Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.68 KB, 20 trang )

I.Lời mở đầu:
Gia đình là tế bào của xã hội thể hiện tính chất và kết cấu của xã
hội.Trong gia đình mỗi người vừa là thành viên của gia đình vừa là thành
viên của xã hội.Để gia đình tồn tại và phát triển cần phải có các điều kiện vật
chất cơ sở kinh tế của gia đình để gia đình tồn tại.Do vậy chế độ tài sản vợ
chồng luôn được các nhà làm luật quan tâm như là một chế định cơ bản quan
trọng nhất của luật hôn nhân gia đình.Xây dựng các điều luật tốt,phù hợp với
thực tế thì xã hội mới phát triển và giảm thiểu tiêu cực.Xây dựng chế độ tài
sản trong luật hôn nhân gia đình đúng đắn là động lực đảm bảo sự ổn định
của chế độ hôn nhân,các quan hệ hôn nhân.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu chế độ cộng đồng tài sản
theo luật định áp dụng cho các cặp vợ chồng gọi là chế độ cộng đồng tạo
sản.Chế độ này được nhiều nước trên thế giới áp dụng vì ưu điểm phù hợp
với điều kiện kinh tế thị trường,tạo điều kiện linh hoạt khi thực hiện quyền
sở hữu chung và tính độc lập khi định đoạt tài sản riêng.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 theo đó đã phát huy nhiều yếu tố tích
cực trong việc ổn định các quan hệ hôn nhân trong xã hội,đặc biệt là việc
quy định về chế độ tài sản vợ chồng đã góp phần ổn định và giải quyết tốt
các vấn đề tài sản phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân.Nhưng chế độ tài sản vợ
chồng trong luật HN&GD hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc bất cập cần
giải quyết và đưa ra hướng hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc
trong việc áp dụng luật vào thực tế.Sau đây em xin trình bày một số vấn đề
còn vướng mắc bất cập về quy định chế độ tài sản vợ chồng theo luật
HN&GD và hướng hoàn thiện.
II.Một số khái niệm chung :
1.Quan hệ tài sản vợ chồng:
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một loại quan hệ đặc biệt ràng buộc hai
người, vốn đã gắn bó với nhau do hiệu lực của hôn nhân, nghĩa là có đăng
ký kết hôn, liên quan đến tài sản, nói chung là đến các lợi ích vật chất có giá
trị tiền tệ.
Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, sự tồn tại của quan hệ tài


sản giữa vợ và chồng lệ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân. Quan hệ
tài sản của vợ chồng không tồn tại giữa hai người chung sống với nhau như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
2
. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng bị thủ
tiêu, trong trường hợp hai người chung sống với nhau có đăng ký kết hôn,
nhưng sau đó hôn nhân bị hủy theo một bản án hoặc quyết định của Toà án.
Quan hệ tài sản giữa vợ chồng chấm dứt, trong trường hợp hai người chung
sống với nhau có đăng ký kết hôn, nhưng sau đó hôn nhân chấm dứt do ly
hôn hoặc do có một người chết.
1
2.Chế độ tài sản vợ chồng:
Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản án sự chung
sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống
chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những
nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ
biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân
và gia đình, trong một quy chế được gọi là «Chế độ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản vợ chồng là một trong những chế định cơ bản và quan
trọng nhất của pháp luật hôn nhân và gia đình.Đó là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về sở hữu tài sản của vợ chồng,bao gồm quy định các
căn cứ xác lập tài sản,quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung,tài sản riêng,các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng
theo luật định.
III.Một số vấn đề lí luận về chế độ tài sản vợ chồng:
1.Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ
chồng.Theo đó việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào
nguồn gốc phát sinh tài sản.Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm
những tài sản sau:

+Tài sản do vợ chồng tạo ra,thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh
doanh trong thời kì hôn nhân
+Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: có thể là
tiền lương,tiền thưởng,tiền trợ cấp,tiền trúng sổ số mà vợ chồng có được
hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của bộ
luật dân sự năm 2005:Từ điều 239 đến 244.
+Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên
+Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung hoặc được thừa kế chung.
+Tài sản mà vợ chồng có trước thời kỳ hôn nhân hơac được tặng cho
riêng,thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ chông đã thỏa thuận
xác nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản
chung.
+ Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng.Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi
kết hôn được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi có thỏa
thuận.
+ Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu vợ chồng là sở hữu chung
hợp nhất,do vậy không thể xác định phần quyền sở hữu của chủ sở hữu
không được xác định đối với tài sản chung.Tài sản chung của vợ chồng
2
không nhất thiết phải do công sức của cả hai vợ chồng trục tiếp tạo ra,có thể
chỉ do vợ hoặc chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân.
+Đối với những tài sản mà phải đăng kí quyền sở hữu như nhà ở,quyền
sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn khác phải ghi tên cả hai vợ
chồng.Đây chính là căn cứ pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng khi
có tranh chấp.
2 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
Đối với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì về nguyên tắc vợ,
chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung.(Khoản 2 điều 219 Bộ luật Dân sự 2005 và khoản 1 điều

28 luật HNGD 2000).
+ Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý và sử
dụng tài sản chung có nghĩa là việc sử dụng tài sản chung đương nhiên được
coi là có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng.
+Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong
việc xác lập giao dich dân sự có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn
hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư
kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã
được chia để đầu tư kinh doanh riêng.(Điều 28 luật hôn nhân và gia đình).
+Đối với giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn
hoặc dùng để phuc vụ nhu cầu thiết yếu hằng ngày cho gia đình thì chỉ cần
do một bên vợ hoặc chồng thực hiện hoặc đương nhiên coi là có sự đồng ý
của bên kia.Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu
của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.Trong trường
hợpvì lý do nào đó mà chỉ một bên vợ chồng thực hiện giao dịch dân sự có
liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu hằng ngày thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới.(Điều 25 Luật
hôn nhân gia đình năm 2000)
3.Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng theo luật định:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định các trường hợp chia tài sản
vợ chồng bao gồm:Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết,và chia tài
sản chung vợ chồng khi vợ chồng li hôn.
3.1Chia taì sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân:
Khoản 1 điều 29 quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ
chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý
do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc
chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có
quyền yêu cầu Toà án giải quyết”
Theo quy định trên thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn
tại được tiến hành trong các trường hợp:

3
- Thứ nhất: vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng:xuất phát từ việc tôn trọng
quyền tự do kinh doanh của cá nhân,nếu một trong hai vợ chồng muốn
đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng,tạo
điều kiện cho vợ chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh.
- Thứ hai:Trường hợp vợ chồng phải thực hiên nghĩa vụ dân sự riêng mà
họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để để thực hiện
nghĩa vụ thì họ có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực
hiện nghĩa vụ của mình.
- Trường hợp có lý do chính đáng khác:việc xác định có lý do chính đáng
để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ
lợi ích của gia đình,lợi ích vợ chồng hoặc của người thứ ba.Vì vậy lý do
chính đáng đê chia tài sản chung vợ chồng tùy từng trường hợp khác
nhau.
- Việc chia tài sản sản chung vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ về tài sản không được chấp nhận.
3.2 Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết:
Điều 31 luật HN&GD quy định quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng
+ Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật
về thừa kế.
+Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn
sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ
định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thoả thuận cử
người khác quản lý di sản.
+ Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia
đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà
những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời
hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết
hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án

cho chia di sản thừa kế.
3.3 Chia tài sản vợ chồng khi vợ chồng li hôn:
Theo điều 95 Luật HN&GD 2000 thì:
+Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận
được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc
quyền sở hữu của bên đó.
+Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
4
-Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét
hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên
vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong
gia đình được coi như lao động có thu nhập;
-Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình;
-Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
-Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên
nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được
hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
+Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng
thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
+Ngoài ra luật hôn nhân gia đình còn dự liệu các trường hợp như: Chia
tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, Chia
quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn, Chia nhà ở thuộc sở hữu chung
của vợ chồng.
4.Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng:
Luật hôn nhân gia đình khẳng định vợ chồng có quyền có tài sản riêng và
xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng.Đó là những tài sản mà vợ
chồng có được từ trước khi kết hôn được tặng cho riêng hoặc được thừa kế

riêng.Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản vào khối tài sản
chung.
III.Những vướng mắc bất cập về chế độ tài sản vợ chồng theo
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và hướng hoàn thiện:
Mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng Luât Hôn nhân và
Gia đinh Việt Nam cho đến nay, vẫn còn nhiều vướng mắc được đặt ra,gây
khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp tài sản trong các vụ án li
hôn,hay áp dụng luật vào thực tế của các cơ quan có thẩm quyền.Vấn đề chế
độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân gia đình cũng là một vấn đề gây
nhiều tranh cãi.
1.Về quy định tài sản riêng của vợ chồng:
-Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung và tài sản riêng của
vợ chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 1,quy đinh tài
sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài
5
sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30
của Luật này.
Theo một số nhà nghiên cứu một khi đã có định nghĩa tài sản chung, chỉ
cần nói rằng những tài sản nào không được luật coi là tài sản chung, thì là tài
sản riêng của vợ hoặc chồng. Thế nhưng, ngoài việc thừa nhận những tài sản
riêng do tính chất, luật viết lại xây dựng định nghĩa tài sản riêng bên cạnh
định nghĩa tài sản chung. Cuối cùng, có những tài sản không được ghi nhận
tại bất kỳ định nghĩa nào và cũng không hẳn có tính chất riêng, do đó, không
thể được biết thuộc về cả vợ và chồng hay chỉ thuộc về riêng một người.
- Luật HN&GD quy định tài sản riêng của vợ chồng gồm đồ dùng tư trang
cá nhân.Tuy nhiên kể từ ngày luật HN&GD 2000 ra đời chưa có văn bản nào
hướng dẫn cụ thể về việc xác định thế nào là đồ dùng tư trang cá nhân.
Có trường hợp đồ dùng tư trang cá nhân cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt vợ
chồng có giá trị nhỏ so với khối tài sản chung,nhưng có những đồ dùng tư

trang cá nhân lại được mua bằng tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn so
với tài sản chung của vợ chồng như nhẫn kim cương,máy tính xách
tay...trong khi đó thu nhập của vợ chồng lại rất thấp.
Luật nên quy định cụ thể nguồn gốc đồ dùng tư trang cá nhân gồm những
gì thuộc tài sản riêng vợ chồng.Mặt khác khi có tranh chấp về loại tài sản
này theo từng trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng tư trang cá nhân có
nguồn gốc giá trị như thế nào so với khối tài sản chung vợ chồng,mức thu
nhập thực tế của vợ chồng để xác định chính xác và hơp lý tài sản riêng vợ
chồng.
-Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 dự liệu vấn đề về tài sản riêng vợ
chồng tại các điều 32,33.Theo nguyên tắc thì tài sản riêng của bên nào vẫn
thuộc quyền sở hữu của bên đó nhưng từ những vướng mắc trong thực tế
giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng để đảm bảo tính thống
nhất áp dụng,luật hôn nhân gia đình năm 2000 cần dự liệu những vấn đề sau:
+Đối với những căn cứ xác lập tài sản riêng của vọ chồng còn bao gồm
những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản riêng của một bên,trừ
trường hợp sự thỏa thuận đó có căn cứ rõ ràng là nhằm tẩu tán tài sản trốn
tránh nghĩa vụ của vợ chồng với người khác.
6
+Đối với tài sản mà vợ chồng được hưởng do cùng hàng thừa kế theo pháp
luật về nguyên tắc thuộc tài sản riêng của vợ chồng chỉ là tài sản chung khi
có thỏa thuận.
- Hoa lợi,lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng :
Hiện nay có quan điểm khác nhau trong việc xác định các hoa lợi lợi tức
thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản
chung hay tài sản riêng của vợ chồng?
Quan điểm xét dưới góc độ thuần túy của pháp luật dân sự thì cho rằng chỉ
chủ sở hữu tài sản mới có quyền thu hoa lợi lợi tức từ tài sản riêng đó.Vì
vậy phải coi hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời
kì hôn nhân là tài sản riêng của vợ chồng.

Tuy nhiên trong lĩnh vực hôn nhân gia đình do tính cộng đồng của quan
hệ hôn hân,vợ chồng cùng chung sức chung ý chí tạo dựng tài sản chung
nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung của gia đình,cho nên một trong
những đặc điểm của căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng là tài sản
chung của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp
tạo ra mà chỉ cần một bên vợ chồng tạo được trong thời kì hôn nhân.Vả lại
tài sản riêng của vợ chồng cũng đươc sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của
gia đình trong trường hợp tài sản chugn không đủ để đáp ứng.(khoản 4 điều
33 luật HN&GD năm 2000).Pháp luật HN&GD của một số nước cũng quy
định toàn bộ tài sản vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân là thuộc khối tài
sản chung vợ chông.
Luật HNGD cần quy định cụ thể các hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản
riêng của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng phù
hợp với nguyên tắc xác lập tài sản chung vợ chồng.Khoản 1 điều 27 luật hôn
nhân gia đình nước ta cần cụ thể hóa vấn đề này.
2.Về quyền khởi kiện của người thứ ba:
-Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ
chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,
quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa
nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt
nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng qui định này vào thực tiễn vẫn còn vấn
đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn.
7
Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa
vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ
chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng
có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể
người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh
toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án
chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong

trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền
(chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có
nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
Ví dụ: người chồng được gọi để hưởng di sản do cha ruột chết để lại và
nhận một số tài sản thuộc di sản sau một vụ phân chia giữa những người
đồng thừa kế; người chồng mang các tài sản ấy về nhà; ít lâu sau, một người
xuất hiện tự xưng là chủ nợ của người cha đã chết và yêu cầu người chồng
thanh toán món nợ đã đến hạn; người chồng thừa nhận có mắc nợ nhưng lại
dây dưa không chịu trả; thế là chủ nợ yêu cầu kê biên và bán tài sản của
người chồng để thanh toán nợ.
Luật nói rằng các nghĩa vụ riêng của vợ chồng được bảo đảm thanh toán
bằng các tài sản riêng; chủ nợ trong giả thiết vừa nêu không có quyền yêu
cầu kê biên những tài sản mà người chồng có quyền sở hữu chung với người
vợ, mà chỉ có quyền yêu cầu kê biên các tài sản riêng của người chồng;
nhưng, tài sản riêng của người chồng nằm ở đâu ?
Nên chăng pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp người có quyền
có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu
Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh
thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của
người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ.
Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc chia
tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có
nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh
toán các khoản nợ.
3. Đóng góp vào việc thực hiện nghĩa vụ:
Trong trường hợp đặc thù mà người có nghĩa vụ có vợ (chồng) và trong
gia đình có đến ba khối tài sản,một vấn đề đặt ra là một khi một tài sản nào
đó của gia đình được dùng để thanh toán nghĩa vụ đối với người có quyền,
thì khối tài sản mà tài sản đó là một yếu tố có phải chịu tổn thất một cách dứt

khoát ?
Ví dụ: chồng có một người con được sinh ra do ngoại tình và có nghĩa
vụ cấp dưỡng; chồng dùng thu nhập của mình (tức là tài sản chung) để thực
8

×