Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Biện chứng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.55 KB, 15 trang )

Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Biện chứng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh
I/ Lời mở đầu
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác
– Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt
Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân
quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối,
mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết
cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên
không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai
cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó,
mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của
lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát
triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả sự vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào giải quyết những vấn đề của cách mạng
Việt Nam. Đó là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, và tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở các nước thuộc địa; là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, mà hạt nhân trung tâm là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân


1
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về
sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Nội dung cơ bản
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu cần
nắm vững:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn
70 năm qua, tiếp tục soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong thời gian tới.
Về vấn đề dân tộc
• Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các đân tộc.
"Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". (Hồ Chí Minh)
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Hồ
Chí Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An

Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của
Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Winson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông
Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị
• Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập
2
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
• Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
II/ Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
A. Quan điểm của Mac-Lenin
1. Khái niệm giai cấp
Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử , khác nhau về quan hệ của họ (thường
thì những quan hệ này được xã hội quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về
vai trò của họ trong lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ
và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn
người mà tập đoàn người này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do
các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
2. Đấu tranh giai cấp
- Khái niệm đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. Lenin định nghĩa đấu
tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao
động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của
những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản
hay giai cấp tư sản.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt
lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị.
- Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính chất xã
hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về

tư liệu sản xuất. Biểu hiện của quan hệ này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa
một bên là giai cấp cách mạng tiến bộ , đại diện cho phương thức sản xuất mới, với
một bên là giai cấp thống trị bóc lột, đại diện cho những lợi ích gắn với quan hệ sản
xuất lỗi thời lạc hậu.
Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối lập về lợi ích và địa vị của các giai cấp
khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Các giai cấp bóc lột của các
hình thái xã hội khác nhau cũng có thể đối kháng về lợi ích, như giữa giai cấp tư sản
3
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
và giai cấp phong kiến. Nhưng trước sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột, chúng dễ
dàng lien kết lại với nhau. Do đó thực chất của đối kháng giai cấp là đối kháng giữa
giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột.
- Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp
3. Quan điểm của Mac-Lenin về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mac –Engels đề cập đến vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì
phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa
số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là
cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Mac-Engels
đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông
không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân
tộc vì:
- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp
đối kháng: tư sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản.
- Vào thời của Mac, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành
độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp
công nhân. Mac-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng

dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng giữa các
giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng
thời mất theo". Như vậy theo Mac-Engels, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước
hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là
điều kiện để giải phóng dân tộc.
Đến thời Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ sở
thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lenin cho
rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu
nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó ông cùng với
4
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại."
Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn
mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu
hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tuy cả C.Mac, Engels và Lenin đều nêu lên những quan điển cơ bản về mối quan
hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương
pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập
trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích
không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản" Điều kiện những
năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận
Mac-Lenin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa; chính Hồ Chí Minh là
người đã đáp ứng yêu cầu đó.
B/ Biến chứng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
Vấn đề hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề giải phóng dân tộc, là

độc lập cho dân tộc. Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của
cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ tuổi thanh niên, Hồ Chí Minh đã là một trong những người con yêu nước ưu tú
nhất, tiêu biểu cho dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với Người lúc đó là cứu nước,
giải phóng dân tộc, cứu đồng bào khỏi kiếp đọa đày đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống
thiêng liêng nhất. "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu". Đối với Người, tất cả mọi kế
sách đều vô nghĩa nếu không nhằm độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Cả cuộc
đời, Người "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành"
(2)
.
5
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu
nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã
tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới''.
Tiếp thu chủ nghĩa Mac-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt
Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Mac
đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử

nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao
thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mac bằng cách đưa
thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời mình không thể có được". Và người đề
nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Mac về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc
học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống
như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu
trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại,
và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Người cho rằng: ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một
động lực lớn của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển
nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu
thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu
thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông
dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không thể giải
quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương
Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi
dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp. Quan điểm này sau này thể hiện
rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc
6
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân
tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu
mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được." Đồng thời xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh cũng từng kiến nghị
Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc
bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó
sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ
nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một
động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ

dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế. Người
khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so
với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc
phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn''.
Độc lập dân tộc là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi tiếp cận Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối
cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất
giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Người nói: “Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương,
Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam
7
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn:
Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân
chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách
mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự
nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp
khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp

công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không
phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ
sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên
CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn
cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng
XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc
thực sự.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì
nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức,
bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho
người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá
nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Do đó, sau
khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước
mạnh, mọi người đều được sung sướng, tự do. Sự phát triển đất nước theo con đường
chủ nghĩa xã hội là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh
nói: "yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên
8
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một
giàu mạnh thêm".
Năm 1945, Tuyên ngôn độc lập trịnh trọng tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc

Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy"
(4)
.
Năm 1946, thực dân Pháp định cướp nước ta lần nữa, Hồ Chí Minh trong Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến, đanh thép tuyên bố: "Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"
(5)
.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!". Đó là tuyên bố hùng hồn trước sự tàn bạo
của đế quốc Mỹ trong cuộc đụng đầu lịch sử, cũng là một đại tổng kết nổi tiếng của Hồ
Chí Minh, một đại tổng kết từ toàn bộ lịch sử dân tộc. Đó là nguyên lý đầu tiên, trước
hết và trên hết trong hệ thống phân tích khoa học những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
của xã hội Việt Nam thuộc địa và nửa phong kiến, trong đó mâu thuẫn cơ bản và chủ
yếu nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược và bè lũ
tay sai.
Tư tưởng "không có gì quý hơn độc lập, tự do" đòi hỏi tất yếu ý chí tự lực tự
cường, tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo trong đường lối cũng như trong thực tiễn
đấu tranh cách mạng, không ỷ lại trông chờ bên ngoài, không rập khuôn sao chép.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho
tất cả các dân tộc.Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu
tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc
bị áp bức trên toàn thế giới.
Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra, Hồ Chí Minh đã đem toàn
bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến của
người Anh. Theo Người, chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc
khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.
Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc
tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt

liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến
9
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu "giúp bạn là tự giúp
mình", và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Khoảng cuối những năm 20 đầu 30 thế kỷ trước, có người cho rằng Nguyễn Ái
Quốc là người nặng về dân tộc, nhẹ về giai cấp, là người dân tộc chủ nghĩa chứ không
phải quốc tế chủ nghĩa. Lịch sử chứng minh hoàn toàn không phải như vậy. Lịch sử
chứng minh đường lối tả khuynh "giai cấp chống giai cấp" đơn thuần và trừu tượng
của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 6 là sai và đã được Đại hội lần thứ 7 điều chỉnh.
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, Hồ
Chí Minh được đánh giá là một lãnh tụ hiếm hoi đã giải quyết thành công những vấn
đề rất phức tạp về quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế trong những bối cảnh đất nước
và thế giới cực kỳ phức tạp. Người đã giải quyết các vấn đề ấy một cách đúng đắn,
khôn khéo và thủy chung, xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỷ, với mọi màu sắc
của chủ nghĩa sô-vanh.
Năm 1941, sau khi Nhật vào Đông Dương và khi thời cơ giành độc lập đang đến
gần. Hồ Chí Minh nói "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy"
(8)
. Phải có lập trường giai cấp vững chắc, thành thục, điêu luyện mới có được tư tưởng
đó - tư tưởng dân tộc nhất mà cũng là lập trường giai cấp cao nhất trong tình thế "nước
sôi, lửa bỏng" lúc bấy giờ, và vì có lập trường giai cấp vững chắc nên mới thể hiện
được tư tưởng dân tộc cao nhất . Cũng có thể hiểu trong tinh thần đó về sự nhuần
nhuyễn quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, nhưng ở một tình thế khác, tình thế năm
1946, khi Hồ Chí Minh tuyên bố "Đảng tự giải tán" (thực ra là vào hoạt động bí mật).
10
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn đòi
hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm được điều đó chúng
ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc với giai
cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn
lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ vững
độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ ngàn xưa
cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt Nam đứng đầu là Hồ
Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước mắt. Trong xu
thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể
phát triển mà không gắn với những mối quan hệ đa dạng và đa phương với các quốc
gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những
lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh
hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về
kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá
lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến
hoà bình. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự
do, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta (
Sự biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước
ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy tối đa các nguồn
nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng
và phát triển kinh tế, đưa đất nước từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước
phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta
giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên
biến vạn hoá của nền kinh tế thế giới đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc
văn hoá Việt Nam cũng phải được xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn
11

Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
hoá thế giới, tiếp thu nhứng hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái
chất Việt Nam trong mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo
đúng nghĩa của nó.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ nghĩa
dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của mọi
người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý
chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận
nghèo hèn.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay,
việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp
thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng
CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh
vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được
tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một
trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục
có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn
về vấn đề này.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta
đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là
nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng
CNXH ở nước ta.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển
mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn

trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng
12
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang
đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm
lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất
chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững
chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá
trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
13
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tài liệu tham khảo
1. “Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc 1927.
2. Các văn kiện đại hội đảng toàn quốc đảng cộng sản việt nam lần thứ VII, VIII,IX,
X.
3. Hướng dẫn học tập tư tưởng hồ chí minh, Tác giả: GS. Phan Ngọc Liên, Nhà xuất
bản: Đại học Sư phạm
4. Giáo trình tư tưởng hồ chí minh. Bộ giáo dục và đào tạo. Nxb chính trị quốc gia Hà
Nội 2009.
5. Báo điện tử vietnamnet.
6. Hồ Chí Minh – Wikipedia tiếng Việt
7. />tri-lich-su-van-hoa-tu-tuong-cua-Nguoi/20099/120723.vov
8. />12-25.0161882356/mlnews.2008-12-25.7422190978
9. />10. />80108113/265/
14
Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh

MỤC LỤC
Nội dung cơ bản 2
Về vấn đề dân tộc 2
15

×