằm nâng cao hiệu quả.
2.1.3. GDMT ở Việt Nam
nước ta, việc GDMT mới được bắt đầu từ những năm cuối thập niên 70,
còn việc GDMT trong trường phổ thông chỉ mới được thực hiện vào thập niên 80
cùng với kế hoạch cải cách giáo dục. Để thực hiên nhiệm vụ GDMT trong
trường phổ thông, ngay từ thời kỳ đó đã có hai đề tài cấp nhà nước được tiến
hành nghiên cứu về phương thức nội dung GDMT trong nhà trường, trong đó tập
trung chủ yếu là môn sinh học và đòa lý. Từ năm 1982 – 1983 khoa học đòa lý
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đưa môn bảo vệ tự nhiên, mà nay là GDMT
vào chương trình đào tạo. Đến năm 1985, cuốn “Quán triệt tinh than giáo dục kỹ
thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dân số và bảo vệ môi trường” của nhà xuất bản
10
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Giáo dục và cuốn “Giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường phổ thông”
của PGS. Nguyễn Dược in vào năm 1986 cho thấy rõ sự nhận thức về GDMT ở
nước ta. Hiện nay, các hoạt động GDMT được tiến hành một cách mạnh mẽ.
Ngoài việc GDMT cho quần chúng nhân dân thông qua phương tiện truyền
thông đại chúng rất đa dạng và phong phú ( chương trình “Dân số và Môi
trương”, “Môi trường và Đời sống”. Các phong trào “Sạch và Xanh” của các
thành phố lớn, các trường đại học đã đóng góp đáng kể vào công tác GDMT)
trong nhiều trường đại học đã có các môn học về môi trường. Từ năm học 1995
– 1996 trở đi, tất cả trường đại học khoa học tự nhiên (Hà Nội), năm học 1993 –
1994 khoa “Môi trường học” được thành lập và triển khai đào tạo các cán bộ về
khoa học môi trương. Tp. Hồ Chí Minh, khoa môi trường cũng được thành lập
ở trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Đại học Kỹ thuật Công nghệ vào năm
1999.
Song song với việc giảng dạy trong nhà trường, nhiều đề tài nghiên cứu
khoa học về GDMT cấp nhà nước và cán bộ quản lý, nhiều đề tài luận án phó
tiến só và thạc só đã và đang được thục hiện, có tác dụng mở rộng nôi dung và
nâng cao hiệu quả của việc GDMT.
Đúng ra, hành động có ýu nghóa biểu trung lớn nhất ở nước ta về GDMT là
ngay từ năm 1962, Bác Hồ đã khai sinh ra “Tết trồng cây” và cho đến nay,
phong trào này phát triển ngày càng mạnh mẽ. Năm 1991, Bộ Giáo dục – Đào
tạo đã có chương trình trồng cây hỗ trợ phát triển giáo dục và đào tạo BVMT
(1991 – 1995).
Từ năm 1986 trở đi, cùng với các đề tài nghiên cứu về BVMT đã xuất hiện
(Hoàng Đức Nhuận 1982, Nguyễn Dược 1982; 1986, Trònh Ngọc Bích 1982,…).
Thông qua việc thay đổi sách giáo khoa (Cải cách giáo dục) (1986 – 1992)
các tài liệu chuyên ban và thí điểm, tác giả sách giáo khoa đã chú trọng đến
11
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
việc GDMT vào sách, đặt biệt là ở môn Sinh, Đòa, Hoá, Kỹ thuật. Đợt thay sách
bắt đầu từ năm 2002 đã tích hợp kiến thức môi trường vào tất cả các môn học.
Trong “Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển
bền vững của Việt Nam gia đoạn 1996 – 2000” GDMT được ghi nhận như bộ
phận cấu thành
Từ năm 1996, Dự án GDMT trong nhà trường phổ thông Việt Nam
(VIE 95/041) của Bộ Giáo dục và Đào tạo do UNDP (Chương trình phát triển
Liên Hiệp Quốc) tài trợ đã nhằm vào mục tiêu cơ bản:
Hỗ trợ xây dựng một bản chính sách và chiến lược thực hiện quốc
gia về GDMT tại Việt Nam.
Tăng cường năng lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc truyền
đạt những nội dung và phương pháp GDMT vào các chương trình đào tạo giáo
viên.
Xây dựng các hoạt động GDMT cụ thể để thực hiện ở cấp Tiểu học
và Trung học.
Các mục tiêu trên được thực hiện ở mức chi tiết và cụ thể hơn trong thực tiễn
thông qua dự án VIE 98/018.
các trường đại học, GDMT đã được coi như một nội dung quan trọng
trong các giáo trình “Con người và Môi trường” “Dân số, Tài nguyên, Môi
trường”. Môi trường đã được học thành một môn học các khoa Sinh, Đòa ở các
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Huế, Tp. HCM.
Ngày 17 tháng 10 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã có Quyết đònh số
1363/QĐ– TTG về việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung BVMT vào hệ thống
giáo dục quốc dân”
2.1.4. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục –
Đào tạo về BVMT và GDMT
12
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
2.1.4.1. NGHỊ QUYẾT 41 – NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ NGÀY 15/11/2004
VỀ “BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
a. Một số nội dung quan trọng của Nghò quyết NQ/TW
Nghò quyết đã nêu ra 5 quan điểm
1. BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố đảm
bảo sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng
vào việc phát triển Kinh tế – Xã hội, ổn đònh chính tri, an ninh quốc gia và
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
2. BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của PTBV,
phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát
triển Kinh tế – Xã hội của từng ngành và từng đòa phương. Khắc phục tư
tưởng chỉ chú trọng phát triển Kinh tế – Xã hội mà coi nhẹ BVMT. Đầu tư
cho BVMT là đầu tư cho PTBV.
3. BVMT là quyền lợi và nghóa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi
người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng
của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài
hoà với tự nhiên của ông cha ta.
4. BVMT phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối
với môi trường là chính, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải
thiện môi trường và Bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà
nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác
quốc tế; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống.
5. BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên
vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ
Đảng; sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
b. Bảy nhóm giải pháp
13
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
“Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm
BVMT”. Đây là nội dung rất quan trọng, tăng cường đa dạng hoá các hình thức
tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật và các thông tin về môi
trường và PTBV cho mọi người, đặt biệt là trong thanh niên, thiếu niên; nhất là:
Đưa nội dung GDMT vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục
quốc dân, tăng cường thời lượng và tiến tới hình thành môn học chính khoá đối với
các cấp học phổ thông.
“Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BVMT” trong đó chú ý đến việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra , giám sát, sớm xây dựng, ban hành quy đònh giải quyết bồi thường thiệt hại về
môi trường.
“Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động BVMT” trong đó chú trọng tạo cơ sở pháp lý
và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công
tác BVMT, xây dựng và thục hiện các quy ước, hương ước, cam kết về BVMT
của cộng động dân cư.
“Áp dụngcác biện pháp kinh tế tromng BVMT; tạo sự chuyển biến cơ bản trong
đầu tư BVMT”. ngân sách Nhà nước sẽ có mục chi riêng cho sự nghiệp môi
trường và tăng dần mức đầu tư hàng năm để đến năm 2006 đạt ít nhất 1% tổng
chi ngân sách Nhà nước. Ngoài đầu tư của Nhà nước, sẽ có chính sách khuyến
khích các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đầu tư BVMT.
Nhóm giải pháp thứ sáu và thứ bảy là”Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng
dụng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực về môi trường, mở rộng hợp tác quốc
tế về môi trường”
2.1.4.2. Quyết đònh của Thủ tướng Chính phủ số 1363/QĐ – TTG ngày
17/10/2001 về việc phê duyệt dự án “Đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục
quốc dân”
a. Mục tiêu của đề án
14
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Giáo dục Học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo
trong hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, có kiến thức về môi trường để tự giác thực
hiện BVMT.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, giáo viên, cán bộ nghiên cứu
khoa học – công nghệ và cán bộ quản lý về BVMT.
b. Nội dung, phương thức giáo dục bảo vệ môi trường.
Nội dung, phương thức giáo dục BVMT
Nội dung giáo dục BVMT phải đảm bảo tính giáo dục toàn diện:
Đối với giáo dục mầm non: cung cấp cho trẻ em hiểu biết ban
đầu về môi trường sống của bản thân nói riêng và của con người nói
chung, biết cách sống tích cực với môi trường, nhằm đảm bảo sự phát triển
lành mạnh của cơ thể và trí tuệ.
Đối với giáo dục tiểu học: trang bò kiến thức cơ bản phù hợp với
độ tuổi và tâm lý của học sinh về các yếu tố của môi trường, vai trò của
môi trường đối với con ngườivà tác động của con người đối với môi trường;
giáo dục học sinh có ý thức BVMT; phát triển kỹ năng bảo vệ và giữ gìn
môi trường.
Đối với giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông: trang bò
những kiến thức về sinh thái học, mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên; trang bò kỹ năng bảo vệ và giữ gìn môi trường, biết ứng xử tích cực
với môi trường sống xung quanh. Việc GDMT chủ yếu đựơc thục hiện theo
phương thức khai thác triệt để tri thức về môi trường hiện có ở các môn
học trong nhà trường. Nội dung giáo dục BVMT còn được thực hiện ngoài
nhà trường dứơi nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao nhận thức và
trách nhiệm BVMT cho cộng đồng.
15
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Nội dung, phương thức đào tạo cán bộ BVMT
Nội dung chính của đào tạo cán bộ về BVMT bao gồm: những
kiến thức cơ bản liên quan đến môi trường, kỹ năng nắm bắt các vấn đề
môi trường, kỹ năng dự báo, phòng ngừa và giải quyết những sự cố môi
trường và những nội dung cần thiết về pháp luật BVMT.
Việc đưa các nôi dung trên vào chương trình đào tạo cán bộ
BVMT phải căn cứ đặt điểm ngành, nghề, trình độ đào tạo để thiết kế
chương trình và môn học. Đối với một số ngành đào tạo, có thể biên soạn
nội dung về BVMT thành các môn học riêng
c. Các hoạt động thực hiện đề án
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thục
hiện các dự án thành phần như sau:
Xây dựng chương trình, giáo trình, bài giảng về giáo dục BVMT
cho các bậc học, cấp học và trình độ đào tạo.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về BVMT.
Tổ chức chỉ đạo việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và quản lý
về lónh vực môi trường để đảm bảo nguồn nhân lực cho việc nghiên cứu,
quản lý và thực hiện công nghệ BVMT, PTBV đất nước.
Tăng cường cơ sở vật chất cho việc giảng dạy, học tập, nghiên
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ về môi trường trong các trường
học
Thông tin giáo dục BVMT trong nước, khu vực và trên thế giới.
16
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Để thực thi Nghò quyết của Chính phủ, ngày 31/01/2005, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chỉ thò số 02/2005/CT –
BGD&ĐT về việc tăng cường công tác giáo dục BVMT. Trong Chỉ thò Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các cấp quản lý giáo dục, các cơ
sở giáo dục cần tập trung chỉ đạo và thực hiện tốt 4 nội dung cơ bản của chỉ
thò.
2.2. Giáo dục môi trường
Giáo dục BVMT là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính
quy và không chính quy, giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường làm cho
con người có sự hiểu biết về môi trường, kỹ năng và giá trò về nhân cách trong
ứng xử với môi trường, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội
bền vững về sinh thái. Để việc đưa giáo dục BVMT vào nhà trường đạt kết quả
mong muốn, quá trình triển khai sẽ thực hiện theo đường hướng được xác đònh và
phải đảm bảo nguyên tắc, mục tiêu, nội dung với những phương pháp thích hợp.
2.2.1. Đònh nghóa về GDMT
GDMT là khoa học giáo dục nhận thức của con người về môi trường sống,
về các mối quan hệ giữa môi trường và con người cùng các hoạt động kinh tế, xã
hội của con người, nhằm tạo cho con người có tình cảm, thái độ và cách ứng xử
đúng đắn trong công tác BVMT và PTBV.
Có nhiều đònh nghóa về GDMT. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của việc
GDMT thông qua các mơn học ở nhà trường, có thể hiểu GDMT là một quá trình
tạo dựng cho con người những nhận thức và mối quan tâm về môi trường và các
vấn đề môi trường. GDMT gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện kỹ năng,
hình thành thái độ và lòng nhiệt tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối
hợp nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề môi trường và ngăn chặn những vấn
đề mới có thể xảy ra trong tương lai.
17
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
2.2.2. Tầm quan trọng của giáo dục BVMT.
Con người là một thành phần của môi trường và là chủ thể BVMT. Ý thức,
thái độ, hành vi ứng xử với môi trường là một trong các yếu tố nhân cách của
người lao động. Chức năng chủ tổng quát nhất và cao quý nhất của giáo dục là
“trồng người”, rèn luyện phát triển nhân cách người lao động. Thật vậy, giáo
dục, đặc biệt là giáo dục có hệ thống trong nhà trường đóng vai trò quyết đònh
đối với việc hình thành tư cách công dân, cách ứng xử đối với xã hội, đối với
môi trường của mỗi cá nhân. Một khi con người có những hiểu biết về mối quan
hệ nhân quả giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội, giữa môi trường với
sự tồn tại của xã hội, giữa môi trường với chính cuộc sống của mình thỉ trong
mọi hành động thì họ sẽ nâng niu và ứng xử thân thiện với môi trường vì mục
tiêu PTBV. Mọi thành viên trong cộng đồng xã hội đều có quan hệ với nhau và
quan hệ trực tiếp tới môi trường. Tất cả đều có trách nhiệm trước môi trường.
Tuy nhiên, chỉ có giáo dục, với hệ thống nhà trường của tất cả các cấp học, bậc
học, với thiết chế chặt chẽ mới có thể tác động một cách rộng rãi lên các thành
viên của xã hội. Chính vì vậy, giáo dục là một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất, kinh tế nhất và có tính bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục
tiêu BVMT và PTBV đất nước.
Việt Nam với gần 23 triệu hoc sinh, sinh viên các cấp và gần 1 triệu giáo
viên, cán bộ giảng dạy và quản lý nên việc trang bò các kiến thức về môi
trường, kỹ năng BVMT cho số đối tượng này là một cách nhanh nhất làm cho
1/3 dân số của đất nước hiểu biết về môi trường. Họ cũng chính là lực lượng
xung kích, hùng hậu nhất để tuyên truyền và cộng đồng dân cư của khắp các đòa
phương trong cả nước về môi trường và BVMT. Hơn nữa, với gần 38.000 trường
học và các cơ sở giáo dục, đào tạo, những trung tâm văn hoá của đòa phương, là
nơi có điều kiện để thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nứơc
về BVMT và PTBV.
18
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Đích quan trọng của giáo dục BVMT không chỉ làm cho mọi người hiểu rõ
sự can thiết phải BVMT mà quam trọng là phải có thói quen, hành vi ứng xử
thân thiện, văn minh, lòch sự với môi trường. Điều này phải trong một quá trình
lâu dài và phải bắt đầu ngay từ tuổi thơ ấu, từ gia đình tới nhà trường, từ trường
mầm non cho đến những năm học ở nhà trường phổ thông, các học sinh luôn
được tiếp xúc với thiên nhiên sinh động, tươi đẹp,… Việc hình thành tình yêu
thiên nhiên, sống thân thiện hoà đồng với thiên nhiên, quan tâm đến thế giới
xung quanh, có thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh của học sinh một mặt phù
thuộc vào tố chất của từng em, mặt khác – hết sức quan trọng và mang tính chất
quyết đònh – lại phụ thuộc vào nội dung và cách thức giáo dục của chúng ta, bởi
giáo dục có vai trò quyết đònh đến việc hình thành nhân cách và năng lực của
người học. Giáo dục BVMT phải được đưa vào nhà trường phổ thông nhằm
trang bò những kiến thức cơ bản về môi trường và BVMT, bồi dưỡng tình yêu
thiên nhiên, bồi dưỡng những xúc cảm, xây doing cái thiện trong mỗi con người,
hình thành thói quen, kỹ năng sống BVMT.
Các thầy cô giáo cần nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục
BVMT cho học sinh, có trách nhiệm triển khai giáo dục BVMT phù hợp với
điều kiện của nhà trường và đòa phương. Để đảm bảo hiệu quả giáo dục BVMT,
những người làm công tác giáo dục cần phải hiểu những điều cơ bản của giáo
dục BVMT, đồng thời cần có kỹ năng thực hiện giáo dục BVMT.
2.2.3. Đònh hướng giáo dục BVMT trong nhà trường
Giáo dục BVMT cần nhìn nhận môi trường trong tính toàn bộ của nó, nghóa
là trong môi trường cần phải xem xét tất cả các mặt tự nhiên, sinh thái, chính trò,
kỹ thuật và xã hội, cần khám phá môi trường cả ở khía cạnh chất lượng vật chất
của mối quan hệ con người và môi trường lẫn khía cạnh tinh thần của mối quan
hệ này. Tuy nhiên, để xác đònh phạm đònh vi và đối tượng giáo dục nhằm tăng
hiệu quả của giáo dục BVMT trong nhà trường Việt Nam, cần thiết phải tập
19
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
trung hơn vào nội dung giáo dục BVMT tự nhiên và mối quan hệ tương hổ của
nó với các hoạt động của con người.
Giáo dục BVMT là một lónh vực giáo dục liên ngành, vì nội dung giáo dục
có thể tìm thấy trong nhiều môn học và hoạt động. Trong các chương trình giáo
dục của nhà trường Việt Nam hiện nay, giáo dục BVMT hiện nay chưa phải là
một môn học riêng mà được triển khai bằng phương thức tích hợp vào các môn
học và theo tinh thần xuyên bộ môn. Điều đó có nghóa là không thể thực hiện
giáo dục BVMT chỉ qua một môn học hoặc một hoạt động mà cần có sự liên
kết giữa chúng trong quá trình giáo dục mới có thể đảm bảo thực hiện được mục
tiêu giáo dục BVMT.
Giáo dục BVMT cần phải chú ý khai thác tình hình thực tế môi trường gần
gũi với học sinh, từ khuôn viên của nhà trường đến môi trường của đòa phương,
khu vực, đất nước,… coi đó là chất liệu để giáo dục, là môi trường để giáo dục
và là mục đích cụ thể giáo dục BVMT, theo phương châm “Suy nghó toàn cầu,
hành động đòa phương”. Giáo dục BVMT quan tâm đến cả môi trường toàn cầu
và môi trường đòa phương. Một mặt giúp cho học sinh có cái nhìn toàn cầu đối
với các vấn đề môi trường, mặt khác coi trọng giáo dục BVMT ở đòa phương.
Đích cụ thể mà giáo dục BVMT cần đạt tới là sự quan tâm đến môi trường đòa
phương, lời cam kết và những hành động dù nhỏ nhưng thiết thực, góp phần cải
thiện môi trường đòa phương, tạo thói quen ứng xử đúng đắn với môi trường.
Phương thức tiếp cận cơ bản của GDMT là: Giá dục về môi trường, trong
môi trường và vì môi trường, đặt biệt là giáo dục vì môi trường, coi đó là thước
đo cơ bản hiệu quả của giáo dục BVMT.
Giáo dục về môi trường: Trang bò các kiến thức về môi trường, các thành
phần môi trường và mối quan hệ giữa chúng với nhau, cung cấp những hiểu biết
về hệ thống tự nhiên và hoạt động của nó, những hiểu biết về tác động của con
người tới môi trường.
20
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Giáo dục trong môi trường: Xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân tạo như
một đòa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với cách tiếp
cận này, môi trường sẽ trở thành “Phòng thí nghiệm thực tế” đa dạng, sinh động
cho người dạy và người học, học sinh hứng thú, hiệu quả học tập sẽ cao hơn.
Giáo dục vì môi trường: Trên cơ sở các tri thức được trang bò đi tới xây
dựng ý thức quan tâm và trách nhiệm, hình thành các quan niệm giá trò nhân
cách, đạo đức đúng đắn, thái độ ứng xử tích cực, xây dựng động cơ và kỹ năng
tham gia cải thiện môi trường.
2.2.4. Nguyên tắc giáo dục BVMT trong nhà trường
Đảm bảo mục tiêu giáo dục BVMT phải phù hợp với mục tiêu đào tạo của
cấp học, bậc học, góp phần thục hiện mục tiêu đào tạo của giáo dục nói chung.
Phải hướng việc giáo dục BVMT tới việc cung cấp cho học sinh những
kiến thức về môi trường và kỹ năng BVMT phù hợp với tâm, sinh lý từng lứa
tuổi.
Nội dung giáo dục BVMT phải chú trọng các vấn đề thực hành, trên cơ sở
đó hình thành các kỹ năng, phương pháp hành động cụ thể để học sinh có thể
tham gia có hiệu quả vào các hoạt động BVMT của đòa phương, của đất nước
phù hợp với lứa tuổi.
Phương pháp giáo dục BVMT nhằm tạo điều kiện cho người học chủ động
tham gia vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh phát hiện các vấn đề môi
trường và tìm ra hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo
viên.
Tận dụng các cơ hội để giáo dục BVMT nhưng phải đảm bảo kiến thức cơ
bản của môn học, tính logic của nội dung và không làm quá tải kiến thức và
tăng thời gian của bài học.
2.2.5. Yêu cầu của GDMT
Kết hợp trang bò tri thức với giáo dục đạo đức môi trường.
21
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Đặt GDMT trong mối quan hệ đa ngành, giải quyết vấn đề dưới sự kết hợp
đa lónh vực.
Hình thức giáo dục phải đa dạng, phong phú, kết hợp chặt chẽ giữa lý
thuyết và minh họa thực tế, mô hình, hình thức phù hợp lứa tuổi, nhận thức, kết
hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Đảm bảo giáo dục ứng xử môi trường theo quy đònh của pháp luật và các
công ước quốc tế về BVMT.
Đảm bảo kết hợp các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trò trong GDMT, xem
môi trường như một tổng thể tự nhiên và có một mối quan hệ chặt chẽ với các
yếu tố kinh tế và xã hội. Đặt sự phát triển của cà nhân và cộng đồng trong môi
trường tự nhiên trong lành.
Xem xét các vấn đề môi trường theo nhiều phạm vi: đòa phương, quốc gia
và toàn cầu.
Chú trọng vào môi trường hiện hữu cũng như những thay đổi trong tương
lai.
Động viên sự kết hợp hành động BVMT đòa phương và sau đó là những đóng
góp giải quyết các vấn đề môi trường ở tầm quốc gia và toàn cầu.
Chú ý khía cạnh môi trường trong giáo dục phát triển.
2.2.6. Mục tiêu giáo dục BVMT trong nhà trường
Hội nghò quốc tế về giáo dục BVMT của Liên hợp quốc tổ chức tại Tbilisi
năm 1977 xác đònh mục tiêu của GDMT như sau: “Làm cho các cá nhân và các
cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và môi trường
nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế
và văn hóa, đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về giá trò, thái độ và kỹ năng
thực hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng
ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất lượng môi trường”
22
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Từ tuyên ngôn ban đầu đó, mục tiêu của GDMT đã được cụ thể hóa và
khiển khai ở các quốc gia và trong tất cả các cấp học, bậc học. Nhìn chung,
GDMT nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng của mỗi cá nhân, cộng đồng
vào giữ gìn, bảo tồn, sử dụng môi trường, đảm bảo môi trường bền vững cho cả
thế hệ hiện tại và tương lai. Nó cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng
những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm họa môi
trường, xóa đói nghèo, tận dụng các cơ hội và đưa ra những quyết đònh khôn
khéo trong việc sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, nó bao hàm cả việc đạt được
những kỹ năng, có động lực và cam kết hành động dù với tư cách cá nhân hay
tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường hiện nay và phòng ngừa những
vấn đề mới nảy sinh. Việt Nam, giáo dục BVMT trong các nhà trường cần
đem lại cho người học các nội dung:
Có kiến thức, hiểu biết về môi trường: Các thành phần của môi trường, tính
phức tạp và mối quan hệ nhiều chiều giữa các thành phần của môi trường, tính
hạn chế của TNTN, khả năng chòu tải của môi trường, quan hệ chặt chẽ giữa
môi trường với sự phát triển của kinh tế – xã hội trong phạm vi đòa phương, quốc
gia, khu vực và trên toàn cầu.
Xây dựng thái độ: Nhận thức được ý nghóa, tầm quan trọng của các vấn đề
môi trường như nguồn lực để sống, lao động, phát triển cá nhân, cộng đồng, xã
hội. Từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, có
trách nhiệm đối với môi trường, có quan niệm đúng về các giá trò nhân cách đối
với môi trường, để dần có được các kỹ năng ứng xử thân thiện với môi trường,
tham gia BVMT, hình thành đạo đức môi trường.
Trên nền tảng của tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động BVMT, người
học tự nâng cao khả năng lựa chọn cách sống phù hợp với việc sử dụng hợp lý
và khôn ngoan các nguồn TNTN, góp phần tham gia hiệu quả vào việc phòng
23
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường tại nơi ở và nơi làm việc của mỗi cá
nhân.
Hình thành và phát triển năng lực phân tích đánh giá những vấn đề có liên
quan đến môi trường và khả năng giải quyết các vấn đề môi trường ở phạm vi
cá nhân, đòa phương và cộng đồng.
Giáo dục BVMT được đưa vào toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. mỗi
cấp, bậc học, tùy theo khả năng tiếp nhận tri thức và thực hiện các hành vi
BVMT của học sinh mà lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho phù
hợp.
Mục tiêu giáo dục BVMT ở cấp trường THCS
Về kiến thức:
Học sinh có hiểu biết về:
Khái niệm môi trường, hệ sinh thái, các thành phần môi trường và mối quan
hệ giữa chúng
Con người – dân số – môi trường: Biết đựơc vai trò của môi trường đối với
con người và tác động của con người đối với môi trường, việc khai thác, sử dụng,
tái tạo nguồn tài nguyên và PTBV, sự ô nhiễm và suy thoái môi trường (hiện
trạng, nguyên nhân hậu quả). Giải thích được những hiện tượng bất thường của
môi trường xảy ra trong tự nhiên.
Hiểu biết về pháp luật và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
BVMT, về các biện pháp BVMT (môi trường đòa phưong, quốc gia, khu vực,
toàn cầu).
Về thái độ, tình cảm
Có tình cảm yêu quý, tôn trọng thiên nhiên.
Có tình yêu quê hương, đất nước, tôn trọng di sản văn hoá.
Có thái độ thân thiện với môi trường và ý thức được các hành động trước vấn
đề môi trường nảy sinh.
24
Khảo sát nhận thức và hoạt động giáo dục môi trường GVHD: TS. Trương Thanh
Cảnh
cho học sinh ở các trường Phổ thông cơ sở SVTH: Đặng Thò Minh Sỷ
Có ý thức:
+ Quan tâm thường xuyên đến môi trường sống của cá nhân, gia đình, cộng
đồng.
Bảo vệ ĐDSH, bảo vệ rừng, đất đai, nguồn nước và không khí.
+ Giữ gìn vệ sinh, an toàn thực phẩm, an toàn lao động.
+ ng hộ, chủ động tham gia các hoạt động BVMT, phê phán hành vi gây
hại cho môi trường.
Về kỹ năng, hành vi:
Có kỹ năng phát hiện vấn đề môi trường và ứng xử tích cực với các vấn đề
môi trường nảy sinh.
Có hành động cụ thề BVMT.
Tuyên truyền, vận động BVMT trong gia đình, nhà trường và xã hội.
2.2.7. Nội dung giáo dục BVMT trong nhà trường
Môi trường là sự tổng hợp nhiều thành phần: thiên nhiên, dân số, kinh tế –
xã hội, văn hóa,… Trong nhà trường, chúng ta quan tâm chủ yếu đến môi trường
tự nhiên và tác động qua lại, chặt chẽ của nó với các hoạt động của con người.
Việc giáo dục về môi trường, trong môi trường phải nhằm tới giáo dục vì môi
trường. Vì vậy, nhà trường phải cung cấp đầy đủ những kiến thức về môi trường
cho học sinh. Song đo mới chỉ là một mặt của mục tiêu giáo dục BVMT. Điều
cần đạt là học sinh, từ sự hiểu biết đó, tùy theo độ tuổi và mức độ tham gia vào
các hoạt động tác động đến môi trường, cần có thái độ ứng xử thân thiện với môi
trường, có kỹ năng thực hành, phương pháp hành động độc lập, khả năng ra quyết
đònh phù hợp, ứng xử có hiệu quả vấn đề môi trường. Qua đó hình thành và phát
triển giá trò nhân cách, đạo đức trong thái độ ứng xử và hành động trước vấn đề
môi trường. Trong quá trình học tập, học sinh có thêm những hiểu biết về vấn đề
môi trường và PTBV ở đòa phương, quốc gia, khu vực, quốc tế và tiến dần tới khả
năng xem xét vấn đề môi trường hiện tại và tương lai, đònh hướng hành động của
25