LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là do tôi độc lập
nghiên cứu, xây dựng trên cơ sở tiếp thu ý tưởng khoa
học của các tác giả đi trước dưới sự hướng dẫn của
PGS,TS. Trần Thành và PGS,TS. Phạm Duy Đức.
Các cứ liệu nêu ra trong luận án là trung thực dùa
trên sự tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được
công bố, đảm bảo tính khách quan, khoa học và nghiêm túc.
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận án
VÕ VĂN THẮNG
MỤC LỤC T
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan 01
Mục lục 02
Danh mục các chữ viết tắt 04
MỞ ĐẦU
05
Chương 1: KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG - MÉT QUÁ TRÌNH TẤT YẾU
TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG Ở VIỆT NAM
12
1.1. Tính tất yếu của việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa
của dân téc trong xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay.
1.1.1. Khái niệm giá trị văn hóa truyền thống.
1.1.2. Khái niệm lối sống và nội dung lối sống ở Việt Nam hiện
nay.
1.2. Tính tất yếu của việc kế thừa và phát huy các GTVH truyền
thống của dân téc trong xây dựng lối sống ở nước ta hiện
nay.
12
12
35
42
1.3. Các GTVH truyền thống của dân téc cần được kế thừa và phát
huy trong xây dựng lối sống hiện nay.
49
Chương 2: KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TÉC TRONG VIỆC XÂY
DỰNG LỐI SỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
52
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng lối sống ở Việt
Nam hiện nay.
2.1.1. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường.
2.1.2. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa.
2.1.3. Ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.1.4. Ảnh hưởng của lối sống tiểu nông
52
52
57
65
70
2.2. Thực trạng của kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống
của dân téc trong xây dựng lối sống ở Việt Nam trong đổi mới.
91
2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc kế thừa và phát huy các GTVH
truyền thống của dân téc trong xây dựng lối sống Việt Nam hiện nay.
2.3.1. Mâu thuẫn giữa kế thừa và phát huy các GTVH truyền
thống của dân téc trong xây dựng lối sống với việc coi thường
các GTVH truyền thống của dân téc, chạy theo lối sống thực
dụng, cá nhân vị kỷ.
120
120
2.3.2. Mâu thuẫn giữa kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống
của dân téc trong xây dựng lối sống với xu hướng phương Tây hóa
trong xây dựng lối sống.
2.3.3. Mâu thuẫn giữa kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống
của dân téc trong xây dựng lối sống với xu hướng bảo thủ, phục cổ
trong xây dựng lối sống.
124
126
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP KẾ THỪA VÀ PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA
DÂN TÉC TRONG XÂY DỰNG LỐI SỐNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
116
3.1. Phương hướng.
3.1.1. Kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống của dân téc
trong xây dựng lối sống gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.2. Kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống của dân téc
trong xây dựng lối sống gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của việc xây
dựng nền văn hóa VN đậm đà bản sắc dân téc.
116
117
118
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm kế thừa và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của dân téc nhằm xây dựng lối sống hiện nay.
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức các
giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa của dân téc để xây dựng
lối sống mới.
3.2.2. Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh chống nguy cơ
xói mòn các GTVH truyền thống làm suy thoái đạo đức, lối sống xã
hội.
3.2.3. Kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống của dân téc
trong xây dựng lối sống phải đảm bảo tính đa dạng, phong phú của
các dân téc, hướng đến hoàn thiện nhân cách con người trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.4. Kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống của dân téc
trong xây dựng lối sống gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
nhằm xây dựng lối sống văn minh, hiện đại.
3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện các thể chế về hoạt động văn hóa
nhằm kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống trong xây dựng
lối sống.
3.2.6. Đẩy mạnh công tác bảo tồn, tôn tạo và khai thác hợp lý các
di sản văn hóa truyền thống để xây dựng lối sống.
119
120
124
132
134
142
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
BNG Kí HIU CH VIT TT
- BCH: Ban chp hnh : Ban chấp hành
- TW: Trung ng : Trung ơng
- NQ: Ngh quyt : Nghị quyết
- Nxb: Nh xut bn : Nhà xuất bản
- TNCS: Thanh niờn Cng sn : Thanh niên Cộng sản
- GTVH: Giỏ tr vn húa : Giá trị văn hóa
- XHCN: Xó hi ch ngha : Xã hội chủ nghĩa
- KTTT: Kinh t th trng : Kinh tế thị trờng
- TS: Tin s : Tiến sĩ
- GS: Giỏo s : Giáo s
- PGS: Phú giỏo s : Phó giáo s
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta khẳng định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, công tác xây dựng
Đảng là then chốt; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân téc vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế -
xã hội phát triển. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng ta đã xác định,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân téc là một trong sáu đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội mới mà chúng ta xây dựng. Một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân téc chính là xây dựng tư tưởng, đạo đức và lối sống mới, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng quan hệ quốc tế trong xu
thế toàn cầu hóa, lối sống của nhân dân nước ta đã có những biến đổi đáng kể.
Mức sống của nhân dân được cải thiện đã tạo điều kiện để phát triển các nhu
cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Những thành
tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đã củng cố lòng tin của nhân dân vào con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hàng loạt các giá trị mới được hình thành, góp phần làm đa dạng và phong
phú lối sống của các tầng líp nhân dân. Sự tác động của quá trình phát triển
kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm cho các
cá nhân, các nhóm xã hội năng động, cởi mở và giàu khả năng thích nghi với
biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng
mở rộng cũng tạo điều kiện cho nhân dân tiếp thu các giá trị tốt đẹp trong lối
sống của các dân téc khác để bổ sung cho mình. Những mặt hạn chế của lối
sống nông thôn đang từng bước được khắc phục để phù hợp với xã hội đang
trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy vậy, vấn đề lối sống và xây dựng lối sống hiện nay cũng đang đặt
ra những thách thức mới, đặc biệt là vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống để xây dựng lối sống mới trong bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế. Hiện tượng suy thoái đạo đức, lối
sống đã và đang diễn ra phức tạp. Những biểu hiện của nó ngày càng rõ nét
hơn và đến mức không thể không quan tâm. Lối sống thực dụng, tham nhòng,
lãng phí có xu hướng gia tăng, gây nhức nhối đời sống xã hội. Hội nghị lần
thứ mười, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nhận định:
Khuyết điểm nổi bật là tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, nhiều mặt còn diễn biến
phức tạp và trầm trọng hơn, công tác đấu tranh chống tham nhòng, lãng
phí, quan liêu chưa đạt yêu cầu, trong khi đó, tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng, kỷ cương xã hội không nghiêm đã làm suy giảm lòng
tin của nhân dân, gây bức xúc trong đời sống xã hội [7, tr.14].
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Vấn đề kế thừa và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” là một
đề tài vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và việc
xây dựng lối sống là vấn đề đã được nhiều tập thể, nhiều nhà khoa học nước
ta và nước ngoài quan tâm, nghiên cứu ở những mức độ khác nhau.
Tiêu biểu cho các thành tựu nghiên cứu về văn hóa và kế thừa, phát
huy các giá trị văn hóa có thể kể đến các công trình sau:
- Công trình “Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam” (tập thể tác giả),
gồm 02 tập, Nxb Thông Tin Lý luận, Hà Nội, 1983 và “Giá trị tinh thần
truyền thống của dân téc Việt Nam” của GS Trần Văn Giàu, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh (tái bản 1993) đã phân tích một cách sâu sắc về các giá trị tinh
thần truyền thống của người Việt Nam. Đặc biệt, ở góc độ sử học và đạo đức
học, GS Trần Văn Giàu đã phân tích sự vận động của những giá trị tinh thần
truyền thống qua những sự kiện phong phú của lịch sử Việt Nam.
- Các công trình của GS Trần Đình Hượu với “Đến hiện đại từ truyền
thống” do Chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước KX-07 xuất bản;
GS,TS Đỗ Huy và Trường Lưu với “Sự chuyển đổi các giá trị văn hóa trong
văn hóa Việt Nam”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993 và Nguyễn Thu
Linh trong luận án “Tính kế thừa trong sự phát triển của nền văn hóa Việt
Nam” (Ở thời kỳ quá độ lên CNXH) là những công trình có tính chất chuyên
sâu về kế thừa giá trị truyền thống văn hóa.
Tác giả những công trình này đã nghiên cứu vấn đề kế thừa các giá trị
truyền thống trên bình diện chung của văn hóa dân téc Việt Nam.
Ở phạm vi hẹp hơn, trong luận án tiến sĩ của Cù Huy Chử (1995), tác
giả đã đứng trên quan điểm giá trị để nghiên cứu vấn đề “Kế thừa giá trị
truyền thống văn hóa dân téc trong xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt
Nam”. Qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự kế thừa
các giá trị truyền thống văn hóa dân téc để xây dựng nền văn hóa nghệ thuật
Việt Nam.
Gần đây đã có nhiều hội thảo chuyên sâu, nhiều công trình cấp nhà
nước nghiên cứu về giá trị đặc trưng của văn hóa dân téc Việt Nam và vai trò
của nó trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân téc.
- Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) cùng tập thể tác giả đã thực hiện đề
tài khoa học cấp nhà nước KHxã hội 04-02: “Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân téc”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001. Xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, những yếu tố cấu thành của nó,
những tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa hơn nửa thế kỷ qua,
nhóm tác giả đã khảo sát thực trạng văn hóa, đạo đức lối sống, đặc biệt là
của thanh niên, qua đó đề xuất một số giải pháp để xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân téc.
- GS,TS. Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS,TS Nguyễn Văn Huyên
(đồng chủ biên) quyển: “Giá trị truyền thống trước những thách thức của
toàn cầu hóa” gồm các bài viết đề cập đến vấn đề giữ gìn và phát huy các
giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa để xây dựng nền văn hóa
hiện nay ở Việt nam hiện nay.
- GS,TS Đỗ Huy trong cuốn: “Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến
đổi của nó trong thế kỷ mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, trên cơ
sở nhìn lại văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XX, tác giả đã đề cập đến việc xây
dựng những GTVH Việt Nam trong thế kỷ mới.
Ngoài những công trình nghiên cứu lĩnh vực này, phải kể đến các
công trình nghiên cứu về lối sống, lối sống xã hội chủ nghĩa và xây dựng
lối sống hiện nay:
- “Lối sống xã hội chủ nghĩa” của tập thể tác giả là tiến sĩ triết học,
kinh tế học, viện sĩ thông tấn Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô (cũ). Các
tác giả đã xem xét những vấn đề cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa,
những đặc trưng cơ bản của nó, các phương hướng chủ yếu tiếp tục hoàn
thiện lối sống xã hội chủ nghĩa.
- Ở góc độ đạo đức, tập thể tác giả là nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
nhà lý luận nước ta đã tiếp cận khái niệm lối sống như là một phạm trù Đạo
đức học trong quyển “Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng
viên hiện nay - Thực trạng và giải pháp” (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004). Qua đó, các tác giả phân tích thực trạng vấn đề đạo đức, lối sống và đề
ra các giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
- TS Nguyễn Viết Chức (chủ biên) với quyển “Xây dựng tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do Viện Văn hóa và Nhà xuất
bản Văn hóa - Thông tin xuất bản, Hà Nội, 2001, gồm các bài tham luận của
nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa, ở những góc độ khác nhau đã đề
cập đến tầm quan trọng và cần thiết của việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội.
- Trên bình diện xem xét bản sắc văn hóa dân téc, PGS,TS. Lê Như
Hoa đã đề cập đến vấn đề nếp sống, lối sống, lối sống đô thị, lối sống gia đình
trong giai đoạn hiện nay. Các vấn đề này được tác giả đề cập trong quyển
“Bản sắc văn hóa trong lối sống hiện đại”, do Viện Văn hóa và Nhà xuất bản
Văn hóa - Thông tin xuất bản, Hà Nội 2003.
- Ở góc độ tâm lý, tập thể tác giả thuộc Hội Khoa học Tâm lý - Giáo
dục Việt Nam, Viện nghiên cứu con người và Viện Khoa học xã hội Việt
Nam trong quyển “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - Những điều cần khắc phục” (GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên), do
Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản, Hà Nội, 2004, đã đề cập đến những mặt
mạnh, mặt yếu, khẳng định những cái hay cần kế thừa, phát huy, những điều
dở cần khắc phục trong lao động, học tập và lối sống của người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời đề xuất một
số kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát triển con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Về mặt lý luận và thực tiễn, các công trình đã nêu, ở những phương
diện khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho việc kế thừa các giá trị
văn hóa truyền thống trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
trong quá khứ cũng như hiện tại.
Đây là một trong những vấn đề phong phú, phức tạp đòi hỏi phải tiếp
tục được nghiên cứu cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Hơn nữa, đến nay, chưa có
công trình nào tập trung nghiên cứu vấn đề kế thừa và phát huy các GTVH
truyền thống của dân téc trong xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay từ bình
diện triết học như là một công trình nghiên cứu chuyên biệt có hệ thống và
hoàn chỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm rõ vai trò của việc kế thừa và phát huy các GTVH
truyền thống của dân téc trong xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay, luận án
đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng của quá trình này, đề xuất phương
hướng và các giải pháp nhằm kế thừa và phát huy tốt hơn các GTVH truyền
thống để xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
- Làm rõ việc kế thừa và phát huy các GTVH truyền thống như một
quá trình tất yếu trong xây dựng lối sống mới ở nước ta trong thời kỳ đổi
mới hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc kế
thừa và phát huy các GTVH truyền thống trong xây dựng lối sống ở nước ta
hiện nay.
- Đề ra phương hướng, giải pháp chủ yếu để kế thừa và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân téc trong xây dựng lối sống ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề xây dựng lối sống ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, mở cửa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề lớn và bao gồm
nhiều phương diện khác nhau. Trong khuôn khổ của đề tài này, luận án chỉ
tập trung vào vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị tích cực của văn hóa
truyền thống nhằm xây dựng lối sống mới. Đây là cách tiếp cận triết học đối
với vấn đề truyền thống văn hóa và xây dựng lối sống hiện nay. Vì vậy, vấn
đề khảo sát và đánh giá thực trạng chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát chung để
tìm ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực tế của công việc kế
thừa này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lô gích và lịch sử, phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ thống nhằm thực hiện
mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm sáng rõ tính tất yếu của việc kế thừa và phát
huy các GTVH truyền thống của dân téc trong việc xây dựng lối sống ở
nước ta hiện nay.
- Luận án tập trung phân tích, đánh giá thực trạng việc kế thừa và phát
huy các GTVH truyền thống của dân téc trong xây dựng lối sống ở nước ta
trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất phương hướng, các giải pháp chủ yếu
để kế thừa và phát huy các GTVH dân téc trong xây dựng lối sống mới.
- Kết quả của luận án có thể được dùng làm tư liệu tham khảo cho
công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa, cho công tác nghiên cứu và giảng dạy
về Triết học và Văn hóa học ở các trường chính trị, các trường đại học và cao
đẳng ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CỦA DÂN TÉC - MỘT QUÁ TRÌNH TẤT YẾU TRONG XÂY
DỰNG LỐI SỐNG Ở VIỆT NAM
TruyÒn Thèng Cña D¢N Téc - Mét Qu¸ Tr×nh TÊt YÕu TRONG X¢Y
Dùng Lèi Sèng ë ViÖt NAM
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm giá trị văn hóa truyền thống
Khái niệm văn hóa là khái niệm động và mở. Ngày nay, không ai phủ
nhận tính đa dạng và phức tạp của khái niệm văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa không
còn giới hạn trong khuôn khổ của một khoa học mà là sự “hỗn loạn”, sự đa
chiều (Pluraliseme) của nhiều khoa học. Điều này đã dẫn đến việc có quá
nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa ở cả Phương Đông lẫn Phương Tây.
Mặc dù vậy, theo các nhà nghiên cứu văn hóa, phải đến thế kỷ XVII, khái
niệm văn hóa mới thực sự được sử dụng như thuật ngữ khoa học (Pufendorf).
Từ đó đến nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa.
Trong quyển “Cultural anthropology” (Nhân chủng học Văn hóa), giáo
sư Richley H.Crapo cho rằng, hai nhà khoa học Mỹ A.L.Krober (Alfred
Kroeber) và Kluckhôn (Clyde Kluckhohn) đã khảo sát 158 định nghĩa về văn
hóa [92, tr.24]. Năm 1967, Abraham Moles, nhà Văn hóa học Pháp cho rằng,
có 250 định nghĩa về văn hóa. Ở Việt Nam, năm 1994, GS Phan Ngọc cho
rằng, một nhà dân téc học người Mỹ đã dẫn ra 400 định nghĩa khác nhau về
văn hóa. Còn Từ Hồng Hưng, nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa cho rằng,
có đến hàng nghìn định nghĩa về văn hóa.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, ở phương Đông lẫn Phương Tây,
có những quan điểm giống nhau và khác nhau về văn hóa.
Ở phương Tây, W.Wundt, nhà ngôn ngữ Đức cho rằng, từ văn hóa
xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ (khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, có
nguồn gốc từ tiếng La tinh “Cultura” (Có tài liệu viết Cultus). Giáo sư ngôn
ngữ người Đức Claire Kramisch tại Đại học California trong quyển
“Language and culture” (Ngôn ngữ và Văn hóa) do Series Edition
H.G.Widdowsion xuất bản, cho rằng, văn hóa bắt nguồn từ chữ Latin:
COLERE (To cultivate) và nó được xem như cái được vun trồng, chăm sóc
(Culture refers to what has been grown and groomed) [91, tr.4]. Trong văn tự
Latin, từ này có nghĩa là trồng trọt, cày cấy, cư trú, luyện tập, lưu tâm hoặc
chú ý kính quỷ thần v.v…
Thời Cổ đại, văn hóa được quan niệm như những gì gắn liền với giáo
dục, đào tạo con người, làm cho con người hoàn thiện.
Thời kỳ Phục hưng ở Phương Tây, F. Bê-cơn (Francis Becon 1561-
1626), nhà triết học Anh cho rằng, sự gieo trồng linh hồn là sự nảy nở tri thức,
là sự tiến bộ. Tômas-Hốp (Thomas Hobbes 1588 - 1675) còng coi sự giáo
dục, truyền đạt kiến thức là sự giao tiếp tinh thần.
Bước sang thế kỷ XVIII, khái niệm văn hóa được sử dụng rộng rãi hơn.
Pufendorf, nhà nghiên cứu pháp luật người Đức (1774) cho rằng, văn hóa là
toàn bộ những gì được tạo ra bởi lao động xã hội, nghĩa là nó đối lập với trạng
thái tự nhiên. Vôn-te (Voltaire 1699 -1778), nhà văn kiêm triết gia Pháp và
J.G.Hec-đơ (J.G. Herder 1744 - 1803) nhà triết học, sử học người Đức đã cố
gắng xác lập nguyên lý cho văn hóa. Ông cho rằng, văn hóa là sự hình thành
lần thứ hai của con người: “Người, trên dòng chảy lịch sử của mình, xuất phát
từ tự nhiên, tiến bước trên con đường của văn hóa” [13, tr.41]. Sau Hecđơ,
Ađơloong (Adelung) người Đức, cũng là người đầu tiên quan niệm lịch sử
văn hóa như là lịch sử phát triển xã hội, đối lập với lịch sử các triều đại.
Người ta thấy, nếu năm 1776 từ văn hóa xuất hiện trong Thư tịch thì năm
1783 khái niệm này có mặt trong Từ điển Đức và 1870 xuất hiện trong Từ
điển Nga như một thuật ngữ khoa học.
Đến đầu thế kỷ XIX, triết học Cổ điển Đức đã đạt sự tiến bộ trong quan
niệm về văn hóa. Trước hết phải kể đến quan niệm của I. Căng (I.Kant) về
Văn hóa. Ông cho rằng: “Khả năng con người đặt ra cho chính mình những
mục đích tự do, nên phụ thuộc vào tính tất yếu của tự nhiên bên ngoài và thể
xác mình chính là mục đích cuối cùng của tự nhiên đồng thời đó cũng chính
là văn hóa” [Theo40,Tr44]. Cùng thời với I.Kant là I.Sinle (F.Schiller 1759 -
1805). Ông là nhà thơ, nhà viết kịch Đức, xem văn hóa là nơi bộc lé sức mạnh
cá nhân con người. Sau I.Kant và F.Sinle phải kể đến nhà triết học F. Hêgel
(F.Hegel 1770 - 1831). F.Hêgel cho rằng, lĩnh vực hoạt động sinh sống trực
tiếp của con người là xã hội, là gia đình văn hóa, trong đó thực hiện mối quan
hệ qua lại giữa con người và tự nhiên. Ông cũng xác định vị thể văn hóa trong
sáng tạo vật chất và tinh thần của con người. Tuy nhiên, theo F.Hêgel, văn
hóa bậc cao nằm trong nghệ thuật là sự khám phá chân lý thông qua hình thức
cảm quan hình tượng toàn vẹn; Văn hóa tôn giáo là sự khám phá chân lý
thông qua hình thức cảm nhận huyền bí; Văn hóa của triết học là văn hóa cao
nhất, vì nó có thể phản ánh bản chất sâu sắc của sự việc. Tuy nhiên, hạn chế
của F.Hêgel là xem xét quá trình văn hóa như một quá trình chiếm lĩnh “tinh
thần thế giới” chứ không phải quá trình chiếm lĩnh, cải tạo thế giới hiện thực.
Do vậy, ta dễ phát hiện tính duy tâm siêu hình trong quan niệm về văn hóa
của ông. Có thể nói, từ giữa thế kỷ XIX, khái niệm văn hóa đã đạt đến mức
trở thành đối tượng cho ngành khoa học mới ra đời: Văn hóa học.
Năm 1885, trong tác phẩm “Khoa học chung về Văn hóa”, Klemm xem
sự phát triển của xã hội loài người chính là sự phát triển văn hóa. Đặc biệt,
năm 1871, ông tổ ngành Nhân chủng học nổi tiếng người Anh E.B.TâyLo
(E.B.Tylor 1832 - 1917) xuất bản quyển “Văn hóa Nguyên thuỷ” ở Luân Đôn.
Trong quyển này, ông để trọn một chương trình bày “Đối tượng của khoa học
và văn hóa”. Và lần đầu tiên, ông đưa ra khái niệm văn hóa như một thuật ngữ
chuyên môn và nhìn văn hóa như một tổng thể thành tựu cơ bản của con
người: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về téc người học, nói chung
gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một
số năng lực và thãi quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một
thành viên xã hội” [83,Tr13]. Định nghĩa này thể hiện tính tích cực của văn
hóa. Phrăng Bôát (Franz Boas 1858 - 1942) quan niệm, “Văn hóa là sự biểu
hiện những thành tựu tinh thần và biểu lé những động tác tích luỹ được của
hoạt động của nhiều trí óc - Văn hóa mang tính cấu trúc, tính đa dạng và
tương đối” [14,Tr15]. Qua định nghĩa trên, ta thấy, Bôát phân biệt rõ sự phát
triển văn hóa với sự phát triển tinh thần, mặc dù ông thấy nó có liên quan.
Khác với Phrăng Bôát, nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sĩ Xoxtuyrow F.D (1857 -
1913) đã đề xuất nghiên cứu văn hóa bằng lý thuyết hệ thống - cấu trúc. Ông
vận dụng phân tâm học, ngôn ngữ học, vật lý học và toán học để đề ra phương
pháp tiếp cận mới là chủ nghĩa cấu trúc. Theo hướng này, E.Cassiver (1875 -
1945) nhà triết học Đức, một điển hình của chủ nghĩa Kant mới cho rằng,
“Văn hóa là sự đa dạng của các hình thức khác nhau như ngôn ngữ thần thoại,
tôn giáo, nghệ thuật và nhiều hình thức lý luận” [Theo40,Tr84]. Các hình thức
văn hóa này tạo thành một chỉnh thể nhờ sự thống nhất bên trong. Điều này
tạo nên sự khác nhau giữa các nền văn hóa của các dân téc. Chính vì vậy,
Robert Lado, giáo sư đại học Michigan, Mỹ đã quan niệm rằng, “văn hóa”
như chúng đã hiểu, nó đồng nghĩa với “cách thức, lề thãi của một dân tộc”
[90,Tr52]. A.Schweitzer (1875 - 1965), TS Triết học từng nhận giải thưởng
Goethe (1928), giải thưởng Nobel (1952), một bác sĩ giàu lòng nhân đạo, một
trong những người sáng lập Triết học Văn hóa, đồng thời là nhà nghiên cứu
Âm nhạc, Mỹ học đã kế thừa các quan điểm I. Kant, F.Hegel, I.Goethe về văn
hóa. Ông cho rằng, “Văn hóa là bất kỳ khả năng tiến bộ nào, cả ở trong hoạt
động vật chất lẫn trong hoạt động của con người. Còn chủ nghĩa nhân đạo, đó
là mối quan hệ đạo đức mang tính phổ quát và được thể hiện dưới bất kỳ hình
thức nào” [Theo40,Tr110].
Hệ thống hóa một số quan điểm về văn hóa, ta thấy, các định nghĩa đã
trình bày chưa bao quát được toàn bộ bản chất văn hóa. Tuy nhiên, những
quan điểm nêu trên có một điểm chung cơ bản là coi văn hóa là sản phẩm đặc
biệt của con người; đem văn hóa đối lập với tự nhiên.
Ở phương Đông, các nhà nghiên cứu cho rằng, vào thời Cổ đại, chưa
có định nghĩa về văn hóa. Theo nhiều tài liệu cho thấy, từ “văn hóa” xuất hiện
ở Trung Quốc vào thời Tây Hán (206 trước Công nguyên - 23 năm sau Công
nguyên). Thời Cận đại và Hiện đại, người ta đã gán cho khái niệm văn hóa
nhiều nghĩa mới. Phạm vi của nó rất rộng, vừa bao hàm cả sản phẩm vật chất,
vừa cả phong tục, tập quán, hành vi cá nhân, thậm chí cả chế độ xã hội
v.v Thời cổ Trung Quốc, người ta dùng nó với nghĩa hẹp hơn. “Văn” trong
Thư tịch cổ hàm ý văn tự, văn giáo, văn đức, chỉnh trang, nhân tạo, dấu
tíchv.v…Vì vậy, Khổng Tử xem “văn” là một trong bốn môn giáo dưỡng. Và
khi “văn’ và ‘hóa” gắn bó nhau thì nó tạo nên từ mới hàm ý chỉ Thi, Thư, Lễ,
Nhạc, giáo hóa đạo đức con người. Rộng hơn nữa là chỉ chính trị. Ngoài ra,
người ta cho rằng, từ văn hóa cổ xuất hiện trong Thóan truyện của Quẻ Bí
(Kinh Dịch): “Quan hồ thiên văn, dĩ sát thời biến; quan hồ nhân văn, dĩ hóa
thành thiên hạ, nghĩa là: Quan sát thiên văn để xét sự dời đổi của bốn mùa;
xem văn vẻ của người để giáo hóa thiên hạ”. Nhà Kinh học đời Đường,
Khổng Dĩnh Đạt đã giải thích trong Chu dịch chính nghĩa, cái gọi là “nhân
văn hóa thành” có hai nội dung: một là, chỉ những sách kinh điển như Thi,
Thư, Lễ; hai là, chỉ phong tục, lễ nghĩa của con người”[46,Tr30]. Trình Di,
nhà Lý học đời Bắc Tống giải thích câu trên rằng, “nhân văn” chỉ mối quan hệ
nhân luân, quan sát nhân văn để giáo hóa thiên hạ. Như vậy, từ văn hóa thời
cổ dùng chủ yếu để chỉ văn trị, giáo hóa, dùng văn để giáo hóa thiên hạ. Lưu
Hướng, đời Hán, viết trong quyển Thuyết uyển, bài Chỉ vũ: “Bậc thánh nhân
trị thiên hạ, trước dùng văn đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm động dụng đến
võ là để đối phó với kẻ không chịu phục, giáo hóa bằng văn mà không chịu
thay đổi thì sau mới trừng phạt” [46,Tr30]. Quan niệm này gần với Tấn Thúc
Tích viết trong Bổ vong thi: Văn hóa nội tập, vũ công ngoại du, nghĩa là giáo
hóa bằng văn để hoà mục bên trong, dùng vũ công để dẹp yên bên ngoài.
Khổng Tử nói: “Chất quá mức của văn thì thô dã, văn quá mức của chất thì
loè loẹt. Văn và chất hài hoà với nhau mới là quân tử” [14,Tr9].
Về sau, Cố Viêm Vũ giữa thời kỳ Minh - Thanh đưa ra quan niệm
tương đối rộng hơn về văn hóa. Ông cho rằng: “Từ thể xác và tâm hồn một
con người cho đến gia đình, nhà nước, thiên hạ, tất cả quy chế, âm thanh, hình
tượng, không có cái gì không thuộc về văn hóa” [82,Tr119]. Nhà Nho Bành
Thân Phủ đời nhà Thanh cũng có cách lý giải tương tự. Ông cho rằng, xét về
đại cục, chế độ Lễ, Nhạc của quốc gia, đó là văn hóa. Ở phạm vi hẹp hơn, xe,
ngựa, trang phục của mỗi người, kiến trúc nhà cửa của một gia đình, đó cũng
là văn hóa. Chính vì vậy, Lý Kim Sinh (Ly Jin Shèng) trong bài “Quan niệm
về văn hóa của thời cổ” (Cổ đại đích văn hóa quan) đã nhận xét rằng, “quan
niệm Cổ đại ở Trung Quốc về văn hóa là quan niệm văn hóa lấy học thuyết
Nho gia làm chính” [56,Tr117-120]. Họ cho rằng, nội dung chủ yếu của văn
hóa là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, chế độ chính trị, luân thường đạo lý, chế độ lễ nghi
và hàng loạt những quan niệm, tập tục đã trở thành lễ tục. Giáo hóa văn trị là
ở chỗ thực hành Tam cương, Ngò thường, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, đó chính là cốt
lõi của quan niệm văn hóa Trung Quốc Cổ đại. Quan niệm này đã bị phong
trào tư tưởng mới về văn hóa Thời Ngò Tứ phê phán, chống lại. Trần Độc Tó
(cùng với Lý Đại Chiêu, Lỗ Tấn, Hồ Thích, Ngô Ngu là những chủ tướng của
phong trào Văn hóa Mới) đã nêu nội dung chủ yếu của văn hóa mới là đề cao
khoa học, dân chủ và cách mạng văn học, lấy đó để phê phán học thuyết Nho
gia mà trung tâm của nó là Tam cương, Ngò thường. Hai khẩu hiệu lớn của
quan niệm văn hóa mới là “Dân chủ” (tức “Đức tiên sinh, democracy, còn gọi
là nhân quyền”) và “Khoa học” (“Tái tiên sinh”, Science).
Quan niệm về văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc hơn được thể
hiện trong hệ thống triết học Mác - Lênin.
Các-Mác trình bày vấn đề văn hóa trong các tác phẩm: Hệ tư tưởng
Đức (1844), Góp phần phê phán khoa Kinh tế, chính trị (1859), Bộ Tư bản,
Nguồn gốc gia đình và chế độ tư hữu và của nhà nước (Ăngghen, 1884). Qua
các tác phẩm, ta thấy, Mác-Ăngghen cho rằng, văn hóa bắt nguồn từ lao
động. Các-Mác viết,
chóng ta buộc phải bắt đầu bằng việc xác định tiền đề đầu tiên
của mọi sự tồn tại, của con người, do đó cũng là tiên đề của mọi lịch
sử. Êy là người ta phải có khả năng sống mới có thể “làm ra lịch sử”.
Nhưng muốn sống được thì trước hết người ta phải có thức ăn, thức
uống và một vàI thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là sản
xuất ra bản thân đời sống vật chất [58,Tr39-40].
Từ đây, Mác cho rằng, khởi điểm của hành vi lịch sử đầu tiên là văn
hóa. Văn hóa như là sự thăng hoa của quá trình sản xuất vật chất, là cái để con
người khẳng định mình. Và do vậy, bản chất con người luôn sáng tạo theo
quy luật của cái đẹp. Mác viết: “Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo
và nhu cầu của giống loài nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo
của bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho
đối tượng; do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”
[57,Tr18].
Quan niệm của Mác, Ăngghen về văn hóa đã được V.I.Lênin kế thừa
và phát triển. Với V.I.Lênin, văn hóa luôn gắn liền với phát triển và hoàn
thiện con người, hoàn thiện xã hội. Ông viết: “Một trong nhiệm vụ của chính
quyền Xô Viết mà chính quyền đó phải đeo đuổi một cách kiên định là làm
cho những người lao động và những người bị bóc lột có thể thực sự hưởng
được tất cả những phóc lợi của nền văn minh và dân chủ” [49,Tr31-32].
Ở Việt Nam, từ lâu đã có nhiều nhà nghiên cứu quan niệm khác nhau
về văn hóa. Vào những năm giữa thế kỷ XX, chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa [62,Tr431].
Như vậy, chính chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm văn hóa theo nghĩa
rất rộng.
Năm 1994, UNESCO đưa ra một khái niệm mới về văn hóa:
Văn hóa, đó là một phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo
về tinh thần, vật chất, trí thức và tình cảm khắc hoạ nên bản sắc của
một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn
hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những
truyền thống, tín ngưỡng [85đd,Tr47].
Gần đây nhất, ở phương Tây, có một định nghĩa về văn hóa được xem
là rộng nhất và “đúng nhất” được đồng tình rộng rãi, đó là định nghĩa của
Teihard de Chardin. Ông cho rằng, “sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ sự xuất
hiện của cuộc sống, ông gọi là “sinh quyển” (Biosphère). Tiếp sau đó là “tri
quyển” (Noophère), quyển về tư duy, về ý thức tinh thần do con người tạo ra.
Tri quyển là văn hóa, là thế giới thứ hai do con người sáng tạo nên”
[19,Tr24]. Ta thấy, quan điểm này cũng rất gần với quan niệm của UNESCO
về văn hóa.
Từ những định nghĩa đã nêu, chúng ta thấy, các nhà nghiên cứu đều có
những điểm chung trong quan niệm về văn hóa:
Thứ nhất, văn hóa bao gồm văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất chứ
không chỉ là văn hóa tinh thần hay văn hóa nghệ thuật;
Thứ hai, văn hóa là sự sáng tạo của con người hướng tới giá trị CHÂN-
THIỆN-MỸ. Do vậy, nó trở thành dấu hiệu téc loại để phân biệt con người
với động vật khác;
Thứ ba, nói đến văn hóa là nói đến tính hệ thống với chức năng tổ chức
xã hội, tính giá trị với chức năng điều tiết xã hội, tính lịch sử với chức năng
giáo dục, tính nhân bản với chức năng giao tiếp;
Thứ tư, văn hóa về bản chất là một quá trình phát triển mang tính
người, nó là cái đặc trưng cho một cộng đồng dân téc.
Trên cơ sở tiếp thu những quan niệm khác nhau về văn hóa, chúng tôi
cho rằng: Văn hóa là phạm trù chỉ toàn bộ hoạt động sáng tạo ra vật chất và
tinh thần của con người, vì sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng
dùa trên nền tảng của phương thức sản xuất nhất định, được biểu hiện ra như
là một hệ giá trị vận động và phát triển trong cộng đồng người.
Từ khái niệm văn hóa, luận án tiếp cận khái niệm giá trị văn hóa.
Nhưng để tìm hiểu khái niệm giá trị văn hóa, trước hết hãy làm rõ khái niệm
giá trị.
Từ “giá trị” có từ chữ Hy Lạp “axios”. Trong tiếng Anh được viết là
“value” và “valeur” trong tiếng Pháp. Vấn đề “giá trị” được đặt ra trong Triết
học Ên Độ, Trung Hoa, Hy Lạp thời Cổ đại. Tuy vậy, ở thời kỳ này, người ta
chủ yếu đề cập đến nó ở góc độ Mỹ học. Chẳng hạn, người ta bàn thế nào là
cái đẹp, cái chân, cái thiện, cái Ých, cái dông. Ở phương Tây, khái niệm này
xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII, gắn liền với việc xem xét lại cách luận
chứng truyền thống về Đạo đức học đặc trưng cho thời kỳ Cổ đại và Trung
cổ. Khái niệm giá trị lần đầu tiên xuất hiện ở Căngtơ (I.Kant). Ông đem đối
lập lĩnh vực đạo đức (tự do) với lĩnh vực tự nhiên (tất yếu). Mãi đến thế kỷ
XIX, vấn đề này mới được đề cập một cách đầy đủ hơn bởi các nhà Giá trị
học: Lốtxơ, Nitzch, Hácman, Điuây. Vào giữa thế kỷ XIX, lần đầu tiên, Lốtxơ
đưa ra học thuyết về “giá trị” tương đối đầy đủ. Trên cơ sở phê phán Chủ
nghĩa Duy lý và Chủ nghĩa Tương đối, Lốtxơ cố gắng luận chứng cho tính
chân lý của nhận thức dùa trên khái niệm “giá trị khách quan” của chân lý
logic và chân lý toán học. Cũng giống như Căngtơ, ông đồng nhất tồn tại với
thực tồn kinh nghiệm. Và do vậy, ông đặt giá trị cao hơn tồn tại. Vinđenban,
học trò của Lốtxơ, một trong những người lập nên trường phái Bađen của Chủ
nghĩa Căngtơ mới, coi giá trị là những chuẩn mực tạo thành cái phông chung
cho mọi chức năng của văn hóa và là cơ sở của bất cứ việc thực hiện giá trị
riêng biệt nào. Khi cố gắng kết hợp triết học phê phán của Căngtơ với học
thuyết về giá trị của Lốtxơ, Vinđenban chuyển vấn đề giá trị sang ngôn ngữ
Triết học Văn hóa: “Ở ông, chân lý, cái thiện và cái đẹp thể hiện với tư cách
là giá trị, còn khoa học, pháp luật, nghệ thuật và đặc biệt là tôn giáo được xem
như là những giá trị thiện mỹ của văn hóa mà thiếu chúng con người không
thể tồn tại” [84,Tr223]. Gần với quan niệm về giá trị của Vinđenban, nhưng
khác chút Ýt với Lốtxơ, Richcớt - người thảo ra học thuyết Giá trị với tư cách
là cơ sở của học thuyết về tri thức đúng đắn và hành vi đạo đức - cho rằng, cơ
sở của khoa học là ý chí của chủ thể siêu cá thể, ý chí muốn có chân lý. Ý chí
phổ biến chõng nào thì giá trị chung của khoa học cũng như những mệnh lệnh
đạo đức phổ biến chõng Êy. Từ đây, ông cố gắng phân biệt giá trị và chuẩn
mực: “Giá trị hay ý nghĩa chỉ trở thành chuẩn mực trong trường hợp nếu một
chủ thể nào đó chú ý đến nó” [84,Tr224]. Nhưng từ “giá trị” được dùng theo
nghĩa của Triết học Văn hóa phải kể đến quan điểm của nhà Nhân học Hoa
Kỳ, Kluckhôn (Clyde Kluckholn). Ông cho rằng: “Giá trị mang trong bản
thân nó những quan niệm bộc lé hay thầm kín về cái ao ước riêng của một cá
nhân hay một nhóm người. Những quan niệm Êy chi phối sự lùa chọn các
phương thức, phương tiện và mục đích khả thi của hành động” [41,Tr54].
Trên tinh thần tiếp thu chủ nghĩa Mác, các nhà nghiên cứu Viện Lịch
sử Kinh điển ở Laixích - Đức cho rằng:
Giá trị giống như là điểm tích tụ về tư tưởng của một giai cấp
hoặc của một chế độ xã hội nhất định. Điều đó có nghĩa là, giá trị thể
hiện một cách lịch sử cụ thể các mục tiêu, quy tắc, lý tưởng về lợi Ých
xã hội, các yêu cầu của một chế độ xã hội và của một giai cấp nhất
định. Do đó, trong nhiều trường hợp, giá trị là định hướng phát triển cơ
bản của đời sống tinh thần nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định [41đd,Tr54].
Qua một số ý kiến trên, có thể nói rằng, giá trị là một lĩnh vực rất phức
tạp. Ngày nay, nó trở thành đối tượng nghiên cứu của ngành khoa học riêng
nó, đó là Giá trị học (Axiologie).
Có thể nói, khi nói đến giá trị là nói đến giá trị vật chất lẫn giá trị tinh
thần và phải nói đến quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Nghĩa là, không phải
chỉ bản thân các hiện tượng tự nhiên là giá trị. Hiện tượng tự nhiên chỉ trở
thành giá trị khi nó được đặt trong mối quan hệ thực tiễn với con người xã
hội. Nếu thừa nhận bản thân giới tự nhiên là một giá trị thì sẽ đưa chúng ta
đến một sai lầm là rơi vào Chủ nghĩa Duy vật tầm thường. Bởi lẽ, thế giới
khách quan trong quan hệ với con người là giá trị chứ không phải bản thân
nó. Cho nên, ở góc độ Triết học Văn hóa, bản thân đời sống xã hội của con
người là một thế giới giá trị rất phong phó.
Mác bác bá quan niệm về giá trị như kiểu đánh giá chủ quan của cá
nhân, đặc biệt là kiểu ca ngợi “giá trị văn hóa tư tưởng” của Chủ nghĩa Tư
bản, đồng thời bảo vệ các giá trị chung của loài người, đấu tranh nhằm biến
các giá trị Êy thành của quần chúng nhân dân. Giá trị được đo bằng thước đo
của dân téc, cộng đồng, xã hội và thời đại. Theo Mác, khi nói đến giá trị là
phải nói đến quan hệ. Quan hệ đó nảy sinh từ thực tiễn lao động sản xuất vật
chất và đời sống xã hội của con người. Như vậy, tuy có yếu tố chủ quan trong
xem xét giá trị, nhưng giá trị hình thành và tồn tại có tính khách quan. Nghĩa
là, các giá trị vật chất hay giá trị tinh thần không phụ thuộc vào một cá nhân
này hay cá nhân khác. Giá trị phải được đánh giá bởi hệ chuẩn mực nhất định.
Chuẩn mực phụ thuộc vào thế giới quan, nhân sinh quan, trình độ dân trí, hệ
tư tưởng của một giai cấp, một cộng đồng xã hội. Hệ chuẩn giá trị có tác dụng
định hướng cho xã hội phát triển. Chuẩn mực giá trị của mỗi cộng đồng dân
téc, mang tính lịch sử-cụ thể. Trong hoàn cảnh này, cái gì đó là giá trị, nhưng
trong hoàn cảnh khác, nó là phản giá trị. Do vậy, về bản chất, giá trị có quan
hệ với đánh giá. Mà đánh giá là mang tính chủ quan. Chính vì thế, giá trị là
biểu hiện của sự thống nhất giữa cái chủ quan và khách quan, nhưng cái chủ
quan này phải được xã hội chấp nhận.
Trong các chế độ xã hội khác nhau sẽ có hệ chuẩn mực để đánh giá giá
trị khác nhau. Trong thực tiễn phát triển xã hội, ở những bình diện khác nhau,
mỗi dân téc, mỗi giai cấp có hệ giá trị khác nhau. Điều này làm cho giá trị
mang tính giai cấp, tính dân téc, tính lịch sử xã hội. Như vậy, từ những vấn đề
đã trình bày, ta thấy, khi nói đến giá trị là phải nói đến cái khách thể và cái
chủ thể, bởi lẽ, giá trị như là “người bạn đồng hành” của lịch sử đời sống con
người.
Từ đây, có thể đi đến định nghĩa, giá trị là một một phạm trù chỉ ý
nghĩa của các hiện tượng vật chất và tinh thần được cộng đồng quan tâm
thừa nhận trên cơ sở thoả mãn nhu cầu hay lợi Ých nhất định.
Cho nên, có thể nói, giá trị là phạm trù riêng của loài người, thực chất
là đem lại lợi Ých (vật chất cũng như tinh thần) cho con người, thực chất và ý
nghĩa bao quát của giá trị là tính nhân văn; có nghĩa nó là tất cả những gì đem
lại sự phát triển, sự tiến bộ cho con người - xã hội. Như vậy, giá trị bao hàm
trong nó một ý nghĩa nhân văn.
Chức năng cơ bản nhất của giá trị là định hướng, đánh giá và điều
chỉnh các hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Giá trị luôn gắn với nhu cầu
của con người và xã hội. Điều này tạo nên một động cơ mạnh mẽ cho hoạt
động của con người và cộng đồng xã hội. Và cũng chính trong quá trình đó,
con người làm nên những giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Trong đó, có
những giá trị có thể định lượng bởi một giá, nhưng cũng có những giá trị
không thể định giá - vô giá. Chẳng hạn, những GTVH, giá trị xã hội: lòng yêu
nước, tình yêu, tình bạn, các tác phẩm nghệ thuật…
Từ khái niệm giá trị, ta tìm hiểu khái niệm giá trị văn hóa.
Nói đến GTVH là nói tới những thành tựu của một cá nhân hay một
dân téc đã đạt được trong quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và trong sự phát
triển bản thân mình. Nói tới GTVH cũng là nói tới thái độ, trách nhiệm và
những quy tắc ứng xử của mỗi người trong những quan hệ giữa bản thân mình
với gia đình, với xã hội và thiên nhiên. Và nói tới GTVH cũng là nói tới
những biểu trưng cho cái chân - thiện - mỹ. Như vậy, GTVH sẽ là cái có ý
nghĩa được cá nhân và cộng đồng công nhận, duy trì, bảo vệ, phát triển và
truyền lại cho thế hệ sau. Bởi vì, tính nhân bản của GTVH là hướng tới sự
hoàn thiện của cá nhân và cộng đồng. Và do vậy, GTVH không phải là cái
chủ quan mà nó mang tính khách quan, gắn liền với dân téc, giai cấp và nhân