Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung và vận dụng nó trong xây dựng kinh tế thị trường ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.23 KB, 21 trang )

MỤC LỤCC LỤC LỤCC

Trang
1

Mục lục
Các ký hiệu trong bài

2

Lời nói đầu

3

Chương 1: Cái riêng và cái chung dưới cái nhìn của triết học Macxit
1.1. Các khái niệm
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung

4
4
4

Chương 2: Những giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam trên cơ

6

sở nguyên lý về cái riêng và cái chung
2.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
2.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta


2.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế

6
6
6
8
8

giới
2.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở

9

Việt nam
2.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại
2.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt nam

11
11

những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng của Việt nam
Kết luận

14

Tài liệu tham khảo

15

LỜI NÓI ĐẦU

Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua hai
cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu lại
càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế
lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hố tập trung quan
TiĨu luËn TriÕt häc
1


liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà
CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng
sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý
xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công
cộng; con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua
tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời
nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN, kích thích sản xuấtm, phát triển kinh tế
nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp,
nền kinh tế Việt nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại
trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của
Việt nam. Trong q trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là phạm
trù triết học cái chung và cái riêng có vai trị là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động nhận thức về kinh tế thị trường.
Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và
nhà nước ta đang xây dựng, tôi chọn vấn đề "Mối quan hệ biện chứng giữa
cái riêng và cái chung và vận dụng nó trong xây dựng kinh tế thị trường
ở Việt nam" làm cơng trình nghiên cứu của mình.
Hồn thành tiểu luận này, tơi hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình
trong việc làm rõ, củng cố lịng tin của mọi người vào cơng cuộc đổi mới

của nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế mới
được áp dụng ở Việt nam- nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
CHƯƠNG 1: CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG DƯỚI CÁI NHÌN CỦA
TRIẾT HỌC MACXIT
1.1.

Các khái niệm:

TiÓu luËn TriÕt häc
2


Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ một hành tinh
nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới tự
nhiên. Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như là
cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Một con người nào đó:
Huệ, Trang,... cũng là cái riêng. Cái riêng cịn có thể hiểu là một nhóm sự
vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá
biệt đó của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính
khơng lặp lại ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt
bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà khơng lặp
lại ở những sự vật khác. Ví dụ chiều cao, cân nặng, vóc dáng... của một
người là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm của chỉ riêng người đó,
khơng lặp lại ở một người nào khác. Mặt khác, giữa những cái riêng có thể
chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung
nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm
cái chung. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc
tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng.

Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ như
qui luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi
nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được quan
niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và cho
rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản
sinh ra cái riêng. Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh
như P. Abơla (1079- 1142), Đumxcot (1265- 1308) cho rằng chỉ những sự
vật, hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới
là có thực cịn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con
người. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học
TiÓu luËn TriÕt häc
3


duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ biện
chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại. Khơng có cái chung tồn tại độc lập bên ngồi cái riêng. Ví dụ qui
luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, khơng thế thì
khơng phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được thể hiện ra ngoài dưới
những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng).
Cái chung là bộ phận, còn cái riêng là tồn bộ. Có thể khái qt một cơng
thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Công thức trên có thể là khơng hồn tồn đúng một cách tuyệt đối, nhưng
trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác
quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản
chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, cịn cái riêng là cái tồn bộ vì nó

là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái
chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt,
vừa có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự " va chạm"
giữa những cái riêng vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung,
vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác
này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Về điểm này,
Lênin nói: "... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái
chung". Ví dụ, nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái "
riêng", chúng có trọng lượng nguyên tử của mình, có hố trị của mình, có
điện tích hạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ ngun tử của mình... Nhưng tất
cả những ngun tử đều có cái chung: trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân,
vỏ điện tử, đều có những hạt nguyên tố; hạt nhân của mọi ngun tử đều có
thể bị phá vỡ. Chính nhờ có những đặc tính chung cho mọi nguyên tử mà
khoa học mới có khả năng biến nguyên tử của một nguyên tố này thành
nguyên tử của một nguyên tố khác. Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng
TiÓu luËn TriÕt häc
4


nào khác trong thế giới khách quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và
cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hố thành cái
đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường,
khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng
từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn
kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số
ngành như an ninh quốc phòng...
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương
đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng
nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là một

đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng…
nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn
nhất chỉ các loại cây, mà ngồi ra thực vật cịn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét
một ví dụ khác, qui luật cung- cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường,
nhưng trong tồn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái
đơn nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung
cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn.
Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định
cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa hồng là hoa”, “kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”... Những trường
hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm
của cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên
những định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những
phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ tồn bộ những đặc
tính của sự vật.
Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt nam một
cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển
TiÓu luËn TriÕt häc
5


trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội.

CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ VỀ CÁI
CHUNG VÀ CÁI RIÊNG

2.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan:

2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường:
Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách
khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hố, và lưu
thơng hàng hố. Ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hố thì ở đó và khi ấy
có thị trường. "Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy
mơ sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn"
(1). Theo David Begg, thị trường "là sự biểu hiện thu gọn của q trình mà
thơng qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào,
các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và
cái quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được
dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả" (2). Ta cũng có thể định nghĩa thị
trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch
vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi
mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động

TiÓu luËn TriÕt häc
6


theo cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế
hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định
giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu...
2.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan:
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh
tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ
nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hố
tập trung dựa trên hình thức sở hữu cơng cộng về TLSX. Trong thời gian

đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các
nước trong hệ thống XHCN mà mơ hình kế hoạch hố đã phát huy được tính
ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng cơng cụ kế
hoạch hố nhà nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan
trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế. Nền
kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức
cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến.
Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn
tại một lúc cả ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và kinh tế hàng hoá. Do sự khơng hài hồ giữa các nền kinh tế và sự
chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà
chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà
cịn gây lãng phí

(1) Mác- Ăng ghen tuyển tập tập 2 trang 614 NXBST, Hà nội 1981
(2) Kinh tế học NXBGD, Hà nội 1992, trang 11.

TiÓu luËn TriÕt häc
7


tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời cũng bị cắt
giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả những nguyên nhân đó đã
khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào
khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở một số
nơi cịn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là từ những sai
lầm cơ bản như:
 Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một qui
mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản
vơ chủ và khơng sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan

hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao
2, 2%.
 Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho
phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân
phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động
lực của sự phát triển.
 Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến khơng thích hợp với yêu cầu tự do lựa
chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã khơng kích thích sự
sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được
những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được
những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người
nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển.
Do mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở nước
ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá tập trung như trước. Với
tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đại hội VI
của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hố sang cơ chế hạch
TiĨu luËn TriÕt häc
8


toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định việc đổi mới cơ
chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra
việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một
sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như
trong thực tế. Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị trường một cách cơ

bản, cùng những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà khơng cịn
đơn thuần phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng
riêng có của CNTB; nước ta không đi theo CNTB thị cũng không thể áp
dụng kinh tế thị trường trong phát triển kinh tế). Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền
kinh tế thị trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui
luật kinh tế và với xu thế của thời đại:


Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì
khơng thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích
luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám
mươi đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục
chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng
hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp
ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như khơng có, đơi khi
cịn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngồi.



Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn
tại quá dài nên nó khơng những khơng cịn tác dụng đáng kể trong việc
thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực
làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.



Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị
trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến

cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế

TiÓu luËn TriÕt häc
9


thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển
khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị
trường trong nuớc đã được thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo
lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở
nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ
bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.


Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá,
dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền
kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương
quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan
giá cả hàng hoá quốc tế.



Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế
của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự
cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, khơng cịn là dân số
đơng, vũ khí nhiều, qn đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của
các chính sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong
quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân
được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo

chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo
vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.

Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu
để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức
kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất
cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó cịn phải xây dựng một nền kinh tế
thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với
nền kinh tế thị trường TBCN.
2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:

TiÓu luËn TriÕt häc
10


2.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế
giới:
Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo
mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng
dư, quy luật lưu thông tiền tệ...
Các loại thị trường, các mối quan hệ thị trường được phát triển phong
phú, đa dạng, thể hiện trình độ cao trong việc phân cơng lao động thành
nhiều ngành nghề. Sự khác biệt về sở hữu tài sản đã được chấp nhận (khơng
cịn chỉ chấp nhận hình thức sở hữu nhà nước, tập thể như trước) và lợi
nhuận trở thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành một lớp người
mới năng động hơn, bám sát thị trường hơn và "biết làm kinh tế hơn". Ở
nước ta hiện nay cũng hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế
thị trường: tâm lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, sự phân cực
giàu nghèo quá mức, kinh tế phát triển mất cân đối…. Kinh tế thị trường
nước ta cũng có sự quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những

khuyết tật đó cùng những tác hại của nó. Nhưng tuy nhiên, những khuyết tật
đó vẫn cịn tồn tại âm ỉ trong xã hội và trong suy nghĩ của một số người.
Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung
phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể
tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị
trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá
trong nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá
quốc tế.
2.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt nam:
Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà
nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị
trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của

TiĨu ln TriÕt häc
11


nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con
người. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, khơng giản
đơn chỉ xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quyết đồng bộ từ vấn đề sở hữu,
quản lý, phân phối; tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật
chất- kỹ thuật cho xã hội mới, là q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh
tế phát triển. Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; ln giữ
vững định hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định
về mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp.
Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là một công
cụ,giải pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế

phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với việc sử dụng động lực của
kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển lực lượng sản
xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là những yếu kém
về quản lý và phân phối, xây dựng quan hệ con người với con người, một xã
hội giàu tình thương và lịng nhân ái; tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với xố
đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn.
Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn
nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã
hội XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát
triển nhưng không cạnh tranh dã man; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công
bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xố đói giảm nghèo và khắc
phục sự phân cực giàu nghèo, gia tăng về mức sống nhưng vẫn giữ gìn được
đạo đức, bản sắc văn hố dân tộc.
Trong q trình phát triển, kinh tế nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại,
khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu

TiÓu luËn TriÕt häc
12


làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt
hướng dẫn cac thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng.
Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ
phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ
sỏ khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp,
đồng thời thực hiện chính sách cơng bằng xã hội. Ta chủ trương chống bóc
lột, bất cơng, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo
đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục
tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Tuy nhiên, để có

động lực cho sự phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích luỹ, sáng kiến cá
nhân, chấp nhận phân hoá do lao động sáng tạo (nhưng kiên quyết xoá bỏ
phân hố do bất cơng).
Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,
trong đó nơng nghiệp chiếm vai trị chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại
tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo
sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong
vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Kết quả là hiện
nay, trình độ phát triển kinh tế nước ta cịn thấp, mang tính tự túc là chủ yếu,
cơ sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp 400 USD/ người, trình độ quản lý
kinh tế còn non yếu, khả năng cạnh tranh kém. Do vậy mà ta cần có thời
gian làm quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là quản lý và phát triển kinh tế.
Khơng chỉ có xuất phát điểm thấp mà cịn phải trải qua hai cuộc chiến
tranh khốc liệt, kéo dài. Do hai cuộc chiến tranh đó mà cơ sở hạ tầng vốn đã
thấp lại còn bị tàn phá nặng nề. Ta khơng đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có
thể bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với
các cơng nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã có
tới ba thế kỷ tích luỹ.

TiĨu ln TriÕt häc
13


Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, cịn những rối loạn và nhiều
yếu tố tự phát. Ngồi ra thị trường ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình
thức thị trường cịn thiếu hoặc mới chỉ ở dạng manh nha như thị trường tiền
tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động..., nên chưa thể thực sự hồ nhập
với thị trường thế giới.
Nước ta có truyền thống văn hố lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo

cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo
léo cao như trạm khắc, đan... đặc biệt là những thành phần kinh tế truyền
thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài khảm
trai... Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là lịch sử của những
cuộc chiến tranh chống xâm lược mà khơng có trang nào về việc phát triển
kinh tế, trong vốn từ truyền thông dường như rất xa lạ với thuật ngữ "làm
kinh tế". Ngoài ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người
thuộc "thế hệ cũ"- thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ "dị ứng" với kinh tế thị
trường, coi kinh tế thị trường là một thứ gì đó rất xấu xa mà mình khơng thể
chấp nhận, và làm theo được; và họ cũng không đủ năng động để thích ứng
với tốc độ phát triển của kinh tế thị trường.
Quan tâm đến các vấn đề chính sách xã hội, bù đắp những tổn thất cho
những người, gia đình có cơng với cách mạng, thành lập những làng tình
thương giúp đỡ nhiều người khơng nơi nương tựa..., kiểm soát, giảm thiểu
những mặt tiêu cực so kinh tế thị trường gây ra; đó là những biện pháp giảm
khuyết tật xã hội của kinh tế thị trường mà nhà nước ta đã thực hiện. Nhờ
đó, nhà nước khơng cịn là "kẻ gác cổng trung thành cho sở hữu tư nhân" mà
đã trở thành một lực lượng quan trọng trong việc điều tiết xã hội, khống chế
khuyết tật xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới,
ta luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm
bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc.
2.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại:
TiÓu luËn TriÕt häc
14


Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng
động, tinh tế, nhạy cảm( đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những
năm tám mươi.

Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo
một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng( con người,
tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) củaViệt nam mà nền kinh tế cũng như
đời sống của người dân được cải thiện đáng kể:
 So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong
đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim
ngạch xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu
hút được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền
kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại
thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh
trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến
nay ta đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế
giới.
Theo số liệu thu thập được, ước tính chỉ số GNP của Việt nam đã tăng
đáng kể sau vài năm đổi mới:

Thu nhập quốc dân (tỷ đơ

1976

1981

1983

1993

4,97

5,14


5,78

12,46

101

94

101

175

la)
Trên đầu người

Những ước tính GNP của Việt nam trước và sau đổi mới

TiÓu luËn TriÕt häc
15


( Nhà xuất bản thống kê 1993)

Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang kiểm
soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại,
bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc
lợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội...
2.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt nam
những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng của Việt nam:

Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất
nghèo nàn. Mặt khác, có thể nói lịch sử 4000 năm của nước ta là lịch sử của
những cuộc chiến tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm mà không phải là
lịch sử của những quá trình phát triển kinh tế. Cộng thêm với cơ chế bao cấp
nhà nước ta áp dụng sau chiến tranh đã khiến cho nền kinh tế nước ta vốn đã
bị tàn phá nặng nề còn "chây lười", ỷ lại vào nguồn tài trợ của nước ngồi.
Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người. Xuất phát
từ cơ sở vật chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu quả đó, nền
kinh tế thị trường nước ta có trình độ phát triển thấp, cơ cấu quản lý còn non
yếu. Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so với thế
giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của các
nước phát triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường tự
do sang kinh tế thị trường hiện đại như là hướng phát triển kinh tế thị trường
chung của toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế thị trường
hiện đại. Nhưng muốn "đi tắt" được như vậy đòi hỏi ta phải chấp nhận
những thách thức rất gay gắt, và sự nỗ lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp dụng
những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy mạnh
năng suất lao động cả về số lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta phải
đào tạo được "lớp người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không cảm
thấy lạ lẫm với những máy móc hiện đại, địi hỏi người lao động phải có
trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học,
TiÓu luËn TriÕt häc
16


giáo dục đào tạo, cũng như có những chính sách phát hiện, ni dưỡng và
giữ gìn nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám.
Nước ta có vị trí vơ cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp được thế giới cơng nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao thông
vận tải và du lịch là rất lớn. Nhiều nước nói rằng họ "thèm" được có điều

kiện như Việt nam về vị trí địa lý, và nếu có được thì họ sẽ thu về một
doanh thu khổng lồ từ ngành du lịch. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch
ở nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra
một yêu cầu nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: phải đẩy mạnh
phát triển du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình, tích cực thu
ngoại tệ từ ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều
ngành nghề khác trong nền kinh tế.
Người Việt nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng nghề thủ
cơng mỹ nghệ nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ chẳng hạn. Nhiều nước tỏ
ra ưa chuộng hàng thủ công của ta, muốn đặt hàng cùng ta nhưng do hàng
rào thuế quan, phong cách quản lý gây khó khăn, cùng với việc "ngại" áp
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất truyền thống, khiến cho lượng hàng sản
xuất ra ít, khơng đủ trang trải cho những lệ phí phải chịu do thuế quan nên ta
đã mất nhiều hợp đồng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề thủ
công như Đảng ta đã dự kiến địi hỏi một sự đổi mới tồn diện trong cách
làm việc của những thợ giỏi, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản
xuất, không chỉ đơn thuần làm bằng tay như trước; đồng thời phải làm giảm
sự rối rắm trong hàng rào thuế quan, gây cản trở cho sự đầu tư của nước
ngoài vào Việ nam.
Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về
hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trị
chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị
trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự
thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn

TiÓu luËn TriÕt häc
17


còn chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại

vào nhà nước, khơng quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị.
Điều này đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh
nặng cho nền kinh tế, không thể giữ vai trò chủ đạo như trước. Theo thống
kê, hàng năm tuy 75% số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nhà nước, và chỉ
có 25% dành cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang lại
của hai thành phần kinh tế này chỉ chênh lệch rất nhỏ so với tỷ lệ vốn đầu tư.
Trong những điều kiện mới, ta buộc phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất
làm việc của doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải
trở nên năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn và
quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn thì mới có thể tiếp tục giữ vai trị chủ
đạo, định hướng như trước.
Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều
kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết lập
luật pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tn theo pháp
luật, sơng văn minh, có văn hóa, và tạo một mơi trường cạnh tranh cơng
bằng, lạnh mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh.
Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản va có sự quản lý của nhà
nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội
và con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế thị trường
mang lại.

TiÓu luËn TriÕt häc
18


KẾT LUẬN
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những
mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung

thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại.
Giữa cái riêng và cái chung ln có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn
tại của minh; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung.
Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh
tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng,
vốn có, riêng của Việt nam.
Chủ trương lãnh đạo của Đảng đã thể hiện sự sáng suốt trong nhận thức
nhưng trong quá trình thực hiện vẫn cịn nhiều thiếu sót khiến cho kinh tế thị
trường nước ta chưa vận dụng được hết các lợi ích, cũng như khắc phục
hồn tồn những nhược điểm của kinh tế thị trường nói chung, và chưa thể
hiện được thành một nền kinh tế thị trường hiện đại mang bản sắc của Việt
nam. Trong việc quản lý vẫn cịn nhiều phiền hà, gây nhiều khó khăn cho
các doanh nghiệp trong việc làm ăn. Vì thế mà nhiều doanh nghiệp nước
ngồi khơng muốn đầu tư vào Việt nam cho dù nhận thấy một thị trường
rộng mở, có nhiều tiềm năng để phát triển.

TiÓu luËn TriÕt häc
19


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
M. S. Alam

Chính phủ và thị trường trong các chiến lược phát

1993

triển kinh tế (Những bài học từ Nam Triều Tiên,

Đài Loan, Nhật Bản
Mai

Ngọc Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường

1994

Cường, Đỗ Đức
Bình
Mai

Ngọc Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường

1991

Cường
Nguyễn

Sinh Kinh tế thị trường định hướng XHCN

NXBTK

1995

Cúc
Phạm Việt Đài

Mặt trái của cơ chế thị trường

1996


Giáo trình triết học Mác- Lênin

NXBCTQ

2000

G
Lê Trần Hảo

V. I. Lênin
Đặng Kim
Nhung

Thống kê thương mại trong nền kinh tế thị trường NXBTK

2000

Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội

1997

Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường

1959

Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị

1994


trường và vận dụng vào Việt nam
Những vấn đề: Tổ chức và điều tiết thị trường.

1990

Một số kinh nghiệm nước ngoài
Stéc- nin

Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến

NXBST
số 9/ 1998

Tạp chí cộng sản
Tạp chí kinh tế và phát triển

số 13/ 1996

Tạp chí nghiên cứu kinh tế

số

4/

TiĨu ln TriÕt häc
20




×