Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng cấu trúc vốn tác động tỷ suất sinh lợi tại công ty phi tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 74 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP


Nghiên cứu ảnh hưởng cấu trúc vốn tác động tỷ
suất sinh lợi tại công ty phi tài chính ở Việt Nam
GVHD : TS. Nguy ễn Thị Uy ên Uy ên
Nhóm : 01
Lớp NH Đêm 6
TP.Hồ Chí M inh, tháng 10 năm 2014


1


MỤC LỤC

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THAM GIA CÁC THÀNH VIÊN 4
PHẦN 1: NGHIÊN CỨU PAPER……………………………………………………… 6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 5
DANH MỤC BẢNG BIỂU 6
DANH MỤC HÌNH VẼ 7
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU 8
1.1 Giới thiệu 8
1.2 Lý do chọn đề tài 8
1.3 Vấn đề nghiên cứu 9
1.3.1 Mục tiêu nghiên cứu 9
1.3.2 Câu hỏi nghiên cứu 10
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
1.5 Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài 11


1.6 Kết cấu của đề tài 11
CHƯƠNG II: TỔNG QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 12
2.1 Các lý thuyết kinh điển về cấu trúc vốn doanh nghiệp 12
2.1.1 Lý thuyết cấu trúc vốn của MM 12
2.1.2 Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn. 14
2.1.3 Chi phí thông tin bất cân xứng 15
2.1.4 Lý thuyết trật tự phân hạng 16
2.1.5 Lý thuyết thời điểm thị trường 17
2.1.6 Lý thuyết tín hiệu của chính sách cổ tức 18


2


2.1.7 Cấu trúc vốn và lợi ích từ thuế 19
2.1.8 Chi phí phá sản 19
2.1.9 Chi phí đại diện 21
2.2 Các nghiên cứu trước đây: 22
2.2.1 Nghiên cứu của Anthony Hercules Turkson và cộng sự (2013): Cấu trúc vốn và
khả năng sinh lợi của các công ty phi tài chính ở Ghana: 22
2.2.2 Abor (2005) 23
2.2.3 Gatsi, J.G, & Akoto, R. K. (2010) 23
2.2.4 Titman, S. & Wessels, R. (1988). 26
2.3. Các nhân tố trong cấu trúc vốn tác động lên khả năng sinh lợi: 28
2.3.1 Nợ ngắn hạn: 29
2.3.2 Nợ dài hạn: 30
2.3.3 Tổng nợ 31
2.3.4 Quy mô doanh nghiệp: 34
2.3.5 Tăng trưởng doanh thu: 35
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37

3.1 Phương pháp nghiên cứu: 37
3.2 Cơ sở dữ liệu 37
3.3 Mô hình hồi quy nghiên cứu 38
3.6 Các giả thuyết nghiên cứu 39
CHƯƠNG 4: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 41
4.1 Thống kê mô tả: 41
4.2 Ma trận tương quan: 43
4.3 Kết quả hồi quy: 45
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 51


3


5.1 Kết luận 52
5.2 Hạn chế của nghiên cứu và đề xuất nghiên cứu trong tương lai ………………………………53
5.3 Khuyến nghị……………………………………………………………………………………………………… 54
Phụ lục 1………………………………………………………………………………………………………………….56
Phụ lục 2
Phụ lục 3
PHẦN 3: CÂU HỎI THẢO LUẬN…………………………………………………………………………………60
Câu hỏi 1:………………………………………………………………………………………………………………………60
Câu hỏi 2:………………………………………………………………………………………………………………………68




4




ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THAM GIA CÁC THÀNH VIÊN
Họ và tên
MSSV
Mô tả công việc
Đánh giá mức độ
tham gia

Bài paper

Câu hỏi 1

Câu hỏi 2
Nguyễn Thị Thùy Dương
7701220228
Dịch paper
Tìm dữ liệu
Làm phần 1
Tìm tài liệu,
Làm phần 1
Tổng hợp bài
Tìm tài liệu
Làm phần 1
100%
Nguyễn Thái Minh Thư
7701221127
Dịch paper
Tìm dư liệu
Làm phần 4,5
Tổng hợp bài

Tìm tài liệu
Làm phần 2
Tìm tài liệu
Làm phần 1
100%
Nguyễn Thị Huy Hải
7701221519
Dịch paper
Tìm dữ liệu
Làm phần 2
Chỉnh sửa bài
Tìm tài liệu
Làm phần 3
Chỉnh sửa bài
Tìm tài liệu
Làm phần 2
Chỉnh sửa bài
100%
Trần Thị Thu Thảo
7701221702
Dịch paper
Tìm dữ liệu
Làm phần 2, 3
Tìm tài liệu
Làm phần 3
Tìm tài liệu
Làm phần 2
Tổng hợp bài
100%
Nguyễn Đình Tỵ

7701221347
Dịch paper
Tìm tài liệu,
Làm phần 2

70%



5


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CTCP Công ty cổ phần
WACC Chi phí sử dụng vốn bình quân
HOSE Sàn Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
HNX Sàn Giao dịch Chứng khoán Hà Nội





















6


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1 Tóm tắt thống kê mô tả giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc.
Bảng 2 Ma trận tương quan giữa các biến
Bảng 3 Kết quả mô hình hồi quy (biến phụ thuộc ROA)
Bảng 4 Kết quả mô hình hồi quy (biến phụ thuộc ROE)
Bảng 5 Kết quả mô hình hồi quy (biến phụ thuộc NPM)



















7




DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 1 Hai mô hình cấu trúc vốn
Hình 2 Chi phí sử dụng vốn
Hình 3 Diễn biến lạm phát của Việt Nam từ năm 2004 - 2012




8



CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
1.1 Giới thiệu
Gatsi và Akoto (2010) mô tả khái niệm cấu trúc vốn là sự kết hợp giữa nợ và vốn
cổ phần để tạo thành cấu trúc vốn của doanh nghiệp và giải thích rằng tỷ lệ nợ trên vốn
cổ phần là lựa chọn chiến lược của các nhà quản lý.
Van Horne và Wachowicz (2008) khẳng định rằng cấu trúc vốn là một sự trộn

lẫn hoặc tỷ lệ của các chỉ tiêu tài chính dài hạn như nợ, cổ phần ưu đãi với cổ phần
thường. Điều đó chứng tỏ rằng quyết định lựa chọn tỷ lệ thích hợp trong cấu trúc vốn
gồm vốn cổ phần và nợ có thể giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cao nhất về tối đa
hóa lợi nhuận.
Marfo-Yiadom và Boachie-Mensah (2010) cũng ủng hộ Van Horne và
Wachowicz (2008) tuyên bố rằng tỷ suất sinh lời đo lường hiệu quả quản lý được biểu
thị bằng doanh thu trên doanh số và đầu tư. Ross, Weterfield và Jordan (2008) cũng giải
thích rằng doanh thu trên tài sản và doanh thu trên vốn cổ phần là những nhân tố chính
để đánh giá khả năng sinh lời của một công ty.
Cũng liên quan đến tỷ lệ đòn bẩy tài chính, Van Horne và Wachowicz (2008) cho
rằng tỷ lệ đòn bẩy tài chính cho thấy sự mở rộng của những công ty được tài trợ bởi nợ,
tỷ lệ này có thể được chia thành nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và tổng nợ.
Những nghiên cứu trên đây tập trung nghiên cứu tình hình tài chính của các công
ty tài chính và phi tài chính ở Ghana (trong đó công ty phi tài chính ít được chú ý hơn).
Thực tế vẫn có nhiều khác biệt đặc trưng về các ảnh hưởng của cấu trúc vốn đến khả
năng sinh lợi của công ty từng mỗi quốc gia. Bài nghiên cứu cũng cho thấy rằng, mặc
dù có một vài sự thấu hiểu về học thuyết tài chính hiện đại được ứng dụng cho các
nước, nhưng vẫn còn nhiều thứ cần được nghiên cứu thêm để có thể kiểm tra sự ảnh
hưởng của cấu trúc vốn lên khả năng sinh lời của các công ty phi tài chính được niêm
yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.2 Lý do chọn đề tài
9
Các bằng chứng trên đã cho thấy rằng các nghiên cứu về mối quan hệ giữa đòn
bẩy tài chính và khả năng sinh lời của một công ty thì vẫn chưa được kết luận thống nhất.
Các bằng chứng cũng cho thấy rằng đối với các công ty phi tài chính, việc nghiên cứu về
mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và khả năng sinh lời cũng đã được chú ý nhưng chưa
được nghiên cứu một cách chính thức. Trong khi các công ty phi tài chính đóng một vai
trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ngoài việc cung cấp các cơ
hội việc làm cho công dân, công ty phi tài chính còn cung cấp hàng hóa, dịch vụ và trách
nhiệm xã hội đối với cộng đồng người. Một quyết định quan trọng của nhà quản lý các

công ty phi tài chính phải đối mặt là sự lựa chọn nợ - vốn chủ sở hữu. So với những lựa
chọn khác, sự lựa chọn này là cần thiết cho việc xác định lợi nhuận của công ty. Điều
này có nghĩa là các công ty thực hiện thận trọng sự lựa chọn giữa nợ và vốn chủ sở hữu
sẽ có một lợi thế cạnh tranh trong ngành.
Vì vậy nhóm đã chọn đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng cấu trúc vốn tác động tỷ
suất sinh lợi tại công ty phi tài chính ở Việt Nam” để kiểm chứng tác động của cấu
trúc vốn lên tỷ suất sinh lời của các công ty phi tài chính đã được chọn ở Việt Nam và
đặc biệt nghiên cứu mối quan hệ giữa đòn bẫy tài chính và tỷ suất sinh lời của những
công ty được nghiên cứu.
1.3 Vấn đề nghiên cứu
1.3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là là kiểm chứng cấu trúc vốn và ảnh hưởng của cấu trúc
vốn lên tỷ suất sinh lời của các công ty phi tài chính được niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Nghiên cứu tập trung vào các công ty phi tài chính niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ từ năm 2008 đến năm 2012.
Những mục tiêu nghiên cứu cụ thể hơn của bài nghiên cứu là:
- Tìm ra mối liên hệ giữa doanh thu trên tài sản, doanh thu trên vốn cổ phần, biên
lợi nhuận ròng với nợ ngắn hạn
- Tìm ra mối liên hệ giữa doanh thu trên tài sản, doanh thu trên vốn cổ phần, biên
lợi nhuận ròng với nợ dài hạn


10


- Tìm ra mối liên hệ giữa doanh thu trên tài sản, doanh thu trên vốn cổ phần, biên lợi
nhuận ròng với tổng nợ
- Tìm ra mối liên hệ giữa doanh thu trên tài sản, doanh thu trên vốn cổ phần, biên lợi
nhuận ròng với quy mô của công ty

- Tìm ra mối liên hệ giữa doanh thu trên tài sản, doanh thu trên vốn cổ phần, biên lợi
nhuận ròng với tăng trưởng doanh thu
1.3.2 Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên các lý do cho việc lựa chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, nhóm đề xuất
các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến việc nghiên cứu cấu trúc vốn và khả năng sinh lợi
của các công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam như sau:
- Doanh thu trên tài sản hay doanh thu trên vốn cổ phần hay biên lợi nhuận ròng có
quan hệ cùng chiều với nợ ngắn hạn hay không?
- Doanh thu trên tài sản hay doanh thu trên vốn cổ phần hay biên lợi nhuận ròng có
quan hệ cùng chiều với nợ dài hạn hay không?
- Doanh thu trên tài sản hay doanh thu trên vốn cổ phần hay biên lợi nhuận ròng có
quan hệ cùng chiều với tổng nợ hay không?
- Doanh thu trên tài sản hay doanh thu trên vốn cổ phần hay biên lợi nhuận ròng có
quan hệ cùng chiều với quy mô công ty hay không?
- Doanh thu trên tài sản hay doanh thu trên vốn cổ phần hay biên lợi nhuận ròng có
quan hệ cùng chiều với tăng trưởng doanh số hay không?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các công ty phi tài chính niêm yết trên hai sàn giao dịch
chứng khoán Việt Nam: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: do những hạn chế về số liệu nên nhóm chọn mẫu các công ty
phi tài chính niêm yết tính đến ngày 31/12/2012. Số liệu nhóm chọn khảo sát là số liệu
lấy từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán từ năm 2008 đến năm 2012.


11


1.5 Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài
Bài nghiên cứu này được tiến hành có ý nghĩa khoa học rất quan trọng trên cả

phương diện lý luận và thực tiễn, cụ thể:
Về mặt lý luận: hệ thống lại các học thuyết về cấu trúc vốn, kiểm chứng cấu trúc
vốn và ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên tỷ suất sinh lời của các công ty phi tài chính, từ
đó cho chúng ta thấy rõ vai trò quan trọng của cấu trúc vốn đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
Về mặt thực tiễn: đề tài giúp xác định sự tác động của cấu trúc vốn đến tỷ suất
sinh lời của các công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, đồng thời cung cấp thêm
bằng chứng thực nghiệm cho một số học thuyết về cấu trúc vốn, giúp các doanh nghiệp
có cái nhìn thấu đáo hơn về cấu trúc vốn doanh nghiệp, để từ đó có thêm cơ sở để hoạch
định và xây dựng một cấu trúc vốn tối ưu.
1.6 Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm 05 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung, lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Chương 2: Nêu khái quát các lý thuyết kinh điển về cấu trúc vốn doanh nghiệp.
Trình bày các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến cấu trúc vốn và khả năng sinh lợi
trên thế giới.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và cơ sở dữ liệu, việc thu thập và xử lý dữ
liệu, mẫu nghiên cứu, mô hình hồi quy sử dụng và các giả thuyết nghiên cứu.
Chương 4: Trình bày các kết quả nghiên cứu định lượng thu được từ mô hình hồi
quy.
Chương 5: Kết luận, kiến nghị, hướng nghiên cứu tiếp theo và các hạn chế của đề
tài.



12


CHƯƠNG II: TỔNG QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU

TRƯỚC ĐÂY

2.1 Các lý thuyết kinh điển về cấu trúc vốn doanh nghiệp
2.1.1 Lý thuyết cấu trúc vốn của MM
Các nghiên cứu về cấu trúc vốn có thể hầu như không hoàn thiện nếu không đề
cập đến lý thuyết MM. Trong lĩnh vực tài chính, họ được xem như những nhà tiên
phong của lý thuyết cấu trúc vốn. Trong đóng góp về lý thuyết của họ gồm có hai định
đề chính MM1 và MM2.
Định đề MM I
Định đề MM I khẳng định rằng hoàn toàn độc lập một doanh nghiệp lựa chọn để
sắp xếp các tài trợ của mình. Một cách nói khác, giá trị của doanh nghiệp thì hoàn toàn
độc lập với cấu trúc vốn. Năm 1963, định đề MM I khẳng định rằng hoàn toàn độc lập
bằng cách nào một doanh nghiệp lựa chọn để sắp xếp các tài trợ của mình. Mặt khác,
giá trị của doanh nghiệp thì hoàn toàn độc lập với cấu trúc vốn năm 1963. Theo MM,
công ty A có giá trị tổng cộng 100% trong đó nợ 60% và vốn cổ phần 40%. Công ty B
với nợ 40% và vốn cổ phàn 60%. Hai công ty này được biểu thị trong hình 01.









Hình 1: Hai mô hình của cấu trúc vốn
Sto
cks
40
%

Bon
ds
60
%
S
t
o
c
k
6
0
%
S
t
o
c
k
4
0
%


13


Xem xét trong hình 1, kết luận rằng, giá trị của doanh nghiệp độc lập với cấu trúc
vốn, do đó hai doanh nghiệp giống nhau có thể chọn những phương án khác nhau về tài
chính cho tài sản và các hoạt động tương tự
Định đề II của MM
Định đề II của MM chỉ ra rằng mặc dù thay đổi cấu trúc vốn của doanh nghiệp có

thể không thay đổi giá trị của doanh nghiệp, nhưng nó gây ra những thay đổi quan trọng
đến tỷ lệ nợ và vốn cổ phần. Modigliani và Miler (1963) đã bỏ qua các loại thuế, và giải
thích những thay đổi này bằng cách sử dụng một hàm tuyến tính được minh họa trong
hình 2

Chi phí vốn (%)


H ìn
h 2: Chi phí sử dụng vốn

Từ hình 2, có thể nhận thấy chi phí vốn chủ sở hữu, R
E
, được tính bằng độ dốc
của đường thẳng (R
A
-R
D
). Trục Y tương ứng với công ty có tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần là
không, vì vậy R
A
=R
E
. Hình 2 cho thấy, nếu các công ty gia tăng tỷ lệ nợ trên vốn cổ
phần, sự gia tăng đòn bẩy tài chính làm tăng rủi ro vốn cổ phần và do đó đòi hỏi một tỷ
suất sinh lợi dự kiến từ vốn cổ phần (R
E
) cao hơn.



14


Định đề II của MM cho chúng ta biết rằng chi phí sử dụng vốn cổ phần phụ thuộc
vào ba điều: Tỷ suất sinh lợi từ tài sản, tỷ suất sinh lợi dự kiến từ nợ và tỷ lệ nợ trên vốn
cổ phần của doanh nghiệp. Điều này thiết lập ra phương trình từ hình 2, là:
R
E
= R
A
+ (R
A
-R
D
) x (D/E)
Trong đó:
R
E
: Tỷ suất sinh lợi từ vốn cổ phần
R
A
: Tỷ suất sinh lợi từ tài sản
R
D
: Tỷ suất sinh lợi từ nợ
D/E: Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần
Phương trình là một mối quan hệ tuyến tính giữa R
E
và D/E. MM cho rằng chi
phí vốn cổ phần của một doanh nghiệp là một hàm tuyến tính dương của cấu trúc vốn.

Có thể kết luận từ hình 2 rằng chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) hoặc tỷ
suất sinh lợi từ tài sản của doanh nghiệp (R
A
) không phụ thuộc vào tỷ lệ nợ trên vốn cổ
phần. Do đó, nó biểu thị rằng chi phí sử dụng vốn không bị ảnh hưởng bởi cấu trúc vốn.
Trong ngắn hạn, thực tế là chi phí sử dụng nợ thấp hơn so với chi phí sử dụng vốn cổ
phần được bù đắp bởi sự gia tăng trong chi phí sử dụng vốn cổ phần từ các khoản vay.
Nói cách khác, sự thay đổi trong trọng số cấu trúc vốn (E/V và D/V) được bù đắp bởi sự
thay đổi trong chi phí sử dụng vốn cổ phần (R
E
), do đó WACC vẫn bằng nhau.
2.1 .2 Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn.
Theo Ross và cộng sự (2008) cho rằng giá trị doanh nghiệp sử dụng vốn vay sẽ
tăng thêm nhờ nguồn giảm trừ thuế. Ross và cộng sự gọi lý thuyết này là lý thuyết đánh
đổi cấu trúc vốn ổn địnhvì nó giả định rằng tài sản và hoạt động của công ty là cố định
và nó chỉ xem xét các khả năng có thể thay đổi của tỷ số Nợ/Vốn chủ sở hữu. Tuy mô
hình này cũng không chỉ ra được chính xác cấu trúc vốn tối ưu, nhưng nó đã chỉ ra hai
nhân tố phù hợp là thuế và chi phí kiệt quệ tài chính.
Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn ổn định đã được đặt câu hỏi bởi nhiều tác giả, bao
gồm Miller (1977), đã phản bác bằng lập luận rằng mô hình cân bằng tĩnh có nghĩa là
các doanh nghiệp nên có đòn bẩy tài chính cao hơn mức mà họ có thể chịu đựng, bởi vì


15


lợi ích từ các khoản tiết kiệm thuế từ các khoản nợ lớn hơn so với chi phí kiệt quệ tài
chính.
Ý nghĩa của lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn ổn định.
Các mô hình cân bằng tĩnh, các lợi ích về thuế từ đòn bẩy tài chính rõ ràng là chỉ

quan trọng đối với các doanh nghiệp đang nộp thuế. Các doanh nghiệp có lỗ lũy kế lớn
sẽ nhận được ít giá trị từ lá chắn thuế. Hơn nữa, các công ty có lá chắn thuế đáng kể từ
các nguồn khác, chẳng hạn như khấu hao, sẽ nhận được ít lợi ích từ đòn bẩy tài chính
(theo Ross và cộng sự, 2008). Ngoài ra cần lưu ý rằng không phải tất cả các doanh
nghiệp có cùng một mức thuế suất như nhau. Mức thuế càng cao thì ưu đãi cho vay càng
lớn.
Các mô hình cân bằng tĩnh cho rằng các doanh nghiệp có nguy cơ cao trải qua
khủng hoảng tài chính sẽ vay ít hơn các doanh nghiệp có nguy cơ thấp. Ví dụ như
những biến động trong lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT), ít hơn một doanh nghiệp
phải vay. Bên cạnh đó khủng hoảng tài chính là tốn kém đối với một số doanh nghiệp.
Chi phí của khủng hoảng tài chính chủ yếu phụ thuộc vào tài sản của doanh nghiệp. Đặc
biệt, chi phí khủng hoảng tài chính được xác định bằng cách dễ dàng sở hữu những tài
sản có thể được chuyển giao.
2.1.3 Chi phí thông tin bất cân xứng
Myers và Majluf (1984) cho rằng các khái niệm về cấu trúc vốn tối ưu dựa trên
khái niệm về thông tin bất cân xứng. Theo họ, sự tồn tại của thông tin bất cân xứng giữa
doanh nghiệp và các nhà cung cấp tài chính có thể gây ra các chi phí tài chính tương đối
khác nhau giữa các nguồn tài chính khác nhau. Họ cũng chỉ ra rằng nguồn tài chính nội
bộ mà doanh nghiệp là các nhà cung cấp vốn, sẽ có thêm nhiều thông tin hơn cho các cổ
đông mới, do đó các chủ sở hữu mới sẽ mong đợi một tỷ suất lợi nhuận trên đầu tư cao
hơn. Điều này cũng có nghĩa là chi phí để doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới cao hơn
là sử dụng vốn nội bộ. Tương tự thì lập luận này có thể được cung cấp giữa tài chính nội
bộ và các chủ nợ mới.
Gatsi và Akoto (2010) cũng cho rằng sự xuất hiện của thông tin bất cân xứng này
là “khoảng cách” giữa các nhà quản lý và các nhà đầu tư đã dẫn đến việc xây dựng hai


16



lý thuyết riêng biệt nhưng có liên quan đến các quyết định tài chính, cụ thể là: Lý thuyết
thời điểm thị trường và Lý thuyết tín hiệu của chính sách cổ tức, được xem xét trong mô
hình “trật tự phân hạng”.
Barclay và Smith (2005) cũng cho rằng giám đốc điều hành kinh doanh thường
có thông tin tốt hơn về giá trị của doanh nghiệp so với các nhà đầu tư bên ngoài. Klein,
O’Brien và Peter (2002) cho rằng trong tài chính doanh nghiệp, thông tin bất cân xứng
đề cập đến ý tưởng rằng trong một doanh nghiệp, các nhà quản lý có kiến thức cao hơn
các thành viên khác trên thị trường. Thông tin bất cân xứng thường là lý do khiến các
thành viên khác trên thị trường định giá sai lệch về công ty và vì thế đòi hỏi một tỷ suất
dương cho quyết định đầu tư tài chính.
2.1.4 Lý thuyết trật tự phân hạng
Lý thuyết này giải thích cách các doanh nghiệp sử dụng vốn nội bộ ban đầu được
tạo ra để tài trợ cho hoạt động của mình thay vì vay vốn bên ngoài.
Năm 1984, Myers và Majluf lưu ý rằng lý thuyết trật tự phân hạng về cách thức
doanh nghiệp sẽ dựa vào nguồn vốn bên trong của mình thay vì vay bên ngoài để tài trợ
của hoạt động của mình.
Gatsi và Akoto (2010) có ý kiến cho rằng chi phí vay vốn bên ngoài là cao vì
người nội bộ sẽ có thêm thông tin hơn so với các nhà đầu tư bên ngoài, các nhà đầu tư
bên ngoài biết điều này và vì vậy họ sẽ yêu cầu một tỷ suất sinh lợi cao hơn.
Vì vậy từ quan điểm của nhà đầu tư bên ngoài, vốn là rủi ro hơn nợ, đo đó đòi
hỏi một chi phí cao hơn là việc vay nợ. Vì vậy, trong nội bộ doanh nghiệp nhận thấy nợ
là một nguồn tài trợ tốt hơn vốn cổ phần và lợi nhuận giữ lại thậm chí còn tốt hơn.
Myers và Majluf (1984) cho rằng các công ty thích lợi nhuận giữ lại để nợ và chỉ
phát hành cổ phiểu như là một phương án cuối cùng. Abor (2008) cho rằng vay nợ chỉ
sử dụng khi không đủ nguồn vốn nội bộ, và cổ phiếu chỉ được sử dụng như một phương
án cuối cùng.
Tác động của lý thuyết trật tự phân hạng
Barclay và Smith (2005) lập luận rằng các doanh nghiệp ít có cơ hội đầu tư và
luồng tiền tự do sẽ có tỷ lệ nợ thấp bởi vì tiền mặt sẽ được sử dụng để trả nợ. Nó có thể



17


cho thấy rằng các công ty tăng trưởng cao với dòng tiền hoạt động thấp hơn sẽ có tỷ lệ
nợ cao vì họ miễn cưỡng để tăng vốn cổ phần mới. Trường hợp nếu không có sự tồn tại
của thông tin bất cân xứng, doanh nghiệp sẽ sử dụng nợ nếu cần thêm vốn, và cuối cùng
là phát hành cổ phiếu để trang trãi các khoản vốn còn lại. Như vậy, các nghiên cứu tại
thời điểm này cho thấy các công ty sẽ ưu tiên sử dụng nguồn vốn nội tại hơn nguồn vốn
đắt đỏ bên ngoài.
Như vậy, theo lý thuyết trật tự phân hạng, các doanh nghiệp có lợi nhuận và tạo
ra thu nhập cao được dự kiến là sử dụng vốn vay ít hơn những người không tạo ra thu
nhập cao.
2.1.5 Lý thuyết thời điểm thị trường
Lý thuyết này cho rằng các nhà quản lý quan sát thị trường vốn và sử dụng lợi thế
của khoảng cách thông tin, để phát hành cổ phiếu mới khi họ tin rằng những cố phiếu
được định giá quá cao bởi các nhà đầu tư và ngược lại (Abor, 2008 & Amidu 2007).
Abor (2008) và Amidu (2007) tiếp tục giải thích rằng các vấn đề cần thiết trong doanh
nghiệp có thể các nhà đầu tư bên ngoài không biết đến (trừ khi có sự hiện diện của
người trong cuộc) và do đó sẽ không phản ánh trong giá cố phiếu của doanh nghiệp. Giả
định này là đúng bởi vì trong thực tế, thị trường vốn không hiệu quả.
Doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tăng thêm vốn nhưng tin rằng cổ phiếu của
họ đang bị đánh giá thấp thường sẽ chọn phát hành nợ chứ không phải vốn cổ phần để
tránh pha loãng giá trị của cổ đông hiện hữu (Barclay & Smith 2005).
Gatsi và Akoto (2010) cho ý kiến về hiệu quả của doanh nghiệp, cho rằng các
nhà đầu tư nhận thức được rằng nhà quản lý biết nhiều hơn về hiệu quả trong tương lai
của công ty, và họ cũng cho rằng động cơ của nhà quản lý phát hành cổ phiếu giá quá
cao và tránh định giá thấp. Các công ty có khuynh hướng kiềm giữ cổ phiếu của mình
thường dẫn đến việc giá cổ phiếu giảm sau khi công ty phát hành thêm một lượng mới
cổ phiếu. Kết quả là các phát hành cổ phiếu tương đối tốn kém, và quản lý một cách hợp

lý để tránh những chi phí tốn kém này và thay vì sử dụng vốn nội bộ. Như vậy, bằng
cách chọn thời điểm cho cổ phiếu mới, các nhà quản lý có lợi thế về kiểm soát một số
mức độ thông tin bất lợi của thị trường.


18


Cần lưu ý rằng vấn đề của cổ phiếu trở nên khá tốn kém, các nhà đầu tư không
biết rằng các doanh nghiệp sẽ chỉ phát hành cổ phiếu khi nó được định giá quá cao và
do đó sẽ yêu cầu lợi nhuận cao như để đền bù. Họ cũng cho rằng các nhà quản lý khôn
ngoan sẽ thích sử dụng vốn nội bộ tạo ra chứ không phải là phát hành cổ phiếu mới.
Mặt khác, các chủ nợ sẽ đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi cao hơn trong các đầu tư này
như một sự đánh đổi. Kết quả là vốn nội bộ tạo ra một nguồn rẻ hơn các khoản nợ của
các nhà tài trợ. Do đó, các doanh ngiệp có thể không nhất thiết phải phát hành cổ phiếu
mới như họ tin rằng nó được định giá quá cao hoặc sử dụng vốn nội bộ bởi vị giá trị
hiện tại đang bị đánh giá thấp. Điều này giải thích lý do tại sao các thông tin bất cân
xứng có thể tốn kém cho các doanh nghiệp như các nhà đầu tư có thể hiểu sai hành vi
quản lý và tính phí cho họ không công bằng.
Có thể kết luận rằng các doanh nghiệp tối đa hóa giá trị bằng cách liên tục lựa
chọn để tài trợ các khoản đầu tư mới với nguồn vốn “giá rẻ”. Nó cũng có thể được thấy
các nhà quản lý muốn tạo lợi nhuận giữ lại vào quỹ bên ngoài, và nếu lợi nhuận giữa lại
là cần thiết, họ thích nợ trên vốn cồ phần do chi phí thông tin liên quan đến vấn đề sử
dụng nợ thấp.
2.1.6 Lý thuyết tín hiệu của chính sách cổ tức
Lý thuyết này dựa trên ý tưởng các nhà quản lý có thông tin chính xác hơn so với
các nhà đầu tư bên ngoài về hiệu suất của doanh nghiệp, do đó sẽ tăng khả năng cho nhà
đầu tư bằng cách gia tăng đòn bẩy tài chính.
Barclay và Smith (2005) cho rằng trái ngược với lý thuyết thời điểm thị trường,
trong đó chứng khoán được xem như một hình thức để huy động vốn giả rẻ, mô hình tín

hiệu giả định rằng các quyết định tài chính về cơ bản được thiết lập để chuyển tải những
tiềm năng trong tương lai cho các nhà đầu tư bên ngoài. Điều này thường thực hiện để
nâng cao giá trị cổ phiếu khi các nhà quản lý nghĩ rằng họ đang bị định giá thấp.
Gatsi and Akoto (2010) lập luận rằng nợ ràng buộc các công ty phải chi trả
những khoản phí cố định bằng tiền mặt cho các chủ nợ trong suốt thời gian hiệu lực của
khoản nợ. Họ cũng cho rằng các doanh nghiệp có thể bị buộc phải phá sản, nếu họ
không đủ khả năng thanh toán nợ, và điều này có thể ảnh hưởng đến các nhà quản lý là


19


họ có thể bị mất việc làm. Các nhà quản lý có thể biết được điều này và làm mọi thứ để
duy trì vị trí của họ.
Barclay và Smith (2005) cho rằng, chi trả cổ tức là không bắt buộc và các nhà
quản lý linh hoạt hơn trong các quyết định chi trả, và có thể giảm hoặc không chi trả cổ
tức trong thời gian khó khăn về tài chính. Ross (1977) cũng cho rằng việc tăng nợ trong
cấu trúc vốn là dấu hiệu cho thấy kỳ vọng về dòng tiền tương lai cao hơn.
Từ các nghiên cứu trước, có thể thấy giá trị của doanh nghiệp sẽ cao hơn nếu sử
dụng thêm nợ trong cấu trúc vốn của họ để báo hiệu rằng giá trị này tương đối thấp, và
điều này dựa trên tiên đề rằng các doanh nghiệp không hiệu quả không thể quản lý nợ
và bất kỳ cố gắng nào để sử dụng nợ nhiều hơn sẽ gây ra rủi ro tài chính của các doanh
nghiệp do phá sản và cách chi phí liên quan.
2.1.7 Cấu trúc vốn và lợi ích từ thuế
Cấu trúc vốn của doanh nghiệp cũng giải thích về các lợi ích về thuế liên quan
đến việc sử dụng nợ. Cần lưu ý rằng chính sách thuế có ảnh hưởng quan trọng đến các
quyết định cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Thuế có thể được cho là một khoản chi trả
nhằm hỗ trợ chi phí của chính phủ. Nó cũng được xem như là một khoản thanh toán bắt
buộc từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp để chính phủ tài trợ cho các dự án và
chương trình của mình. Theo Ross và cộng sự (2008) thì những lợi ích liên quan đến

thuế được gọi là lá chắn thuế.
Modigliani và Miller (1963) lập luận rằng thuế cho phép doanh nghiệp khấu trừ
lãi không tính trong lợi nhuận chịu thuế nhưng cổ tức thì không. Theo họ, điều này cho
thấy rằng lợi thế về thuế bắt nguồn từ nợ và doanh nghiệp sẽ giảm gánh nặng thuế và
tăng dòng tiền sau thuế của mình.
2.1.8 Chi phí phá sản
Chi phí phá sản là những chi phí phát sinh khi xác định rằng khả năng tài chính
của doanh nghiệp lớn hơn không (Abor; 2008). Titman (1984) cũng cho rằng chi phí
phá sản liên quan đến chi phí xảy ra khi một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
nghĩa vụ nợ của mình và đứng trên bờ vực bị đóng cửa. Theo ông chi phí phá sản có thể
bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp. Ví dụ về chi phí phá sản trực tiếp là các chi phí pháp


20


lý và hành chính trong quá trình phá sản. Sự thiệt hại trong lợi nhuận doanh nghiệp gách
chịu như một kết quả của sự thiếu thiện chí của các cổ đông trong kinh doanh là một ví
dụ về chi phí phá sản gián tiếp.
Warner (1977) phát biểu rằng các chi phí trực tiếp thường nhỏ so với giá trị thị
trường của doanh nghiệp trong khi chi phí gián tiếp là rất lớn. Titman (1984) cũng lập
luận rằng sự ưa thích của khách hàng đối với hàng hóa và dịch vụ của một doanh nghiệp
và khả năng phá sản cao ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp.
Abor (năm 2008) cũng đã cho biết: "nếu một doanh nghiệp được coi là gần phá sản,
khách hàng có thể sẽ ít mua hàng hóa và dịch vụ hơn vì rủi ro là doanh nghiệp có thể
không có khả năng đáp ứng nghĩa vụ bảo hành của nó". Ông cũng chỉ ra rằng nhân viên
có thể ít có khuynh hướng làm việc cho các doanh nghiệp hoặc các nhà cung cấp ít có
khả năng mở rộng tín dụng thương mại.
Kim, Heshmati và Aoun (2006) cho rằng những hạn chế hoặc giới hạn như vậy
có thể ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp và hiệu quả của nó, như cuối cùng họ có thể

phải giả mạo các cơ hội đầu tư hấp dẫn dẫn đến đầu tư dưới chuẩn. Điều này có thể ảnh
hưởng bất lợi đến lợi ích và sự tồn tại của doanh nghiệp.
Modigliani và Miller (1963) cho rằng các doanh nghiệp có thể không trả được nợ
của họ nếu họ vay quá nhiều và trở nên kiệt quệ về tài chính. Tuy nhiên, nó là lý do để
các doanh nghiệp tăng giá trị do khấu trừ thuế sử dụng nợ. Cần lưu ý rằng chi phí phá
sản tăng lên cùng với tăng nợ sử dụng làm giảm giá trị của doanh nghiệp (Warner,
1977).
Kết quả là, các nhà quản lý của các doanh nghiệp kiệt quệ về tài chính sẽ ủng hộ
cho ít sử dụng nợ trong cơ cấu vốn của họ so với các đối tác sử dụng ít nợ để bảo vệ
việc chống lại đầu tư dưới chuẩn và các vấn đề liên quan.
Grossman và Hart (1982) cho rằng nếu phá sản là cái giá phải trả của các nhà
quản lý, có lẽ bởi vì họ sẽ mất lợi ích của việc kiểm soát hoặc danh tiếng sau khi vay
vốn thay vì phải tạo ra động lực cho các nhà quản lý làm việc nhiều hơn, điều kiện tiên
quyết là chi tiêu ít hơn và đưa ra quyết định đầu tư tốt hơn.


21


2.1.9 Chi phí đại diện
Việc sử dụng nợ trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp cũng mang về chi phí đại
diện. Theo Jensen và Meckling (1976), chi phí đại diện phát sinh như là kết quả của mối
quan hệ giữa các cổ đông và các nhà quản lý, và giữa chủ nợ và cổ đông. Ở đây trong
khi việc người quản lý của một doanh nghiệp được coi là người được ủy quyền của cả
cổ đông và chủ nợ được ghi nhận là người ủy thác. Xung đột thường xảy ra khi người
đại diện đưa ra quyết định không tối đa hóa của cải của người ủy quyền. Harris và Raviv
(1990) cho rằng cuộc xung đột giữa các cổ đông và các nhà quản lý phát sinh bởi vì các
nhà quản lý nắm giữ ít hơn 100% quyền chiếm dụng thặng dư. Kết quả là, họ không
giành được toàn bộ lợi ích từ các hoạt động nâng cao lợi nhuận của họ nhưng họ phải
chịu toàn bộ chi phí của các hoạt động này.

Vì phân chia quyền sở hữu và kiểm soát, có thể dẫn đến thiếu sự quản lý trong
công việc, thích thú với các đặc quyền, và lựa chọn đầu vào và đầu ra dựa vào sở thích
riêng của họ. Một vấn đề khác là các nhà quản lý có thể đầu tư vào các dự án làm giảm
giá trị của doanh nghiệp nhưng tăng cường sự kiểm soát của họ đối với các nguồn lực
của nó. Ví dụ, lựa chọn tối ưu cho các nhà đầu tư là giải thể doanh nghiệp nhưng các
nhà quản lý có thể lựa chọn tiếp tục hoạt động để nâng cao vị trí của họ (Abor, 2008).
Harris và Raviv (1990) ủng hộ ý kiến này và do đó chỉ ra rằng các nhà quản lý
khuyến khích tiếp tục hoạt động hiện tại của doanh nghiệp ngay cả khi cổ đông thích
giải thể. Abor (2008) cũng nói thêm rằng cuộc xung đột giữa chủ nợ và cổ đông là do
rủi ro đạo đức.
Chittenden, Hall và Hutchinson (1996), cho thấy rằng thông tin bất đối xứng và
rủi ro đạo đức sẽ lớn hơn đối với các doanh nghiệp nhỏ hơn. Tuy nhiên Jensen và
Meckling (1976) lưu ý rằng các cuộc xung đột giữa chủ nợ và cổ đông có phát sinh bởi
vì kiểm soát nợ khuyến khích cổ đông đầu tư thêm một cách tối ưu.
Theo Abor (2008), trong trường hợp đầu tư vào những lĩnh vực lợi nhuận lớn, cổ
đông nhận được phần lớn lợi ích. Ông cũng chỉ ra rằng trong trường hợp đầu tư thất bại,
bởi vì trách nhiệm hữu hạn, chủ nợ chịu phần lớn các hậu quả. Những vấn đề đầu tư liên
quan đến thông tin bất đối xứng, (cổ đông) rủi ro quản lý và cơ hội tăng trưởng bị bỏ


22


qua có thể được giải quyết bằng cách cơ cấu kỳ hạn nợ và quyền mua lại nợ (Barnea,
Haugen và Snebet, 1980). Theo họ, rút ngắn thời gian cơ cấu kỳ hạn trả nợ và quyền
mua lại trái phiếu trước ngày hết hạn có thể giúp giảm chi phí đầu tư dưới chuẩn và
chuyển hóa rủi ro. Họ cũng đã chứng minh rằng cả hai chức năng của các khoản nợ của
doanh nghiệp phục vụ mục đích giống nhau trong việc giải quyết vấn đề đầu tư.
Có thể kết luận rằng các doanh nghiệp với chi phí đại diện cao hơn do xung đột
giữa doanh nghiệp và các chủ nợ nên thường có ít nợ trong cơ cấu vốn của mình để tối

đa hóa giá trị.
2.2 Các nghiên cứu trước đây:
2.2.1 Nghiên cứu của Anthony Hercules Turkson và cộng sự (2013): Cấu
trúc vốn và khả năng sinh lợi của các công ty phi tài chính ở Ghana:
Mục đích nghiên cứu:
Bài nghiên cứu này tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và khả năng sinh lời của
những công ty phi tài chính được niêm yết ở thị trường chứng khoán Ghana, trong khoảng
thời gian 7 năm (2002-2008). Các lý thuyết về cấu trúc vốn cung cấp cho tác giả những
khái niệm cơ bản nhất để tiến hành nghiên cứu này. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp
cơ sở dữ liệu mảng để kiểm tra ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên khả năng sinh lời của 20
công ty được lựa chọn. Phương pháp bình phương bé nhất được dùng làm kỹ thuật ước
lượng của nghiên cứu này. Dữ liệu nghiên cứu được lấy ra từ báo cáo tài chính của những
công ty này. Các tỉ lệ như doanh thu trên tài sản, doanh thu trên vốn cổ phần, hệ số biên
lợi nhuận ròng là các chỉ số dùng để xác định khả năng sinh lời của một công ty. Nợ ngắn
hạn, nợ dài hạn và tổng tỷ lệ nợ được sử dụng để đánh giá đòn bẩy tài chính của công ty
đó.
Kết quả nghiên cứu:
Nghiên cứu cho thấy rằng 54.99% tổng vốn của của các công ty trong nghiên cứu
được tài trợ bởi nợ. Trong đó 47.65% là nợ ngắn hạn trong khi nợ dài hạn chỉ chiếm
7.33%. Điều này cho thấy rằng các công ty phi tài chính sử dụng đòn bẩy tài chính cao và
cho thấy tầm quan trọng của nợ ngắn hạn cũng như dài hạn đối với những công ty này.
Các kết quả tương quan và tuyến tính cho thấy mối quan hệ chặt chẽ ngược chiều giữa đòn


23


bẩy tài chính và khả năng sinh lời của công ty. Có nghĩa rằng, trong khoảng thời gian của
nghiên cứu, đòn bẩy tài chính không mang lại khả năng sinh lời cho công ty. Do đó các
công ty cần có các hoạt động trên thị trường tài chính để giảm chi phí về sử dụng nợ ngắn

hạn hoặc khuyến khích sử dụng các nguồn tài chính nội bộ. Các công ty cũng nên tập
trung vào tăng trưởng cũng như lợi ích từ đòn bẩy tài chính. Cải tổ trong ngành ngân hàng
để cung cấp các khoản nợ dài hạn cho các công ty phi tài chính thì rất cần thiết để cải
thiện khả năng sinh lời.
2.2.2 Abor (2005)
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận của các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Ghana (GSE) trong khoảng thời gian 5 năm. Phương pháp
tiếp cận - Phân tích hồi quy được sử dụng trong việc ước lượng các hàm liên quan đến lợi
nhuận trên vốn cổ phần (ROE) trong cấu trúc vốn.
Kết quả nghiên cứu:
Kết quả cho thấy một mối tương quan thuận giữa tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng tài sản
và ROE. Tuy nhiên, tương quan nghịch giữa tỷ lệ nợ dài hạn trên tổng tài và ROE đã được
tìm thấy. Kết quả cho thấy một tương quan thuận giữa tỷ lệ tổng nợ trên tổng tài sản và lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu. Giá trị ban đầu - Nghiên cứu cho thấy rằng các công ty có lợi
nhuận phụ thuộc nhiều vào nợ trong lựa chọn tài chính chính của họ. Trong trường hợp
Ghana, tỷ lệ nợ ngắn hạn chiếm 85% trong tổng nợ.
2.2.3 Gatsi, J.G, & Akoto, R. K. (2010)
Nghiên cứu cấu trúc vốn và lợi nhuận của các ngân hàng Ghana sử dụng phương
pháp dữ liệu mảng. Lý thuyết cấu trúc vốn được sử dụng để làm cơ sở lý thuyết cho việc
nghiên cứu.
Mục đích của nghiên cứu:
Theo Buser et al. (1981), quyết định cấu trúc vốn của ngân hàng là tương tự như
của một công ty phi tài chính. Mặc dù có sự khác biệt giữa các ngành trong cấu trúc vốn
của doanh nghiệp do tính chất của từng ngành kinh doanh, các biến thể trong nội bộ công
ty được cho là do rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính của các công ty cá nhân.


24



Mục đích chính của nghiên cứu này là nhắm đến kiểm nghiệm ảnh hưởng của
cấu trúc vốn trên lợi nhuận ngân hàng ở Ghana, sử dụng một tập hợp dữ liệu tương đối
dài và một kỹ thuật ước lượng vững chắc của phương pháp dữ liệu mảng.
Kết quả nghiên cứu:
Các ngân hàng thường đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Về cơ bản, ngân hàng là trung gian giữa thặng dư và thâm hụt của
một nền kinh tế bằng cách lấy tiền từ những người có tài chính nhưng không có nhu cầu
trước mắt và chuyển các quỹ này cho những người cần chúng.
Một quyết định quan trọng mà các ngân hàng phải đối mặt là sự lựa chọn nợ vốn
chủ sở hữu. Sự lựa chọn này là cần thiết để xác định lợi nhuận của các công ty. Điều
này có nghĩa là các ngân hàng có khả năng đưa ra quyết định tài chính của họ một cách
thận trọng sẽ có một lợi thế cạnh tranh trong ngành này và do đó làm cho lợi nhuận cao.
Tuy nhiên, điều cần thiết cho chúng ta nhận ra rằng quyết định này chỉ có thể được thực
hiện một cách khôn ngoan khi và chỉ khi các ngân hàng biết làm thế nào chính sách nợ
ảnh hưởng đến lợi nhuận của họ.
Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận ngân hàng
trong Ghana. Nghiên cứu bao gồm 14 ngân hàng trong giai đoạn 1997-2006. Phương
pháp dữ liệu mảng đã được sử dụng và những phát hiện chính của nghiên cứu được tóm
tắt như sau:
Thứ nhất, nó đã được quan sát thấy rằng 87% tổng số vốn của các ngân hàng
trong Ghana được tạo thành từ nợ. Trong số này, 65% cấu thành các khoản nợ ngắn hạn
trong khi 22% được tạo thành từ các khoản nợ dài hạn. Điều này đã nhấn mạnh lần nữa
thực tế là đánh giá cao các ngân hàng được có sử dụng vốn vay và cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của các khoản nợ ngắn hạn về các khoản nợ dài hạn trong tài chính ngân
hàng ở Ghana. Phát hiện này phù hợp với nghiên cứu trước đây như Abor (2005) và
Amidu (2007) nhấn mạnh tầm quan trọng của nợ ngắn hạn về tài chính công ty trong
Ghana. Tương quan giữa quy mô ngân hàng và lợi nhuận cho thấy các ngân hàng lớn
có khuynh hướng để lợi nhuận thấp hơn và phù hợp với mô hình đó, nhấn mạnh vai trò
tiêu cực của quy mô từ sự thiếu hiệu quả quy mô.

×