Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.56 KB, 39 trang )

Đề án môn học
MỤC LỤC
Khái niệm và những đặc điểm cơ bản 2
Ngân hàng nhà nước 2
Hệ thống ngân hàng thương mại 2
Vai trò, chức năng, nguyên tắc hoạt động 3
1.2.Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam 6
1.2.1.Quá trình hình thành 6
1.2.2.Thành tựu đạt được 6
1.2.3.Tình trạng khó khăn trong thời kỳ suy thoái bộc lộ những hạn chế 7
1.3.Điểm qua tình hình vốn, nợ của toàn hệ thống qua một số số liệu 8
2.1 Đánh giá hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống 11
2.1.1 Hiệu quả thể hiện qua vai trò 11
2.1.2 Hiệu quả thể hiện qua sự tăng trưởng nhanh 12
2.1.3 Sự phát triển quá nóng kém bền vững 13
2.1.4 Bong bóng bất động sản và vấn đề nợ xấu 15
2.2 Phân tích nguyên nhân của vấn đề “sức khỏe kém” 17
2.2.1 Nguyên nhân khách quan 17
2.2.2 Nguyên nhânchủ quan 18
2.3 Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng 20
2.3.1 Đôi nét về tái cấu trúc nền kinh tế 20
2.3.2 Sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ thống ngân hàng 22
2.4 Tháo gỡ khó khăn: Xử lý nợ xấu và Tái cơ cấu hệ thống 24
2.4.1 Động thái từ cơ quan nhà nước 24
2.4.2 Tái cơ cấu vi mô từ bản thân từng ngân hàng 26
3.1 Đánh giá vấn đề 28
3.2 Bài học kinh nghiệm từ nước ngoài 28
3.2.1 Kinh nghiệm tái cấu trúc ngân hàng của Trung Quốc 28
3.2.2 Kinh nghiệm tái cấu trúc ngân hàng của Hàn Quốc 30
3.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 32
3.3.1 Thành lập cơ quan chuyên biệt quản lý nợ xấu trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. .32


SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công 52
Đề án môn học
3.3.2 Việc xử lý nợ xấu thông qua các cơ quan quản lý tài sản của các NHTM 33
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công 52
Đề án môn học
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết
tắt
Chữ viết đầy đủ
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
WTO World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
GDP Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
BĐS Bất động sản
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công 52
Đề án môn học
LỜI NÓI ĐẦU
Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc lưu chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế- xã
hội của quốc gia phát triển. Trong những năm vừa qua, hệ thống NHTM ở Việt Nam
nhìn chung vẫn chưa phát huy tốt vai trò quan trọng của mình, bên cạnh đó, trong
quá trình hoạt động còn nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, hệ thống NHTM hoạt động
không hiệu quả, tình trạng độc quyền, lũng đoạn dẫn đến nợ xấu tăng cao và tình
trạng mất thanh khoản của một số không ít các NHTM trong hệthống. Chính vì thế,

tái cấu trúc hệ thống NHTM, làm cho nó hoạt động hiệu quả hơn, an toàn hơn là một
nhu cầu bức thiết của nền kinh tế và xã hội.Bằng những kiến thức đã được học và
tìm hiểu, em thực hiện đề án “THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC”với mong muốn giới
thiệu cho người đọcvề hệ thống NHTM, thực trạng, những khó khăn, cũng như
mong muốn mang lại cho người đọc một cái nhìn tổng quát hơn về vấn tái cấu trúc
hệ thống NHTM ở nước ta.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong Viện Ngân hàng – Tài
chính trường đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Minh Quế đã
giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Trong quá trình thực hiện đề án, có thể đang còn nhiều điều thực hiện còn chưa
tốt về mặt hình thức cũng như nội dung, do vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các thầy cô để cho đề án được hoàn thiện hơn nữa.
Xin cảm ơn!
Hà Nội ngày 1/5/2013
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
1
Đề án môn học
Đề án môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Khái niệm và những đặc điểm cơ bản
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là ngân hàng Trung ương Việt Nam, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện
chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức
tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ, nhằm ổn định giá trị đồng tiền

góp phần đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống ngân hàng, thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội
Với chức năng của mình Ngân hàng Trung ương là đầu não của toàn hệ hệ
thống ngân hàng, quản lý toàn bộ hệ thống trên cấp độ vĩ mô bằng chính sách tiền tệ
quốc gia. Quyết định của Ngân hàng Trung ương có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển kinh tế cũng như toàn bộ hoạt động của hệ thống ngân hàng và các TCTD
khác.
Hệ thống ngân hàng thương mại
NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật
Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. (Nghị định số
59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM).
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là huy động vốn như nhận
tiền gửi, đi vay ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại khác, huy động vốn chủ
sở hữu,phát hành giấy nợ… vv; hoạt động xử lý vốn như cho vay, đầu tư…vv; và
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
2
Đề án môn học
cung cấp các dịch vụ liên quan như tư vấn tài chính, bảo hiểm, thực hiện các dịch vụ
trung gian.
Mối quan hệ giữa các ngân hàng tạo nên một hệ thống các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng, nằm dưới sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng NN. Ở cấp
vi mô, các ngân hàng là các tổ chức kinh doanh và cung cấp các dịch vụ sinh lời
phục vụ cho nền kinh tế. Các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại có
ảnh hưởng qua lại với nhau hết sức chặt chẽ và vô cùng nhạy cảm. Sự chặt chẽ thể
hiện trong các nghiệp vụ của các ngân hàng như chiết khấu, tái chiết khấu, vay và
cho vay lẫn nhau, sở hữu cổ phần, trái phiếu, sở hữu nợ, quyền thanh toán. Và cũng
như tất cả các hệ thống tài chính khác, hệ thống ngân hàng thương mại cực kỳ nhạy
cảm do mỗi thành viên đều ảnh hưởng rất lớn đến nhau. Mỗi sự biến động nhỏ như

tình hình hoạt động kinh doanh, nhân sự… hoặc lớn hơn như biến động về lãi suất,
về giá vàng, giá ngoại tệ, giá chứng khoán… cũng có thể ảnh hưởng hàng loạt đến
toàn bộ hệ thống, mang tính dây chuyền và rất khó kiểm soát.
Vai trò, chức năng, nguyên tắc hoạt động
1.1.1.1Vai trò của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại nắm giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Để phát
triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Bằng vốn huy động được trong xã hội
thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt
động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có
hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các
doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ
để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho
xã hội.
Thứ hai, ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường. Sự
phát triển của tín dụng Ngân hàng đã khơi dậy sức sống của các doanh nghiệp bằng
các dây chuyền sản xuất hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
3
Đề án môn học
các nước tiên tiến, điều không thể thực hiện bằng vốn tự có của các doanh nghiệp
vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn
không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp.
Thứ ba, ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Thông qua ngân hàng nhà nước, Chính phủ cấp vốn cho hoạt động cho các
ngân hàng thương mại hoạt động và sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động tiền
tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia. Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng
dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng

thương mại trong hệ thống từ đó góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong
lưu thông và thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế,
Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia
vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả.
Thứ tư, ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế. Thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực
kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối
và các nghiệp vụ khác, đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại
hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng Nhà nước của Ngân hàng thương mại trực
tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu
và thông qua đó Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong
nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.1.1.2Chức năng của ngân hàng thương mại
Với những vai trò của mình, ngân hàng thương mại thực hiện ba chức năng
chính là chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức
năng tạo tiền
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng
vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng
này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là
người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
4
Đề án môn học
suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay.
Ở chức năng trung gian thanh toán, NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các
doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập

vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo
lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện
lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…
Chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán
an toàn. thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu
chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của
ngân NHTM. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn
huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả
của xã hội.
1.1.1.3Nguyên tắc hoạt động
Khác với Ngân hàng phát triển và ngân hàng chính sách xã hội, NHTM là một
doanh nghiệp hoạt động theo nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, có nghĩa là phải
đảm bảo được hai điều. Thứ nhất là đảm bảo thực hiện được đầy đủ chức năng, vai
trò của ngân hàng như đã trình bày ở trên. Thứ hai, hoạt động của ngân hàng phải có
hiệu quả tức là phải có lợi nhuận và tăng trưởng. Có thế, các ngân hàng mới có thể
tồn tại và phát triển để thực hiện vai trò của mình. Để hoạt động có hiệu quả thì ngân
hàng cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như các nguyên tắc về huy động vốn,
các nguyên tắc về cho vay, đầutư và các nguyên tắc về tăng trưởng tín dụng và
phòng ngừa rủi ro…
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
5
Đề án môn học
1.2.Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
1.2.1.Quá trình hình thành

Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát
triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước, có thể chia làm 3
giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ trước 1951: Ngân hàng Đông Dương hoạt động dưới sự
quản lý của Pháp và phục vụ cho chế độ tay sai
Giai đoạn thứ hai 1951-1985: Ngân hàng Trung ương Việt Nam, đảm nhận cả
vai trò của ngân hàng Trung Ương, cả vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại.
Và giai đoạn hiện nay từ khi đất nước đổi mới 1986 đến nay: Hệ thống ngân
hàng chia làm 2 cấp quản lý, tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức
năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng; bao gồm NHNN và hệ thống ngân hàng hoạt động
theo cơ chế thị trường, điển hình là hệ thống ngân hàng thương mại.
1.2.2.Thành tựu đạt được
Từ giai đoạn thứ 3 đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam, giai đoạn diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, thể hiện qua rất nhiều “cột
mốc” có tính đột phá như thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật
các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997), thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày
9/11/1999), cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài
chính và hoạt động của các NHTMCP năm 2000, tự do hoá lãi suất cho vay VND
của các tổ chức tín dụng năm 2002. Sau hơn 60 năm hoạt động và hơn 20 năm đổi
mới, toàn ngành hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại
nói riêng đã cơ bản thực hiện tốt những chức năng quan trọng mà nó phải gánh vác:
Góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt động
xuất nhập khẩu, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng
trưởng kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, hỗ
trợ hiệu quả trong chính sách vừa phát triển kinh tế, vừa ổn định an sinh xã hội, tạo
công ăn việc làm, phát triển công nghiệp- dịch vụ, hiện đại hóa nông thôn
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
6
Đề án môn học

Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình
đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện
đại hoá là rất lớn. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn
quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền . Đến nay,
vốn cho sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp ứng, với tổng tài sản
của hệ thống lên tới khoảng 140% GDP.
1
Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh.
Tới nay, đã có gần 100 NHTM và các tổ chức tín dụng với đa dạng về quyền sở hữu.
từ ngân hàng thương mại nhà nước như Vietinbank, Vietcombank, Agribank, BIDV
đều là các ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn, đến các ngân hàng cổ phần, liên doanh,
ngân hàng có 100% vốn nước ngoài có thể kể đến như ANZ, Citibank, HSBC. Tính
đến cuối năm 2011, có 5 NHTM nhà nước (trong đó có 3 ngân hàng là: Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - Vietinbank, và
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV đã được cổ phần hóa, tuy nhiên,
Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối trên 70%), 1 ngân hàng chính sách, 37 NHTMCP,
5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài, và 54 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài.
2
1.2.3.Tình trạng khó khăn trong thời kỳ suy thoái bộc lộ những hạn chế
Việt Nam đã duy trì được tăng trưởng cao và các điều kiện kinh tế vĩ mô ổn
định trong một khoảng thời gian dài từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, lĩnh vực ngân hàng đang chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Hệ
thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về số lượng
các ngân hàng và liên tục mở rộng mở rộng mạng lưới trong những năm vừa qua,
tuy vậy, vẫn không thể phủ nhận những mặt hạn chế của hệ thống ngân hàng thương
mại VN như năng lực cạnh tranh thấp trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của toàn
bộ nền kinh tế chưa cao, yếu kém chung về quản trị và năng lực quản lý rủi ro, cơ
sở hạ tầng quan trọng cho các hoạt động ngân hàng còn nghèo nàn, việc đa dạng hóa
các loại hình hoạt động, bổ sung các dịch vụ mới, năng lực quản lý cũng như nhân

1
Số liệu ngân hàng nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn
2
Tạp chí cộng sản www.tapchicongsan.org.vn
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
7
Đề án môn học
viên trong toàn hệ thống ngân hàng chưa bắt kịp được với yêu cầu phát triển của hội
nhập kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện cũng đã
gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc mở rộng, cạnh tranh trong nước và vươn
ra thị trường thế giới.
1.3.Điểm qua tình hình vốn, nợ của toàn hệ thống qua một số số liệu
Nhìn qua một số chỉ tiêu chính, ta có thể hình dung cụ thể hơn quy mô của hệ
thống ngân hàng hiện nay. Tính đến hết nửa đầu năm 2012, tổng tài sản của cả nhóm
tôt chức tín dụng là 4,999,027 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là từ hệ thống ngân hàng
thương mại. Dư nợ tín dụng của nền kinh tế là 2,887,697 tỷ đồng, chiếm hơn nửa
tổng tài sản của hệ thống. Do đặc thù của hệ thống ngân hàng và tín dụng, vốn tự có
và vốn điều lệ nhỏ chỉ 416,322 và 384,918 tỷ đồng. Tuy nhỏ nhưng vốn tự có và vốn
điều lệ lại đóng vai trò quan trọng với ngân hàng, thể hiện sức mạnh và tiềm lực của
mỗi ngân hàng, giải quyết các khan hiếm vốn lưu động , bổ sung tính thanh khoản
của ngân hàng trong tình huống khó khăn. Do vậy, Ngân hàng nhà nước Việt Nam
quy định rất chặt chẽ về vốn điều lệ và có xu hướng ngày càng tăng.
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
8
Đề án môn học
Biểu đồ 2:Tổng tài sản của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 31/7/2012 (đơn
vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Dựa vào biểu đồ 2, ta có thể thấy được cơ cấu tỉ trọng tài sản của các loại hình

tổ chức tín dụng. Trong đó, ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương
mại Nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn, chiếm tới trên 96%. Các tổ chức tín dụng khác
chỉ chiếm khoảng 4% với 196,927 tỷ đồng tài sản.
Tăng trưởng vốn và tăng trưởng tín dụng ở hệ thống các ngân hàng, trong giai
đoạn 2001-2010, luôn trên mức 20% và được xem là mức tăng trưởng khá cao. Đặc
biệt năm 2007, tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng vốn ở mức cao nhất kỷ lục, lần
lượt là 51,39% và 39,6%. Điều này cũng dễ lý giải được do nguồn tiền lúc này đang
chảy vào bất động sản. Hai chỉ tiêu này ngay lập tức gặp cú sốc vào năm 2008 do
khủng hoảng tài chính của khu vực Đông nam Á nhưng nhanh chóng phục hồi vào
các năm tiếp theo. Cùng với đà suy thoái kinh tế, năm 2011, tăng trưởng vốn và tín
dụng đã lao xuống mức thấp nhất trong thập niên vừa qua, nằm ở mức hơn 10%.
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
9
Đề án môn học
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
10
Đề án môn học
Chương II
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ TÁI CƠ CẤU
2.1 Đánh giá hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống
2.1.1 Hiệu quả thể hiện qua vai trò
Hệ thống ngân hàng có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế, đăc biệt là với nền
kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay. Quan trọng nhất là hệ thống ngân hàng
đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm
chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội
3
. Các dịch vụ ngân
hàng ngày càng đa dạng. Ngoài các loại hình nhận gửi với mức lãi suất linh động

nhằm tạo ra nhiều gói dịch vụ tiền gửi phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng, các
phương thức thanh toán cũng ngày càng trở nên đa dạng: séc, nhờ thu, tín dụng
chứng từ, chuyển tiền, chuyển tiền qua thẻ ATM,…đáp ứng nhu cầu vốn của nhiều
chủ thể kinh doanh khác nhau. Không những cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư cố
định, tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng
cường nguồn vốn lưu động, quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ lao động… là cầu
nối giúp doanh nghiệp có thể vươn ra thị trường.
Trong những năm qua, khi tình trạng kinh tế khó khăn toàn cầu, ngân hàng
thương mại trở thành thành phần rất quan trọng để thực hiện các chính sách tiền tệ
của Chính phủ. Do là trung gian tài chính nên hệ thống ngân hàng là cầu nối giữa rất
nhiều thành phần kinh tế khác nhau, việc thực hiện được các mục tiêu về chính sách
tiền tệ của Chính phủ dễ dàng hơn. Thông qua NHNN, hệ thống ngân hàng thương
mại trở thành công cụ đắc lực cho chính sách tiền tệ quốc gia
Không chỉ dừng lại ở các vai trò nội địa, hệ thống ngân hàng thương mại còn là
cầu nối của quan hệ kinh tế trong nước và nước ngoài. Hệ thống đã thực hiện tốt
được vai trò đó trong suốt hơn 20 năm đổi mới của đất nước. Thông qua hệ thống
các ngân hàng, dòng ngoại tệ cũng như nội tệ liên tục được lưu thông, đáp ứng được
3
Trang DĐ Tài chính - Tiền tệ - Ngân hàng, Chứng khoán Việt Nam số 12, ngày 15/12/2007
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
11
Đề án môn học
nhu cầu thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Nhìn chung, hệ thống ngân hàng đã thực hiện cơ bản là tốt vai trò của mình
trong nền kinh tế, tuy vậy không thể phủ nhận những thiếu sót, yếu kém của mình
trong quá trình phát triển, những vấn đề đó sẽ tiếp tục được phân tích trong phần
tiếp theo
2.1.2 Hiệu quả thể hiện qua sự tăng trưởng nhanh

Trong nền kinh tế như Việt Nam thì ngành ngân hàng là một ngành có tốc độ
tăng trưởng cao nhất nếu so với nhiều ngành nghề khác. Vì kinh tế Việt Nam đang
phát triển nên nhu cầu về dịch vụ tài chính lớn, ngân hàng đã và sẽ vẫn là kênh cung
ứng vốn chính cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế mở cửa với sự tham
gia nhiều ngân hàng liên doanh, ngân hàng quốc tế và chi nhánh ngân hàng quốc tế,
những ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước vẫn đang chiếm ưu thế với lượng
vốn và tổng tài sản lớn. Trong giai đoạn phát triển nóng gần đây nhất, tốc độ tăng
trưởng của nhóm ngành ngân hàng liên tục ở mức cao, cụ thế tố độ tăng trưởng tín
dụng từ năm 2006 đến 2010 luôn trên mức 20%, cao nhất là năm 2007 với 51,39%.
Tăng trưởng về vốn của các ngân hàng cũng tăng không kém khi liên tục tăng trên
20% và đạt cao nhất cũng năm 2007 là 39,6%.
4
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu nên bắt đầu từ năm 2008 mới có dấu hiệu chậm lại. Đáp ứng nhu cầu
về tăng trưởng, các ngân hàng cũng liên tục tăng vốn điều lệ cho mình để đề phòng
rủi ro cũng như đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng Nhà nước về vốn điều lệ, theo
đó vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần sau khi trừ đi 70 tỷ đồng cho bản
hiệu,hiệu số còn lại, cứ 20 tỷ đồng vốn điều lệ, ngân hàng thương mại ấy mới được
thành lập một chi nhánh. Đến năm 2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn quy
định vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại cổ phần tối thiểu là 3.000 tỷ đồng.
Đáp ứng yêu cầu đó là cuộc chạy đua tăng vốn của các ngân hàng. Cuối năm 2007,
tổng số vốn điều lệ của ngân hàng thương mại nước ta là 60.680,49 tỷ đồng, đến hết
tháng 6/1012 vốn điều lệ của toàn hệ thống đã là 384,918 tỷ đồng. Tốc độ tăng vốn
4
Số liệu ngân hàng nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn.
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
12
Đề án môn học
trung bình luôn trên mức 30%. Không chỉ tăng mạnh về vốn, cho đến năm 2012, số

lượng ngân hàng toàn hệ thống đã lên tới con số 60 ngân hàng thương mại. Tất cả số
liệu trên cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tuy vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng chưa đáp ứng đủ yêu cầu của
nền kinh tế. Thứ nhất là yêu cầu về chất lượng, thì theo đánh giá của ngân hàng thế
giới cũng như tổ chức tín dụng khác, chất lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh của
hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đang ở mức thấp so với các nước trong khu vực.
Sự tăng trưởng nhanh đã kéo theo hệ lụy là các ngân hàng chưa thực sự tập trung
phục vụ hết các đối tượng khách hàng, thay vào đó, các ngân hàng quay sang con
đường mang lại lợi nhuận nhiều hơn như đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư vào tài sản, bất
động sản, chứng khoán. Cá hoạt động này có rủi ro khá cao và kết quả là bắc tranh
ảm đạm của hệ thống ngân hàng hiện tại. Thứ hai là tăng trưởng nhanh nhưng hệ
thống ngân hàng vẫn chưa đáp ứng hết được nhu cầu của thị trường. Trong việc
cung cấp phương thức thanh toán như dịch vụ thẻ ATM thì số lượng đang còn rất
thấp so với thì trường hơn 80 triệu dân, số lượng máy ATM cũng đang còn rất hạn
chế. Số lượng các phương thức thanh toán còn chưa đá dạng, nhiều phân khúc thị
trường đang còn bỏ ngỏ. Thứ ba, sự tăng trưởng nhanh đã kéo theo yêu cầu tăng
mạnh về nhân sự. Khi số lượng nhân sự tăng ồ ạt thì việc chất lượng quản lý đi
xuống là điều dễ hiểu. Rất nhiều cán bộ nhân sự cấp cao cũng như thấp của các ngân
hàng đã bị khởi tố cho thấy hiệu quả quản lý của ngân hàng đang trong mức báo
động.
2.1.3 Sự phát triển quá nóng kém bền vững
Sự phát triển nhanh của ngành ngân hàng trong nhưng năm qua là điều đán
mừng, tuy nhiên, những biểu hiện của sự phát triển thiếu bền vững cũng không ít.
Thứ nhất, về vấn đề tiền tệ hóa: Trong một số năm gần đây, tốc độ tăng tiền tệ
hóa của nền kinh tế đã ở mức rất cao. Tốc độ tăng tiền tệ hóa ở nước ta bình quân
hàng năm trong 20 năm từ năm 1991 đến năm 2011 ở mức trên 9,5% và nếu tính
mức tăng bình quân trong 5 năm từ năm 2001 đến năm 2006 là 7,5%, 5 năm từ
năm 2006 đến năm 2010 là 7,2%. So sánh với tốc độ tăng hệ số tiền tệ hóa của một
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52

13
Đề án môn học
số nước khác như Trung Quốc bình quân 5 năm 2001 -2006 là 2,8%, Hồng Kông
(Trung Quốc) tăng 4,8%, Hàn Quốc tăng 2,0%, Đài Loan (Trung Quốc) tăng 2,2%,
Malaysia tăng 4,2%, Singapore tăng 1,4%. Đặc biệt, ở Thái Lan, tốc độ tăng hệ số
tiền tệ hóa bình quân hàng năm từ năm 2001 đến năm 2006 là -3,1.
5
Điều này cho
thấy chính sách tiền tệ của nước ta còn quá lỏng lẻo., Như vậy, có thể nói, hệ thống
ngân hàng nước ta đã tạo ra tình trạng tiền tệ hóa quá nóng, hệ thống ngân hàng
đang trong tình trạng phát triển thiếu bền vững do tốc độ tự do hóa tài chính của
chúng ta tiến nhanh hơn tiềm năng và thực tế phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, về tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán: Tổng phương tiện thanh
toán tăng ở mức 20-30% trong các năm 2001-2006, tăng đột biến trong năm 2007
với mức khoảng 43,7% so với năm 2006 và các năm 2008-2011 ở mức 17-30%.
6
Những con số trên nói lên hiện tượng luợng cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của
nền kinh tế.
Thứ ba, về huy động vốn và dư nợ tín dụng: Theo số liệu bên trên về huy động
vốn có thể thấy đây là một thành tích đáng kể của hệ thống ngân hàng nhưng tốc
độ tăng huy động vốn cao gây ra áp lực tăng lãi suất tiền gửi, ảnh hưởng không tốt
đến tình hình đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế. tốc độ tăng dư nợ tín dụng từ năm
2001 đến năm 2010, có thể thấy việc thực hiện chính sách tín dụng lỏng lẻo trong
một thời gian tương đối dài đã tạo ra yếu tố rủi ro cao cho hệ thống ngân hàng và
làm cho hệ thống ngân hàng phát triển thiếu tính bền vững. Dư nợ tín dụng tăng
mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong các năm qua không tương xứng thể
hiện hiệu quả sử dụng đồng vốn của nền kinh tế nước ta không cao. Dư nợ tín dụng
tăng quá cao cộng với khả năng sinh lời cả các doanh nghiệp hạn chế dẫn đến khả
năng trả nợ của các doanh nghiệp vì thế mà cũng kém đi, từ đó nguy cơ không thu
hồi được nợ của các ngân hàng thương mại tăng cao và đây chính là mối lo đe dọa

sự an toàn của các ngân hàng hay là yếu tố làm cho hệ thống ngân hàng phát triển
Sự phát triển thiếu bền vững của hệ thống ngân hàng còn thể hiện ở nhiều khâu
như tổ chức, quản lý, điều hành của hệ thống ngân hàng nước ta chưa tốt, năng lực
5
Nguồn www.tapchitaichinh.vn
6
Nguồn www.tapchitaichinh.vn
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
14
Đề án môn học
quản trị hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao Trong bối cảnh nền kinh tế
nước ta đang còn có nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao như
mong muốn, tính thiếu bền vững trong hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng bộc
lộ rõ nét. Do vậy, tập trung nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong hoạt động
của hệ thống ngân hàng là một quyết sách sống còn bảo đảm cho nền kinh tế phát
triển nhanh và ổn định.
2.1.4 Bong bóng bất động sản và vấn đề nợ xấu
Cùng điểm qua vấn đề tín dụng và bong bóng bất động sản ở nước ta. Từ đầu
2006 đến đầu 2008, thị trường nhà đất Việt Nam có một giai đoạn bùng nổ mãnh
liệt. Số liệu lịch sử cho thấy sự bùng nổ của thị trường nhà đất gắn liền với chính
sách tiền tệ và dòng vốn. Khi chính sách tiền tệ trở dễ dãi thì dòng tiền thường đổ
vào lĩnh vực phi sản xuất đẩy giá BĐS và chứng khoán tăng cao. Ngoài ra, khi dòng
ngoại hối đổ vào quá lớn vượt quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Tăng trưởng tín
dụng tăng cao, sự tiếp tay của các ngân hàng thương mại và chính sách tiền tệ nới
lỏng của ngân hàng nhà nước là nguyên nhân chính dẫn đến cơn sốt nhà đất vào
năm 2007-2008. Nhận biết được tình hình cũng như đặt ra mục tiêu kiềm chế lạm
phát, NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ, giới hạn mức tăng trưởng tín dụng năm
2011 của toàn bộ nền kinh tế là 20%, tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn
làm cho cho lãi suất thị trường tăng vọt, lãi suất huy động có thời điểm là 20%, lãi

suất cho vay đến 25%. Thị trường BĐS đóng băng và đi xuống. Nhiều dự án BĐS
phải ngừng triển khai do thiếu vốn và sự ảm đạm của thị trường. Các doanh nghiệp
BĐS bán tháo và mất khả năng thanh toán nợ.
Điều đáng lưu ý là hầu hết các doanh nghiệp BĐS sử dụng tỷ lệ vốn vay lớn để
đầu tư cho các dự án. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp buộc phải “khất nợ” ngân hàng là
điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra các khoản vay của ngân hàng lại thường sử
dụng tài sản thế chấp là BĐS. Mặc dù, ngân hàng thường cho vay với số tiền bằng
khoảng 50% giá trị BĐS tại thời điểm định giá nhưng với việc giá nhà đất tăng
mạnh thì khoản cho vay của ngân hàng đều vượt quá giá trị hợp lý của BĐS thế
chấp. Những doanh nghiệp và người vay vốn không những không trả được nợ mà
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
15
Đề án môn học
các tài sản thế chấp cũng không còn đảm bảo được giá trị khoản vay, đồng nghĩa với
việc nợ xấu của ngân hàng tăng mạnh dẫn đến nguy cơ sụp đổ dây chuyền. Số liệu
của NHNN công bố cho thấy tỷ lệ dư nợ tín dụng bất động sản trong tổng dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế trong mấy năm qua chỉ ở dưới 15-16% nhưng con số tuyệt đối
thì tăng rất nhanh vì tổng tín dụng cũng tăng rất nhanh với tốc độ bình quân lên đến
trên 30%. Nếu như vào năm 2008, dư nợ tín dụng bất động sản mới là 138.000 tỷ
đồng thì sang năm 2009 và 2010, con số này lần lượt là 184.000 tỷ và 235.000 tỷ.
Tuy NHNN đã yêu cầu cắt giảm, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn còn khoảng
221.000 tỷ đồng vào thời điểm tháng 6 năm 2011.
7
Về vấn đề nợ xấu nợ xấu tại các ngân hàng thương mại,cho đến nay, vẫn chưa
có tiếng nói thống nhất. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ tại các NHTM đến 2/1013 vào khoảng 6%. Trong khi cơ quan Thanh tra
NHNN lại đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng khoảng 8,6%, tương đương
với trên 200.000 tỷ đồng. Cũng theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước, tỉ lệ nợ xấu
đang có xu hướng giảm nhưng giá trị tuyệt đối thì không giảm. Còn theo báo cáo

của các ngân hàng thương mại, tỉ lệ nợ xấu cuối năm 2012 đang có xu hướng tăng
lên, mức trung bình toàn hệ thống khoảng 4,6%. Dù chưa biết chắc rằng chỉ số nào
là đúng thì nợ xấu vẫn là một con số không hề nhỏ.
7
Nguồn Diễn đàn kinh tế Việt Nam www.vef.vn
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
16
Đề án môn học
Ngoài những khoản nợ xấu bắt nguồn từ bất động sản, một số lượng lớn nợ xấu
lại bắt nguồn từ những khoản vay của các tập đoàn doanh nghiệp Nhà nước vốn
được ưu tiên quá nhiều khi tiếp cận vốn. Nợ xấu đã làm tắc nghẽn kênh huy động
vốn của nền kinh tế. Vì vậy trong thời gian qua, dù các ngân hàng đã hạ lãi suất cho
vay, song doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận được nguồn vốn vay.
2.2 Phân tích nguyên nhân của vấn đề “sức khỏe kém”
2.2.1 Nguyên nhân khách quan
Như đã nêu ở phần phân tích sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,
nguyên nhân khách quan của sự hoạt động không hiệu quả của các ngân hàng
thương mại xuất phát từ tình hình khinh tế khó khăn chung, bắt nguồn từ khủng
hoảng tài chính của Mỹ năm 2008 và chính sách tiền tệ thắt chặc của ngân hàng Nhà
nước. Trong điều kiện khó khăn chung, khi mà các doanh nghiệp đồng loạt làm ăn
thua lỗ, chi phí liên tục tăng trong khi hàng hóa sản xuất thì không giải quyết được
đầu ra, hàng tồn kho nhiều, thì ngân hàng cũng chịu chung số phận do hoạt động của
ngân hàng gắn chặt với hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, có thể thấy những
doanh nghiệp nhà nước như VinaShin, Vinaline là những doanh nghiệp tiêu biêu
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
17
Đề án môn học
cho làm ăn thua lỗ, thất thoát của nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồng. Khi doanh

nghiệp gặp khó khăn, vốn của ngân hàng bỏ cho doanh nghiệp vay cũng khó thu hồi.
Tốc độ quay vòng vốn chậm, nợ xấu tăng cao khiến hoạt động của ngân hàng đình
trệ, kinh tế cũng không mấy phần sáng sủa
Tiếp nối những khó khăn của kinh tế chung, sự sụp đổ của bong bóng bất động
sản cùng tỷ lệ lạm phát tăng cao khiến cho Chính phủ bắt buộc phải sử dụng chính
sách tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất chung, từ lãi suất huy động đến lãi suất
cho vay. Khi chi phí cho nguồn vốn tăng cao, những doanh nghiệp đã khó khăn lại
càng khó khăn. Một lượng lớn doanh nghiệp còn không đủ khả năng để tiếp cận với
nguồn vốn đắt đỏ đó. Tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng vốn giảm rõ rệt dưới mức
12% trong năm 2011. Mặc dù trong thời gian gần đây, ngân hàng nhà nước đã có
chính sách nới lỏng tiền tệ hơn, hâm nóng lại thị trường vốn và chứng khoán bằng
giảm lãi suất trần huy động, tuy đã có những dấu hiệu tích cực nhưng nhìn chung
vẫn trong tình trạng khó khăn cho cả doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng.
2.2.2 Nguyên nhânchủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế còn có nguyên nhân
chủ quan xuất phát từ chính bản thân hệ thống ngân hàng nói chung và các ngân
hàng nói riêng. Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến những vấn đề chung của toàn hệ
thống
Thứ nhất là năng lực quản lý, năng lực cạnh tranh thấp. Năng lực cạnh tranh
của lĩnh vực tài chính Việt Nam nói chung và các ngân hàng Việt Nam nói riêng vẫn
thấp so với khu vực và thế giới. Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ và
nhãn hiệu chưa phổ biến, dẫn tới sự bất ổn của thị trường dịch vụ do đó dễ tạo ra sự
cạnh tranh về lãi suất và mở rộng mạng lưới một cách lãng phí. Mặc khác, các tổ
chức tín dụng không hợp tác và phối hợp tốt với nhau, do đó giảm đáng kể hiệu quả
của toàn bộ hệ thống (ví dụ hệ thống ATM và thanh toán giữa các ngân hàng chưa
được kết nối với nhau).
Về vấn đề năng lực quản trị kém được nhìn nhận ở hai giác độ quan trọng là
thiết chế quản trị và quản trị hoạt động. Ở giác độ thứ nhất, hệ thống quản trị chưa
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52

18
Đề án môn học
thực sự rõ ràng và minh bạch. Nhiều ý kiến cho rằng thực sự không thể biết chính
xác thực trạng hoạt động của các ngân hàng Việt nam bởi họ thực sự có thể dễ dàng
giấu những khoản nợ xấu thông quan hệ thống các công ty con một cách dễ dàng và
đơn giản Tại một số ngân hàng có cổ phần chi phối của nhà nước, những quyết
định quản trị được đưa ra không thực sự phù hợp với thông lệ phục vụ lợi ích của cổ
đông. Nói một cách ngắn gọn, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt nam đã có một bước
chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình cổ phần hóa hơn 10 năm qua, nhưng gần như
cơ chế quản trị không có sự thay đổi đáng kể nào.
Ở giác độ thứ hai, việc quản trị hoạt động và quản trị rủi ro kém đã dẫn tới
mức độ rủi ro nợ xấu cao. Theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước, nợ xấu và nợ dưới
của các ngân hàng Việt Nam ở mức 6% đến hết năm 2012.Tuy nhiên có nhiều lý do
để tín rằng nợ xấu của hệ thống ngân hàng có thể sẽ cao hơn thế. Ngoài ra, hệ thống
ngân hàng còn có khoảng 12% dư nợ tương đương 12 tỷ đô la trong lĩnh vực bất
động sản và chứng khoán
8
và nếu tính thêm về khoản nợ của của Vinashin thì con số
nợ xấu thực tế của hệ thống ngân hàng chắc chắn sẽ còn tồi hơn rất nhiều.
Thứ hai là quy mô vốn nhỏ, nguồn lực còn hạn chế. Mặc dù vốn điều lệ của các
ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu
vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ
đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương
với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại
quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị
trường tín dụng. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng
thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng
Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản thấp
(dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Không những không đáp ứng được chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống ngân

hàng đang còn phải đối mặt với vấn đề trình độ kỹ thuật còn lạc hậu và chưa bắt kịp
được với sự phát triển quốc tế. Các tiện ích ngân hàng vẫn thấp do việc ít áp dụng
công nghệ thông tin đối với phát triển sản phẩm và không kết nối các dịch vụ. Các
8
Nguồn Diễn đàn kinh tế Việt Nam www.vef.vn
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
19
Đề án môn học
dịch vụ ngân hàng hiện đại không được đầu tư đầy đủ. Các hoạt động tiền tệ, lãi
suất, công cụ tỷ giá, công cụ phát sinh ngoại hối, đầu tư và kho bạc (như hoán đổi,
quyền chọn, hợp đồng tương lai ) chưa phát triển hoặc vẫn trong giai đoạn thử
nghiệm. Do đó, việc tăng cường hiện đại hóa ngân hàng và phương tiện thanh toán
là việc cần làm. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử
dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba là hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng
chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và chủ yếu dựa vào các dịch
vụ ngân hàng truyền thống, ví dụ như huy động vốn, cung cấp tín dụng và thanh
toán. Huy động vốn chủ yếu được thực hiện qua việc nhận tiền gửi tiết kiệm, cấp tín
dụng được thực hiện qua việc cho vay.
Các dịch vụ ngân hàng hiện đại chưa phát triển hoặc phát triển không đồng bộ.
Rấtnhiều dịch vụ quan trọng chưa được giới thiệu hoặc phát triển chưa xứng với
tiềm năng, đặc biệt là các dịch vụ bán lẻ và cá nhân, vốn có tiềm năng tăng trưởng
lớn (ví dụ như tài khoản, séc, thẻ, thanh toán, quản lý tài sản, bảo lãnh tín dụng, tín
dụng tiêu dùng, v.v).
2.3 Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
2.3.1 Đôi nét về tái cấu trúc nền kinh tế
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á có trung tâm ở Thái Lan mà Việt
Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam liên tục
tăng, từ mức 4,8% năm 1999 lêm tới đỉnh cao năm 2007 là 8,5%. Sở dĩ đạt được sự

tăng trưởng vượt bậc này là đất nước đang trong thời kỳ đầu mở cửa, nền kinh tế
theo cơ chế thị trường non trẻ đứng trước rất nhiều cơ hội phát triển, từ các ngành
công nghiệp trọng điểm, dịch vụ tới phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cùng những chính sách mở cửa nền
kinh tế, Việt Nam nhận được làn sóng đầu tư ồ ạt từ nước ngoài .Sự xuất doanh
nghiệp liên doanh nước ngoài, hay các doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài (FDI)
đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế. Nhu cầu về vốn để phát triển
kinh tế tăng mạnh, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân bắt đầu cổ phần hóa, thị
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
20
Đề án môn học
trường chứng khoán ra đời, hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng
trưởng tín dụng ở mức rất cao, bất động sản trở thành miền đất hứa. Sự phát triển
với tốc độ cao đã đưa Việt Nam đứng lên tầm cao mới trong những nước đang phát
triển, hệ quả tất yếu của những chính sách vĩ mô đúng đắn của Chính Phủ.
Năm 2008, khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ lan rộng kéo theo sự trì trệ
của kinh tế toàn thế giới, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Năm 2008, tốc độ tăng
trưởng VN chỉ còn 6,2% và tụt xuống đáy năm 2009 với 3,3%. Cuộc khủng hoảng
đã kéo theo rất nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta, đặc biệt là trong lĩnh vức
tài chính: bong bóng bất động sản vỡ, thị trường chứng khoán lao dốc, hàng tồn kho
của doanh nghiệp tăng cao. Đất nước đứng trước nguy cơ lạm phát, thất nghiệp tăng,
tốc độ tăng trưởng thấp.
Năm 2012, Việt Nam có thành công lớn trong việc kìm chế lạm phát, tuy vậy
tăng trưởng chỉ đạt 5,03%, thấp nhất từ năm 1999 đến nay. Nghiêm trọng hơn, trong
năm 2012 cũng đã bộc lộ hàng loạt yếu kém được tích tụ từ lâu trong nền kinh tế,
làm cho nền kinh tế không chỉ tăng trưởng thấp mà còn phải đối phó với rất nhiều
khó khăn trong những năm tới.
Một là, nợ xấu và hàng tồn kho đều tăng cao dẫn đến đóng băng tín dụng. Thu
hút tiền gửi tăng 15% nhưng tín dụng chỉ tăng 7%, thấp hơn rất nhiều so với mức

31% trong năm 2010 hay 11% năm 2011
Hai là, bất động sản đóng băng chôn một số tín dụng rất lớn, có thể lên đến 1,1
triệu tỉ đồng với quỹ hàng hóa khác xa so với nhu cầu có khả năng chi trả của người
lao động bình thường. Từ năm 2000 đến 2010, giá bất động sản đã tăng 1.000%, tức
tăng lên 10 lần, trong khi thu nhập bình quân đầu người chỉ tăng 2,9 lần, bộc lộ
những lỗ hổng của quản lý Nhà nước, sự thao túng của những nhóm lợi ích.
Ba là, đến cuối năm 2011, số nợ tín dụng của các tập đoàn kinh tế và tổng công
ty Nhà nước đã lên đến 1,3 triệu tỉ đồng, trong đó có những tập đoàn tỉ lệ vốn vay
trên vốn sở hữu đã vượt ngưỡng 1.000/1.
Bốn là, khu vực doanh nghiệp tư nhân, đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã bị
suy yếu nhiều do lạm phát cao, lãi suất quá sức chịu đựng từ năm 2008 đến nay.
Trong 2 năm 2011-2012, đã có khoảng 100.000 doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
21
Đề án môn học
động hay tuyên bố phá sản trong khi đa số doanh nghiệp còn hoạt động chỉ với 30%-
40% công suất.
Những yếu tố trên đã tác động đến thu nhập và việc làm của người dân lao
động rất rõ: thiếu việc làm, giảm thu nhập, chấp nhận làm thêm giờ, tăng ca và hạn
chế chi tiêu; còn ngân sách Nhà nước bị hụt thu; Nhà nước đã phải dãn thuế, giảm
thuế cho nhiều đối tượng
Tuy vậy, trong cơn khủng hoảng, chúng ta có thể nhận ra được những yếu kém,
hạn chế về mọi mặt, bên cạnh đó, vẫn đang còn quá nhiều hệ lụy từ sự sụp đổ tăng
trưởng mà chúng ta phải gánh chịu. Do đó, Sau hơn 3 năm khởi động, đề án tổng thể
tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020 đã được Thủ tướng
phê duyệt. Trong đó mục tiêu tổng thể của đề án là thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo lộ trình và bước đi phù hợp để đến 2020 cơ
bản hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng

trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nguyên tắc thực
hiện tái cơ cấu kinh tế cũng đã được chỉ rõ. Đó là, thực hiện tăng trưởng hợp lý, bền
vững và ưu tiên chất lượng tăng trưởng. Rằng, tăng trưởng kinh tế cao hợp lý là
quan trọng, nhưng sẽ không tăng trưởng bằng mọi giá và ngắn hạn, mà là tăng
trưởng kèm theo với lạm phát giảm dần
Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là một quá trình phức tạp,
lâu dài, với nhiều khó khăn và thách thức, do đó phải tiến hành đồng thời và đồng
bộ trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và ở tất cả các ngành, các cấp trên cả nước.
Với tình hình Việt Nam hiện nay, phải bắt đầu từ ba trọng tâm chính đó là: đầu tư
công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng.
2.3.2 Sự cần thiết phải tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
Sự cần thiết của tái cơ cấu các ngân hàng thương mại (NHTM) trước hết bắt
nguồn từ sự cần thiết của tái cơ cấu nền kinh tế nói chung. Thách thức đặt ra với hệ
thống ngân hàng là khi cả nền kinh tế trong nước và toàn cầu cùng suy yếu. Đà tăng
trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, chịu chung bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn là
SV: Hà Văn Thanh Lớp: Tài chính công
52
22

×