Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Di tích đình Hồi Quan- xã Tương giang-huyện Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.4 KB, 87 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
Mở đầu
I lý do chọn đề tài.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một phương châm cần quán triệt trong
mọi hoạt động văn hoá trên đất nước ta hiện nay.Bản sắc văn hoá dân tộc mang
một nội dung ý nghĩa rộng rãi đó là một tổng thể đặc trưng những diện mạo về
tinh thần và vật chất, về lối sống ,phong tục tập quán , tôn giáo , tín ngưỡng, đạo
đức và tình cảm, văn học và nghệ thuật nó cũng biểu hiện trong các di sản vật
chất hữu thể như kiến trúc đình , chùa, miếu, mạo Hai phần hữu thể và vô thể
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 1
Khoá luận tốt nghiệp
đó gắn bó hữu cơ với nhau , khó có thể tách rời, đã tạo nên cái riêng biệt của dân
tộc ta trong trường kỳ lịch sử và tòn tại mãi đến ngày nay. Hiểu biết, nhận rõ,
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong công cuộc hội nhập vào cộng đồng thế
giới ngày nay không phải là việc làm của riêng những nhà hoạt động văn hoá mà
là của mỗi người Việt Nam trên mọi lĩnh vực trong đời sống hàng ngày. Hiểu
biết về những ngôi đình đã được xây dựng từ bao đời nay trên đất nước ta cũng
chính là hiểu rõ thêm bản sắc dân tộc Việt Nam ta vậy.
Từ rất xa xưa, các mái đình cổ kính đã góp phần tô điểm cho làng quê
Việt Nam.Cây đa, bến nước, mái đình, mái chùa không tách rời trong tâm trí kỷ
niệm của mỗi người dân xa quê hương, nhớ tới nơi chôn rau cắt rốn, nhớ tới tổ
tiên, ông bà họ hàng làng xóm. Các ngôi đình tiềm Èn dưới dáng vẻ rêu phong
cổ kính Êy là một bảo tàng sống về kiến trúc, điêu khắc trang trí và cả phong tục
cổ truyền, tín ngưỡng , niềm tin của cả dân tộc Việt Nam. Những di tích Êy sẽ
trở lên có ý nghĩa lớn lao hơn nếu ta đi sâu vào nghiên cứu phân tích, bóc tách
lớp văn hoá chứa đựng trong đó để phần nào hiểu rõ hơn về cội nguồn văn hoá
dân tộc, để biết lựa chọn, khai thác cũng như bảo tồn, phát huy những tinh hoa,
cũng như những truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục, lấy đó làm nền tảng
xây dựng nền văn hiến Việt Nam vừa mang dư âm cổ truyền, vừa mang màu sắc


hiện đại.
Thôn Hồi Quan, vùng quê có có bề dày truyền thống văn hoá và lịch sử.
Trải qua diễn trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cùng với việc
phát triển sản xuất, xây dựng xóm làng, các thế hệ người dân Hồi Quan còn rất
chú trọng trong việc xây dựng nên những công trình tín ngưỡng quy mô, đặc sắc
để thờ phụng cá nhân vật lịch sử có công với dân với nước.
Đình Hồi Quan là một công trình kiến trúc độc, đáo đặc sắc, dân tộc và có
quy mô khá bề thế, lại nằm trong một làng quê cổ truyền của vùng Kinh Bắc,
Một “tiểu vùng” văn hoá độc đáo của vùng văn hoáđồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy,
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 2
Khoá luận tốt nghiệp
với nguyện vọng của bản thân, là một người con sinh ra và lớn lên ở đất Hồi
Quan, tôi đã chọn đề tài :” Di tích đình Hồi Quan- xã Tương giang-huyện Từ
Sơn- tỉnh Bắc Ninh” làm khoá luận tốt nghiệp của mình và mong muốn tham
góp cùng với cán bộ và nhân dân địa phương những ý kiến về việc bảo tồn, kế
thừa, phát huy di sản văn hoá quê hương cùng các giá trị văn hoá truyền thống
trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay.
II. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những giá trị lịch sử, kiến trúc ,điêu khắc, lễ hội đình
Hồi Quan để qua đó đưa ra một số giải pháp cho vấn đề bảo tồn, phát huy tác
dụng di tích đình Hồi Quan- xã Tương Giang- huyện Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh.
III . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là di tích và các di vật trong di tích đình Hồi Quan –
xã Tương Giang – huyện Từ Sơn – tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu đặt di tích đình Hồi Quan trong không gian lịch sử Văn
hoá Hồi Quan – Tương Giang – Từ Sơn – Bắc Ninh
IV. Phương pháp nghiên cứu.
1. Vận dụng quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng trong việc
xem xét đánh giá sự kiện trong tiến trình vận động phát triển.
2. Khoá luận sử dụng phương pháp bảo tàng học và bộ môn bảo tồn di

tích.
3.Sử dụng phương pháp điền dã khảo sát trực tiếp di tích để thu thập tài
liệu giải quyết nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
V. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, khoá luận chia làm ba chương:
Chương I- Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích
Chương II- Giá trị kiến trúc- nghệ thuật và lễ hội đình Hồi Quan.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 3
Khoá luận tốt nghiệp
Chương III-Bảo vệ và phát huy tác dụng của di tích đình Hồi Quan
Ngoài ra , khoá luận còn có phần phụ lục ảnh minh hoạ
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi gặp không Ýt khó khăn, thứ
nhất là tài liệu viết về di tích hầu như không có, về lễ hội lại càng không, vì đây
chỉ là một hội làng. Song với sự cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ tận tình của
ban quản lý di tích đình hồi quan, cụ từ coi đình, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình
của thầy giáo Nguyễn Tiến cùng các thầy cô trong khoa Bảo Tồn- Bảo Tàng
trường Đại Học Văn Hoá Hà Nội, tôi đã hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của
mình.
Là một sinh viên năm thứ tư chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế, vẫn
còn nhiều tri thức chưa được bổ sung nên không tránh khỏi thiếu xót. Kính
mong các thầy cô giáo, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu xem xét và tham gia
đóng góp ý kiến để khoá luận hoàn chỉnh và tiến bộ hơn.

CHƯƠNG I:
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH TỒN TẠI CỦA DI TÍCH

I . VÀI NÉT VỀ ĐỊA DANH VÀ CƯ DÂN NƠI DI TÍCH TỒN TẠI.
1.1.Lịch sử hình thành làng Hồi Quan.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 4
Khoá luận tốt nghiệp

Từ nội thành Hà Nội, qua cầu Chương Dương theo đường quốc lộ 1A, đến
km 150, cách Hà Nội 22km, rẽ về tay trái theo con đường bê tông, qua làng Tiêu
Long chừng hơn 1km, ta bước vào địa phận làng Hồi Quan.
Hồi Quan nằm liền kề với làng Tam Tảo( xã Phú Lâm) về phía Bắc, và
các làng Tiêu Long, Hương Phúc(cùng thuộc xã Tương Giang) về phía Nam,
làng Phúc Tinh(xã Tam Sơn) về phía Tây và làng Đình Cả(xã Nội Duệ) về phía
đông.Tất cả vốn là một cụm làng có lịch sử văn hoá lâu đời của đất Kinh Bắc
xưa.
Trong chiều sâu của lịch sử, Hồi Quan là một làng cổ nằm giữa một vùng
đất cổ – trung tâm của đồng bằng Bắc Bé – là một trong những cái nôi của văn
minh nước Việt cổ, nơi ghi nhận và chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại của dân
tộc ta từ ngàn xưa để lại, nơi quần cư buổi đầu của người Việt cổ, nằm rải rác
khắp vùng đồng bằng mới được khai phá : Kẻ Sặt, Kẻ Bảng, Kẻ Chờ, Kẻ Cẩm,
Kẻ Hồi cả một vùng rộng lớn trên đôi bờ sông Tiêu Tương, Ngũ huyện xưa.
Thuở Êy, con người đã đến đây cư trú ven bên bờ sông, trên các gò đồi Tam
sơn, Tiêu Sơn các nhà khảo cổ đã phát hiện và khai quật thấy trên những xóm
làng xưa ở chân núi Tiêu, dấu tích để lại là nhiều di vật gốm, đá, đồng, được xác
nhận vào thời đại Hùng Vương trên 3000 năm, đã chứng tỏ được ở vùng đất
này, miền Tiên Sơn xưa ( Hồi Quan – Tương Giang ) vào thời đại chuyển tiếp từ
đồ đã sang đồ đồng, con người đã đến đây cư trú, khai phá trên các gò bãi ven
sông màu mỡ để tạo làng lập xóm, chuyên sống bằng nghề đánh cá, trồng lúa
nước, nuôi tằm , dệt vải.
Hồi Quan – Tương Giang, mảnh đất cổ kính, làng quê giàu đẹp, con
người ở đây thật thà , chất phác, tinh tế, lịch lãm trong ứng xử, yêu các sinh hoạt
văn hoá lễ hội một làng quê như thế đã được tạo lập, tồn tại và phát triển
trong suốt quá trình chống giặc ngoại xâm. Chính người Hồi Quan đã đóng góp
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 5
Khoá luận tốt nghiệp
xương máu với những chiến công, những con người được các thế hệ xưa và nay
mãi ghi nhớ, tôn thờ , kính trọng và noi theo.

Thủa các anh hùng dựng nước, Hồi Quan thuộc bộ Vũ Ninh, quê hương
của người anh hùng làng Gióng. Khi bước vào chính sử, lnàg Hồi Quan nằm gần
với Cổ Loa, kinh đô của Thục An Dương Vương về phía đông bắc.
Theo sách Địa lý hành chính kinh bắc của Nguyễn Văn Huyên thì làng
Hồi Quan có tên thường gọi là Hồi Trang ; còn dân gian vùng này vẫn gọi là Hồi
Lan Trang, theo thần phả thì làng còn có tên là Hồi Quân.
Cuối thời Lê , đầu thời Nguyễn, theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế
kỷ XIX, làng ( cũng là xã ) Hồi Quan thuộc tổng Mẫn xá, huyện Yên Phong, phủ
Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. Đầu thế kỷ XX, tổng Mẫn xá được chia thành hai tổng
là : Quang Phong và Ân Phú. Hồi Quan thuộc tổng Ân Phú, huyện Yên Phong,
phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1946 – 1954 ), Hồi Quan là một
thôn nằm trong liên xã Nhật Tân, gồm các xã cũ : Tam Tảo, Hồi Quan, Đông
Phù, Vĩnh Phục và Yên Phú, huyện Yên Phong. Sau cải cách ruộng đất ( 1955 –
1957 ), Hồi Quan được nhập vào xã Tương Giang gồm làng Hồi Quan và năm
làng Tiêu ( Tiêu long, Tiêu Thượng, Tiêu Sơn, Tiêu Hương Phúc và Tiêu Tạ
Xá ).
Tháng 4 – 1963, xã Tương Giang được cắt chuyển về huyện Tiên sơn
( nay gồm hai huyện là Từ Sơn và Tiên Du ), tỉnh Hà Bắc, từ đầu năm 1997 đổi
tên là tỉnh Bắc Ninh.
1.2. Đời sống dân cư.
Căn cứ vào các bi ký còn lưu tại chùa và đình thì từ cuối thế kỷ XII, đầu
thế kỷ XVIII, Hồi Quan đã trở thành làng đông đúc, cơ cấu tổ chức ổn định với
bốn giáp; đời sống dân làng tương đối khá giả với nghề trồng lúa và canh cửi’
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 6
Khoá luận tốt nghiệp
nên dân làng đã dựng được chùa (năm Giáp Tuất , niên hiệu Chính Hoà- 1694)
và đình (năm Giáp Ngọ, niên hiệu Vĩnh Thịnh- 1714).
Cho đến sát Cách Mạng Tháng Tám, Hồi Quan là một làng thuộc diện
trung bình về mặt dân số trên vùng đồng bằng Bắc Bộ với xấp xỉ 1000 dân. Đến

cải cách ruộng đất (1955) , làng có 284 hộ với 1191 khẩu. Song về mặt diện tích,
Hồi Quan thuộc diện có nhiều ruộng đất, tổng cộng là 802 mẫu 2 sào 3 thước.
Điều đáng chú ý là trong sè 739 mẫu 9 sào 7 thước canh tác có 90 mẫu ở chân
sâu dưới đồng, thường xuyên bị ngập nước không gieo cấy được, hoặc nếu có
cấy thường bị mất trắng.
Sau hơn 40 năm dưới chế độ mới, diện tích, dân số của làng có nhiều
biến chuyển. Do phải điều chỉnh ruộng đất cho các làng bên, do dành một phần
cho việc xây dựng các công trình giao thông thuỷ lợi và dãn dân nên đến nay,
tổng diện tích của cả làng chỉ còn 54 mẫu 8 sào 11 thước, trong đó đất canh tác
có 497 mẫu 9 sào 12 thước, thổ cư tăng lên 45 mẫu 8 sào 14 thước.
Về dân số, nếu năm 1955 cả làng có 284 hộ với 1191 khẩu thì nay đã
tăng lên 889 hộ và 3561 người( có 1808 nữ), nghĩa là, sau hơn 40 năm, số dân
của làng đã tăng hơn gấp ba lần. Do vậy, bình quân ruộng đất đầu người hiện
nay đã giảm đi đáng kể: từ 7 sào trước kia, nay chỉ còn 1 sào 5 thước.
Hồi Quan nằm trong vùng trũng của ba huyện Đông Ngàn, Tiên Du(cũ)
và Yên Phong. Xưa kia, mùa mưa đến, toàn bộ nước của một vùng rộng lớn
gồm nhiều xã: từ Đình Bảng, Đồng Quang, Đồng Nguyên, Tam Sơn và một
phần huyện Đông Anh đổ dồn về đồng Hồi Quan. Có thể coi đồng Hồi Quan là
“rốn” của một vùng ô trũng, hứng chịu nguồn nước từ nhiều nơi dồn về. Ngay
cả khu cư trú của làng cũng ở thế rất trũng.
Trận lụt năm 1971 còn để lại ngấn nước trong đình Hồi Quan ở độ cao
2,45m. Từ xa xưa, dân làng đẫ coi mảnh đất cư trú của họ là đất “Thuyền rồng”.
Cái tên Êy đã gợi cho chóng ta liên tưởng tới cái gì đó liên quan tới vùng đồng
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 7
Khoá luận tốt nghiệp
nước chiêm trũng theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì xưa kia hình
dáng của làng này tựa như con thuyền rồng. Một số các địa danh của làng xưa
cũng mang những cái tên khác nhau của con thuyền
ở giữa làng, chính là nơi trũng nhất của khu cư trú được coi là lòng thuyền,
đình làng cũng được xây dựng. Từ “lòng thuyền hướng về phía bắc của làng là

một con đường thẳng tựa như cột buồm. Phía bên phải “cột buồm” là “cánh
buồm” . “Cánh buồm” là một khu đất rộng chừng 50 ha, ngày nay dân làng gọi
khu đất này là cánh đồng dù ( bà con Hồi Quan cho biết theo cách hiểu của họ
thì Dù cũng có nghĩa là buồm)
Ngoài ra, phía cuối làng còn có khu đất mà dân gian gọi là “Nấm Mả Từ”-
dân làng cho rằng đây chính là bánh lái của con thuyền.
Ngoài việc ở cốt đất lấp đồng Hồi Quan còn chịu tác động của nước lũ
sông Ngũ Huyện Khê, nên thường xuyên bị úng lụt. Điều kiện thiên nhiên Êy đã
quy định diện mạo cơ bản của làng về phương diện kinh tế như phân định của
các nhà dân tộc học là làng chiêm trũng, nghĩa là phần lớn diện tích đồng ruộng
chỉ cấy được một vụ chiêm, còn vụ mùa như lòng chảo nước, chỉ có khoảng trên
dưới 30 mẫu cấy được. Các giống lúa cấy ở đây là Canh nông, Sai đường(lúa tẻ)
và nếp dợ, nếp vằn , nếp lấp, nếp cái hoa vàng(lúa nếp). Đặc điểm của đồng
chiêm đã làm cho việc canh tác ở đây mang tính đặc thù rõ rệt: đi cày, đi bừa
phải cắm vè, đi cấy phải dùng thuyền. Điều kiện đồng ruộng bất lợi, kỹ huật
canh tác lạc hậu làm cho năng suất lúa ở đây rất thấp, nơi cao nhất chỉ khoảng
60-70kg một sào( số diện tích này rất Ýt), còn đa số chỉ từ 30-40kg một sào , nói
theo ngôn ngữ của người làng là “một sào ruộng không được một gánh
thóc”.Như vậy cũng như nhiều làng quê trên vùng châu thổ Bắc Bộ, nghề trồng
lúa ở đây không đảm bảo những yêu cầu cơ bản của đời sống con người. Do vậy
dân làng phải tìm một lối thoát khác, đó là nghề dệt.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 8
Khoá luận tốt nghiệp
Cho tới nay không một cụ già nào trong làng biết được nghề dệt ở đây có từ
bao giờ và do ai truyền dạy. chỉ biết rằng, đã từ lâu lắm, người làng Hồi Quan
rất thạo nghề canh cửi: trước Cách Mạng Tháng Tám năm 1945, hầu như nhà
nào cũng chỉ có một khung dệt, một số gia đình có tới 4-5 khung, phải thuê thợ
ở các nơi khác đến làm một số công đoạn như quay ống, dệt. Sản phẩm chính
của nghề dệt Hồi Quan là vải khổ hẹp(40cm), vải màn, đũi Với nghề dệt, làng
xóm Hồi Quan xưa quanh năm nhộn nhịp, rộn lên tiếng thoi đưa lách cách, chỉ

trừ ngày lễ tết và dịp hội. Trong một ngày thì từ sáng sớm, mọi nhân lực được
huy động vào nghề dệt: vợ ngồi dệt hoặc đi bán vải (ở chợ Giàu- Phù lưu),
chồng thì mắc, kẹo, đậu, người già và trẻ nhỏ thì quay ống. Đến khi màn đêm
phủ xuống, cả nhà mới ngừng tay. Chả thế mà ca dao từng có câu:
Hồi Quan là đất cửi canh
Đến xâm xẩm tối rắp ranh chơi bời.
Sự tần tảo sớm hôm của người Hồi Quan, nhất là của người phụ nữ đã
giúp cho họ có một nguồn thu nhập đáng kể, không những bù lấp được phần nào
lương thực bị thiếuhụt do đồng ruộng chỉ cấy được một vụ chiêm với năng suất
thấp và bấp bênh mà còn đáp ứng được các yêu cầu chi tiêu khác như mua thêm
thực phẩm, may sắm quần áo, đồ dùng thiết yếu trong nhà, các công việc lớn
như làm nhà, ma chay, cưới xin, khao vọng, mua ngôi thứ
Về chợ, xưa làng không có chợ riêng, dân làng phải đến các chợ lân cận
như chợ Sơn của làng Tam sơn ( họp các ngày 2, 5 ,7, 10 ), chợ Giầu làng Phù
Lưu (họp ngày 4 và 9), chợ Lim ( họp ngày 3, 8), chợ Viềng làng Vĩnh Kiều họp
vào tất cả các ngày để trao đổi buôn bán.
Ngày nay, sau hơn 40 năm thực hiện công cuộc xây dựng nông thôn mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, bộ
mặt kinh tế- xã hội của làng Hồi Quan đã thay đổi căn bản. Đồng ruộng được cải
tạo lại, từ chỗ chỉ cấy được một vụ “ chiêm khê mùa thối” hay “ chiêm se dé lụt”
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 9
Khoá luận tốt nghiệp
đến cấy được hai vụ chắc ăn với năng suất cao và ổn định. Vụ đông được mở,
nạn thiếu đói đã lùi vào dĩ vãng. Ngoài nông nghiệp, 99% số hộ có nghề dệt đã
được cải tiến với sản phẩm khá đa dạng: vải hoa, vải màn, khăn mặt 70% số
hộ có nghề xây, 1% số hộ có nghề mộc. 60% số hộ có nhà mái bằng ( nhà tầng),
40% số hộ nhà cấp 4, không còn hộ ở nhà tranh. Theo nhận định sơ bộ của Ban
Quản Lý Thôn, đến cuối 1998, có 5% số hộ thụôc diện giàu, 50% thuộc diện
khá, 45% thuộc diện trung bình, không còn hộ nghèo. Các tiện nghi thưởng thức
sinh hoạt văn hoá- thông tin hiện đại được mua sắm ở hầu hết các gia đình: 90%

số hộ có ti vi ( chủ yếu là ti vi màu), gần 300 xe máy các loại. Đường làng được
bê tông hoá hay gạch hoá.

1.3. Truyền thống văn hoá.
Hồi Quan là một làng nằm trong vùng đồng bằng xứ Kinh Bắc, có dòng
Tiêu Tương thơ mộng chảy qua. Sách Đại nam nhất thống chí chép :
“ Sông Tiêu Tương phát nguyên từ cái đầm lớn xã Phù Lưu huyện
Đông Ngàn chảy từ phía Tây sang Đông Bắc chảy qua xã Tiêu Sơn huyện Yên
Phong, chuyển sang địa phận hai huyện Tiên Du và Quế Dương vào sông Thiên
Đức. Nay sông này có đoạn đắp thành đường Quan, có đoạn bồi thành ruộng,
gián hoặc vẫn còn đoạn sâu “ (15 : 79 ). Sông Tiêu Tương đã đi vào dĩ vãng từ
gần trăm năm nay, nhưng đi trên những đoạn sông nay đã thành ruộng , thành
đường của xã Tương Giang, ta nghe như vẫn còn văng vẳng đâu đây tiếng sáo
của chàng Trương Chi, gợi lại câu chuyện về mối tình hận giữa chàng với nàng
Mỵ Nương qua câu ca ai oán :

Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 10
Khoá luận tốt nghiệp
Tiếng sáo Êy và câu ca ai oán Êy còn gợi lên một quá trình các lớp cư
dân Việt cổ tụ cư và khai phá từ rất sớm vùng đất trũng bên bờ sông Tiêu
Tương, trong lưu vực dòng sông Cầu, sông Đuống và sông Ngũ Huyện Khê.
Bên cạnh dòng sông Tiêu Tương còn có một ngọn núi đột khởi giữa vùng đồng
bằng bao quát cả một vùng rộng lớn với tên gọi là Núi Tiêu ( nơi có ngôi chùa
Tiêu cổ kính ). Dưới chân núi Tiêu là các làng Tiêu : Tiêu Long, Tiêu Thượng,
Tiêu Sơn, Tiêu Hương Phúc, và Tiêu Tạ xá, hợp với làng Hồi Quan thành xã
Tương Giang.
Cùng với truyền thuyết về chàng Trương Chi và nàng Mỵ Nương, còn có
truyền thuyết về đức thánh Tam Quang ( được đông các đại học sỹ Nguyễn Bính

cấu trúc lại trong bản thần phả hiện còn lưu ở đình làng ). Ông là người con của
làng Hồi, đã theo Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Đông Hán, thu phục 65 thành trì,
khôi phục lại giang sơn đất nước. Sau khi mất, ông được dân làng tôn làm
Thành Hoàng.
Ngoài ra, ở làng Hồi Quan còn lưu truyền lại nhiều truyện cổ tích dân
gian, như chuyện Khung vàng dệt cửi :
“ Người Hồi Quan có kể lại rằng : ở cuối làng, sát đuôi “ thuyền rồng”
chỗ Mả Từ có một thế đất nổi lên tựa như cái báng lái của thuyền. Tương truyền
ở đây có chiếc khung cửi vàng của thần. Chính vì vậy mà ở đây có nghề dệt rất
nổi tiếng. Dân làng còn truyền lại : cứ độ nào, vào các đêm thanh vắng mà nghe
thấy tiếng kêu cút kít thì bấy giờ nghề dệt ở làng này rất đắt hàng. “
Bên cạnh đó còn có chuyện Cao Biền yểm long mạch thành giêng làng
Hồi :
“ ở đầu làng Hồi Quan ( đầu thuyền rồng ) hiện nay còn có một cái
giếng đất rất to, nước trong xanh và ngọt. Tương truyền giếng này là do Cao
Biền ở bên Trung Quốc sống vào thời nhà Đường, rất giỏi nghề địa lý. Sau khi
tìm được bút thần do hoàng đế Trung Quốc ban cho, Cao Biền có chế ra được
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 11
Khoá luận tốt nghiệp
một chiếc diều bay đi khắp thiên hạ để tìm huyệt đất tốt. Đến nước Nam, ông ta
tìm được một huyệt đất quý ở gần sông Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi chỉ trong
vòng 1000 ngày là phát.
Từ đó Cao Biền muốn sống một cuộc sống cực kỳ sung sướng xa xỉ vào
bậc nhất trong thiên hạ. Nhưng ngặt vì không có con trai, do vậy Cao Biền muốn
nhường cho con rể. Nhưng người con rể không thực hiện được ý đồ của Cao
Biền cho nên không thành công được. Chán đời không thiết gì nữa, “ không ăn
thì đạp đổ “, nghĩ thế Cao Biền liền cưỡi diều đi khắp nước Nam để yểm huyệt
và phá long mạch. Khi Cao Biền cưỡi diêù đến đầu làng Hồi, từ trên trời ngó
xuống, ông ta biết đầu làng Hồi có thế đất đẹp : Long chầu, Hổ phục, là nơi đất
phát. Cho nên Cao Biền đã hạ diều xuống và dùng bút thần chấm vào khu đất đó

để phá long mạch. Chính vì bút thần của Cao Biền chấm xuống đấy mà đã trở
thành giếng làng Hồi vừa trong vừa mát.
Các truyền thuyết Êy đã chứng minh tính chất cổ xưa của làng Hồi Quan :
Được hình thành từ quá trình dựng nước từ thuở các vua Hùng. Điều Êy
cũng đã được khẳng định bằng di tích khảo cổ học ở quanh làng Hồi Quan. Đó
là di chỉ Bãi Tự ở thôn Tiêu long với công xưởng chế tạo đồ đá, có niên đại
tương ứng với di chỉ Tràng Kênh ở Hải Phòng. Tại làng Tam Sơn liền kề với
làng Hồi Quan, trên ngọn núi Vường và nhiều nơi trong làng, vào những năm
1971 – 1974, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy vết tích của hai lư gốm cổ, dấu
vết của khu cư trú và mộ táng thời Hán, có gạch xây mộ hình lưỡi búa, mảnh
gốm có văn thừng in ô vuông, ô trám và đồ bán sứ.
Như vậy, cùng với các làng xã trong vùng, Hồi Quan được hình thành
cùng với quá trình dựng nước đầu tiên của dân tộc.
1.4. Truyền thống cách mạng.
Đình Hồi Quan được xây dựng từ năm Vĩnh Thịnh thập nhất niên ( Êt
mùi ) tức năm 1715. Từ đó đến nay đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 12
Khoá luận tốt nghiệp
trọng. Trải qua bao nhiêu năm tháng, bao lần thiên tai địch hoạ, nhưng nó vẫn
đứng uy nghi trầm mặc trênnền đất cũ làng xưa, Đặc biệt là đình Hồi quan nằm
ở vị trí phía bắc, cách kinh đô Thăng Long không xa và kề sát đường quốc lộ
như vậy, nhưng thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn, chiến tranh xảy ra liên tiếp,
song nó vẫn vững vàng tồn tại.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, đô hộ nước ta, đặc biệt là trong những
năm kháng chiến chống Pháp, nhiều sự kiện lớn đã diễn ra ở ngôi đình cổ kính
và làng quê thân yêu này.
Năm 1948, tỉnh đội bắc Ninh đã họp bàn những vấn đề quan trọng chuẩn
bị cho cuộc kháng chiến đi vào giai đoạn gay go quyết liệt. Trong những năm
kháng chiến, đình làng Hồi Quan là cơ sở vững chắc tạo điều kiện cho cuộc đấu
tranh cả về quân sự và chính trị. Đáng ghi nhớ là trận chống càn lớn đã diễn ra

ngay ở khu vực đình và làng xóm Hồi Quan.
Đông Xuân năm 1953, trên các chiến trường Cao – Bắc – Lạng, quân ta
đang thắng to, các tin chiến thắng dồn dập báo về các địa phương, làm nức lòng
quân dân trong cả nước. Cay cú với những thất bại trên chiến trường Đông Bắc,
địch càng ra sức khủng bố càn quét, uy hiếp tinh thần nhân dân ta nơi hậu
phương. Hàng ngày chúng cho quân lùng sục xuống các làng xóm xung quanh
để tìm diệt các lực lượng kháng chiến, cướp bóc của cải của nhân dân. Chính vì
thế mà ta chủ trương phải tiêu diệt chúng trong bất kỳ một trường hợp nào.
Xã Tương Giang là một trong những căn cứ địa tương đối vững chắc của
huyện lỵ Yên Phong, lại nằm trên trục đường giao thông quan trọng nối Hà Nội
– Lạng Sơn đi các miền. Thấy rõ được tầm quan trọng, do vậy , địch thường cho
quân sục sạo xuống các vùng xung quanh, khám xét, nhiễu sự trên trục đường
này để cản trở công việc tiếp vận của ta lên các chiến trường chính.
Không thể để cho địch ngênh ngang như vậy, ta quyết định phải tiêu diệt
đich trên trục quốc lộ này. Đêm 12 tháng giêng năm 1953, lực lượng dân quân
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 13
Khoá luận tốt nghiệp
du kích xã Tương giang phối hợp với đại đội 51 thuộc tiểu đoàn Thiên Đức, để
đánh địch ở bốt Đình Cả và tiêu diệt bọn địch đi tuần trên đường số 1. Dưới sự
chỉ huy của đồng chí Tạ Kiên, đại đội trưởng đại đội 51 người ở Tiêu Thượng,
lợi dụng đêm tối của tháng đầu năm, ta đào công sự, phục kích ở dốc Tiêu Sơn,
Dụê Nam, xã Nội Duệ. Từ trên cao quan sát thấy địch đã lọt vào trận địa phục
kích của ta, đại đội trưởng Tạ Kiên bắn một phát súng lục, được lệnh của bộ đội
ta đồng loạt nhảy lên khỏi công sự, ào ạt bắn xối xả vào đội hình của địch. Bị
đánh bất ngờ, địch lúng túng, rối loạn hàng ngũ bỏ chạy tán loạn về bốt Đình
Cả. Trận đánh chỉ diễn ra chớp nhoáng trong vòng 15- 20 phút, quân ta nhanh
chóng rút lui về Hồi Quan, Tam Sơn bố trí công sự để chuẩn bị đánh địch truy
càn.
Lo sợ trước lực lượng của ta, từ mờ sáng ngày 13 tháng giêng năm 1953,
địch huy động, tập trung quân cơ động ở Phù Lưu và Đình Bảng cùng một số

quân ở các đồn bốt xung quanh có tới hàng trăm tên, chia làm hai mũi thành thế
gọng kìm tấn công vào làng Hồi Quan.
1. Đường cầu cỏ thôn Hương Phúc ( mũi chủ yếu ).
2. Đường đồng Tràng Tiêu Thượng ( mũi phô ).
Mở đầu cho cuộc tấn công này, khoảng 8 giờ sáng, khi những tia nắng
xuân Êm áp vừa chiếu xuống, địch đã dồn dập bắn hàng trăm quả đạn đại bác
105 vào làng để uy hiếp tinh thần quân dân ta, sau đó mới ào ạt xua quân dàn
hàng ngang khoảng 300 đến 400 tên lính Lê dương – chủ yếu là lính Âu Phi tấn
công vào làng.
Ta vẫn bình tĩnh chờ địch đến gần, cách trận địa khoảng 50m mới đồng
loạt nhất tề nổ súng. Bị đánh bất ngờ lại gặp hoả lực mạnh, đường đạn căng nên
địch bị đổ gãy ngã hàng loạt, nhiều tên địch đã chết và bị thương, số sống sót
hoảng sợ quay đầu bỏ chạy tán loạn trên các thửa ruộng mạ chiêm toé nước
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 14
Khoá luận tốt nghiệp
trắng xoá. Ta áp đảo địch bằng các tiếng thét xung phong ầm ĩ làm cho bọn địch
càng thêm hoảng sợ.
Lần thứ nhất địch tấn công vào làng xã đã hoàn toàn bị bẻ gãy. Khi trận
chiến đấu quyết liệt của bộ đội ta cùng phối hợp với lực lượng dân quân du kích
trong thôn thì cũng là lúc dân quân làng Hồi tập trung đông nhất trước cửa đình
mà phía trước đình lại là mũi tấn công chính của kẻ địch.
Trước tình hình phức tạp Êy, sau khi hội ý chớp nhoáng trong ban chỉ huy,
ta nhận định nếu để nhân dân chạy đi phía sau làng thì sẽ bị máy bay địch bắn
vào. Cũng nhờ vây mà những tên địch còn sống, hoảng sợ đang nằm úp mặt, nép
xuống vệ đường lóp ngóp đứng lên rút chạy về phía đường 1.
Sau thất bại lần một, suốt từ 8 giờ sáng đến 2 giờ chiều, địch củng cố lại
lực lượng liên tiếp mở 4 đợt tấn công vào làng nhưng hoàn toàn bị quân ta đánh
bật ra, chúng phải bỏ lại nhiều xác chết.
Trước sức mạnh kiên cường, tinh thần anh dũng của bộ đội ta, qua bốn đợt
tấn công nhưng không vào làng được, địch phải ngừng lại, chúng tập hợp ,bổ

sung thêm quân quyết định mở một cuộc tấn công quyết liệt vào làng Hồi bằng
cả trọng pháo và phi cơ.
Tất cả đại bác ở các vùng xung quanh cùng máy bay bà già ( 1. 19 ) chỉ
huy cùng với bốn máy bay khu trực của địch tập trung bắn đại bác và ném bom
napa dồn dập xuống làng Hồi Quan nhằm đốt trụi các dãy cây xanh, san bằng
các nhà dân để uy hiếp tinh thần của nhân dân ta.
Khói lửa ngút trời, xóm làng bốc cháy, nhưng quân và dân ta vẫn bình tĩnh
, vững tinh thần chờ địch đến thật gần mới nổ súng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Chính trước cửa đình Hồi Quan, gần chục xác địch đã bị bắn chết , nằm rải rác
trước cửa tắc môn.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 15
Khoá luận tốt nghiệp
Kết quả ta tiêu diệt hàng trăm tên lính Lê Dương ( đại đa số là lính Âu Phi ),
bọn địch hoảng sợ bỏ chạy hết. Nhân dân làng Hồi Quan đã hoàn toàn dành
thắng lợi trong trận chống càn quét của địch vào làng.

Qua những điều trình bày ở trên, có thể thấy một số đặc điểm nổi bật về
lịch sử- xã hội và truyền thống văn hoá của làng Hồi Quan. Đây thực sự là một
làng được hình thành sớm, trong một vùng quê được khai phá cùng với quá trình
dựng nước của ông cha ta từ thuở các vua Hùng. Là một vùng quê chiêm trũng,
kết cấu kinh tế chính là trồng lúa nước và nghề dệt, cơ cấu tổ chức làng xã là
một cộng đồng chặt chẽ và tương đối hoàn chỉnh, ổn định với nhiều thiết chế.
Nơi đây có một cụm di tích gồm đình và chùa được xây dựng từ lâu đời làm nơi
tổ chức các sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Trải qua diễn trình lịch sử, các thế hệ người dân Hồi Quan còn rất chú trọng
trong việc xây dựng những công trình tín ngưỡng để thờ phụng các nhân vật lịch
sử có công với dân với nước. Cùng với sự tồn tại của ngôi đình làng, còn có
chùa Hồi Quan, tên cổ là Sùng Ân Tự.
Về niên đại dựng chùa, theo các bậc già làng, chùa có từ rất xa xưa. Khỏng
giữa thời Tây Đông Hán, ở vùng Long Biên nước ta có một người con gái rất

đẹp tên là Tạ Diên Nương, nàng vốn sùng mộ đạo phật, nàng thường đi thăm thú
các vùng danh lam thắng cảnh trong vùng. Một hôm đi tới huyện Yên Phong,
xưa gọi là Phú An, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc ( xưa gọi là Vũ Ninh ), lúc tới
đầu làng Hồi Quan ( lóc Êy gọi là Hồi Lan ), nàng thấy một ngôi chùa tên gọi là
Sùng Ân và xung quanh ngôi chùa có vẻ đẹp lạ thường, nàng đã tự nguyện ở lại
ngôi chùa này để sớm tối đèn nhang, hương khói và sau này bà chính là thân
mẫu của đức thánh Tam Quang ( vị thành hoàng của làng ).
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 16
Khoá luận tốt nghiệp
Ghi nhớ công ơn của bà, dân làng Hồi Quan đã không quên hương khói
cho bà theo lệ làng vào ngày mất của bà, tức ngày mùng một tháng giêng hàng
năm.
Vào cuối thế kỷ XII, dân làng dựng lại chùa, theo bia “ Sùng Ân tân tạo
phật tự bi “ lập ngày tốt tháng hai năm Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hoà 15
( 1694 ) thì chùa được xây mới hoàn thành vào tháng ba năm Quý Dậu ( 1693 ).
Người đứng ra hưng công dựng chùa mới là pháp tăng Nguyễn Quang Minh, trụ
trì ở chùa.
Về quy mô kiến trúc, ngôi chùa khá bề thế và cổ kính, bố cục theo kiểu nội
công ngoại quốc, gồm có tam bảo, nhà tiền tế, nhà tổ, nhà khách, trên một diện
tích chừng 500 ha. Bộ vì nóc hiện trạng đơn giản theo kiến trúc Nguyễn. Đề tài
trang trí chùa gồm có các hình rồng, hoa lá, sư tử và tiên phật. Trong chùa có 57
pho tượng tròn, đó là những pho tượng thường thấy trong hệ thống các pho
tượng phật của nhiều chùa khác trong vùng, chẳng hạn như các pho Tam Thế,
Di Đà Tam Tôn, Di Lặc, Thánh Tăng, Trừng ác, Khuyến Thiện chùa có một
quả chuông đồng Sùng Ân Bảo Chung loại lớn với bán kính 60cm, cao 1,2m.
Chuông được đúc vào tháng 12 năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thịnh ( 1800 ).
Điều đáng lưu ý là chữ “Thịnh “ không bị đục. Ngoài ra còn có cây hương đá
lập năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà ( 1697 ).
Về các ngôi mỉếu cổ của làng , theo các già làng kể lại, xưa có cả thảy bốn
ngôi miếu. Các ngôi miếu này trấn giữ ở bốn hướng của làng : Đông, Tây, Nam,

Bắc. Các ngôi miếu Êy chính là các pháo đài bảo vệ làng và cũng còn là nơi thờ
phụng các vị thổ thần có công trong việc bảo vệ an toàn cho làng. Những ngôi
miếu ở các hướng Đông, Nam, Bắc hiện nay không còn nữa, ngày nay chỉ còn
lại một ngoi miếu ở hướng Tây.
Hàng tháng, vào các ngày rằm và mùng một, bà con trong làng vẫn có
người ra miếu để hương khói cầu tài cầu lộc.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 17
Khoá luận tốt nghiệp
Về mặt kiến trúc và giá trị nghệ thuật của các ngôi miếu, nói chung không
có gì khác biệt so với các ngôi miếu cổ khác trong vùng.

II.sự hình thành và quá trình tồn tại của di tích
1. Truyền thuyết lịch sử về các nhân vật được thờ
Hồi Quan- Tương Giang, mảnh đất có bề dày lịch sử, nơi đây còn in đậm
dấu Ên của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Mảnh đất
này cũng là nơi sản sinh ra nhiều vị tướng tài cống hiến trọn đời ch đất nước.
Mỗi gò đất, cánh đồng, con sông, con đường đều ghi dấu những sự kiện liên
quan đến thân thế và sự nghiệp các vị thần đang được nhân dân tôn thờ. Việc
xây dựng các công trình tín ngưỡng để phụng thờ các nhân vật có công với dân
với nước là tỏ lòng tôn kính, lòng biết ơn sâu sắc, đạo lý “ uống nước nhớ nguồn
“ của các thế hệ người dân thôn Hồi Quan. Qua đó giáo dục thế hệ trẻ truyền
thống đấu tranh, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trân trọng gìn
giữ các giá trị văn hoá mà cha ông ta đã dày công xây dựng.
Đình làng Hồi Quan được dựng lên để tôn tờ nhân vật lịch sử : Tam Quang
Đại vương – tướng lĩnh của Hai Bà Trưng. Bên cạnh đó còn có bà Nguyễn thị
Ngọc Thường, người quê hương có nhiều công đức góp tiền của cùng với làng
tu sửa lại ngôi đình.
2.1. Truyền thuyết về vị thành hoàng làng.
Mét trong những đặc điểm phản ánh về truyền thống phụ nữ Việt
Nam nói chung và về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nói riêng, chúng ta thấy

- đó là sự tham gia tích cực, đông đảo của nữ giới trong cuộc chiến đấu trực tiếp
với quân thù. Nhưng ỏ đây, tại đình Hồi Quan, cũng như một số di tích khác ở
làng xã vùng này như đình Cẩm Giang, đền Cẩm Thụ có đặc điểm khác biệt
là các di tích đó lại là nơi thờ phụng, tưởng niệm những danh tướng của Hai Bà
Trưng, là nam giới. Đình Cẩm Giang thờ ông Pháp Hải Đại Vương, đền Cẩm
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 18
Khoá luận tốt nghiệp
Thụ thờ Quảng Khánh Đại Vương , và đình Hồi Quan thê Tam Quang Đại
Vương - được tôn lên làm thành hoàng của làng.
Truyền thuyết về vị thành hoàng của làng, theo bản sự tích chính bản về
đức thánh Tam Quang được dịch từ tiếnh Hán ra tiếng Việt như sau :
( Bản ghi chép sự tích một vị đại vương triều Trưng Nữ Vương- trong sách
Cấn Chi, bé trung đẳng – bản chính của bộ Lễ quốc triều ).
Ngày xưa, vua Hùng khởi vận giang sơn thánh tổ, xây dựng cơ đồ hơn hai
mươi năm. Vua Hùng dựng nước, non xanh ngàn dặm, xây dựng nên cung điện,
kinh đô, một dải non sông xanh biếc.
Mở đạo thánh đế minh vương, cứu nhân độ vật, thống lĩnh mười lăm bộ,
gọi Bách việt là tổ đầu tiên. Về sau đổi thành Hùng Gia. Ngày Êy bách thần
sông núi thường hay xuất thế đầu thai thành người đi giúp nước cứu dân, nhà
nào có phúc sẽ gặp may mắn này.
Lại nói cơ đồ của nhà Hùng truyền tới đời thứ mười tám là hết, ý trời cáo
chung. Trải đến giữa thời Tây Đông Hán, ở vùng Long Biên thuộc nước ta, có
người con gái họ Tạ tên gọi Diên Nương, tuổi tròn mười tám, má phấn môi son,
dáng dấp yểu điệu, mắt long lanh tựa sóng mùa thu, quả là mười phần xinh đẹp.
Thế nhưng, duyên lành chưa định được nơi chốn, nàng tình nguyện ở vậy
và sùng mộ đạo phật.
Rồi nàng đi thăm các nơi danh lam thắng cảnh. Một hôm đi tới huyện
An Phong ( xưa gọi là Phú Ân ), phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc ( xưa gọi là Vũ
Ninh ); lúc đến đầu trang Hồi Quan ( xưa gọi Hồi Lan ), nàng thấy một ngôi
chùa tên gọi Sùng Ân Tự.

Ngắm bốn phía, nàng thấy nơi đây có nhiều phong cảnh đẹp, và nàng đã
quyết định ở lại ngôi chùa này, sớm tối đèn nhang, hương khói. Trụ trì ở chùa
mới được một năm mà nàng đã được dân trong vùng hết lòng mến mộ.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 19
Khoá luận tốt nghiệp
Vào một đêm cuối canh ba, nàng bỗng mơ thấy một chàng trai khôi ngô
tuấn tú, mình mặc áo đỏ từ bên đường đi tới, tự xưng là thần linh của vùng đất
này, là con trai thứ ba của vua Lạc Long, được cai quản miếu này. Thần nói với
nàng rằng :”nhà ngươi đức dày, trời đã biết đến, nay cho tướng quân Linh Linh
phụng mệnh thiên đình, xuống đầu thai làm con “.
Nói xong chàng bỗng bay vút lên không trung, nàng ngước lên chỉ thấy một
vầng hào quang soi thẳng xuống thân mình, nàng ôm vào lòng mình cái quầng
sáng kỳ ảo Êy và nàng như cảm thấy mình dường như vừa trải qua một giấc mơ
kỳ lạ.
Từ khi nhìn thấy ánh hào quang kỳ diệu Êy, kỳ lạ thay, nàng đã mang thai.
Tới ngày mồng 7 tháng 2 năm Giáp Ngọ thì nàng sinh một cậu bé khôi ngô tuấn
tú có tướng mạo khác thường, trí tuệ xuất chúng, bèn đặt tên là Tam Quang
( theo quan niệm dân gian, Tam Quang là ánh mặt trời, mặt trăng và các vì sao ).
Bà mẹ chăm chút nuôi dưỡng người con đến độ tuổi mười lăm, cậu bé trở
thành một chàng trai cực kỳ thông minh, học giỏi, thuộc lòng binh thư, võ nghệ
cao cường, dũng mãnh, địch nổi muôn người.
Năm ông lên mười tám, người mẹ bỗng dưng không đau ốm mà mất.
Trong thời gian ba năm đoạn tang mẹ cũng là lúc Tô Định mang quân sang xâm
lược nước ta.
Trăm họ lầm than, không người cứu giúp. Khi Êy có người cháu gái của
Vua Hùng, tên huý là Trắc, là bậc hào kiệt trong đám nữ lưu, thanh thế như
thánh thần, oai hùng dũng mãnh, đem quân ra trận đánh giặc.
Trong đấng nam nhi còn thiếu người có tài thao lược, nên nữ tướng đã
dẫn quaan đi phát động tướng tài. Bà mật tâu với thánh Tản Viên, hội họp bách
thần ở cửa sông Hát Môn ( tức xứ Sơn Tây ); lập đàn tế các vị thần linh, ngầm

khấn rằng: “ Trời sinh ra nhười làm chủ vạn vật trong trời đất, sinh linh có tông
thống, cỏ cây có sinh sôi. Trải qua các đời đế vương trước, thiên tử thánh minh,
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 20
Khoá luận tốt nghiệp
triều đình có đạo, quý dân yêu nước, đức hoá khắp nơi, thiên hạ thanh bình, đất
nước vô sự. Nay có người khác họ là bọn chó dê Tô Định, ngông cuồng bạo
ngược, tàn sát dân lành, khiến cho thần người trời đất đều vô cùng căm phẫn.
Thiếp tôi là cháu gái Vua Hùng xưa, mỗi khi nhắc tới việc các sinh linh
bị sát hại, không khỏi bùi ngùi rơi lệ. Nay đau lòng thương đàn con đó, những
mong lấy nghĩa trừ tàn, nguyện cùng các vị tôn thần linh thiêng hội họp ở đàn tế
này, xinchứng giám và thề nguyền giúp sức cứu thiếp; Trưng nữ này đem quân
đi đánh giặc giúp nước cứu dân, xin hãy cùng thiếp khôi phục lại cơ đồ của tổ
tông, đưa nhân dân tới nơi yên ổn, cưú sinh linh khỏi cảnh lầm than, để không
phụ ý trời, thoả vong linh của vua cha nơi đền miếu, làm yên lòng tổ tiên nơi
suối vàng.”
Khấn xong bà hô âm binh trùng trùng điệp điệp theo đi đánh giặc. Bà lại
truyền hịch tới các đạo châu huyện ở Nam Bang, ở đâu có tướng tài văn võ và
đức độ hơn người, những anh hùng xuất thế có thể đánh tan giặc, hãy mau đem
binh lính phiên thần đi dẹp giặc.
Sau khi nghe lời hịch kêu gọi diệt thù của Bà Trưng, ngài Tam Quang
liền chiêu tập anh hùng hào kiệt khắp vùng, chiêu mộ quân sĩ được hàng vạn
người. Lại mổ lợn , giết trâu, lập đàn cúng tế trời đất, thần linh, rồi khao thưởng
quân sĩ của bản trang. các vị phụ lãi và nhân dân trang Hồi Quan hết sức sợ hãi.
Khi nghe ngài Tam Quang nói :” mẹ ta trước kia có nói ta vốn là thần linh
ở đây, dân trang các người phải thờ cúng ta các ngày sinh và hoá; mai đây, ta đi
đánh giặc lập công, diệt trừ bọn giặc cướp nước, ta chẳng phải như quân giặc
cướp nước kia, các ngươi chớ cã lo sợ; nghe ngài nói xong thì nhân dân phụ lão
trang Hồi Quan đều vô cùng vui mừng, làm lễ xin được theo làm thần tử của
người. Người ưng thuận cho hai mươi lăm người dân trang khoẻ mạnh làm gia
thần thủ túc.

Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 21
Khoá luận tốt nghiệp
Ngay sau hôm đó, người dẫn quân đến đồn Trưng Nữ. Thấy ông là người
có tài văn võ, lại có một đội quân tinh nhuệ, bà bèn cử ông làm chỉ huy sứ ; và
sau đó, bà Trưng cử ông đem quân đi theo em gái bà là bà Trưng Nhị, tiến đánh
đồn của Tô Định. Đánh nhau chưa hết trận đầu đã bắt sống được tướng giặc, còn
quân lính thua chạy tán loạn.
Quân ta thu phục dược sáu mươi lăm thành trì ở linh Ngoạ về cho Nam
Bang. Bà Trưng lên ngôi vua, ban chiếu triệu ông về kinh đô. Bà lại mở tiệc
mừng khao thưởng tướng sĩ, gia phong công trạng theo thứ bậc khác nhau. Rồi
nhà vua cho phép ông được trở về An Phong lấy làm nơi thực Êp.
Ông bái tạ Bà Trưng rồi trở về nơi nhiệm sở, tháng ngày nhàn du. Thấy
trang Hồi Quan là nơi đất quý, có sông núi bao quanh, long hổ ôm Êp, ông cho
đây là một thắng cảnh đẹp. Thế là ông cho binh sĩ và nhân dân xây dựng doanh
trại, sửa sang đền miếu. Ông lại mở yến tiệc mời nhân dân phụ lão trang Hồi
Quan tới dự.
Trong lóc vui tiệc, ông nói với mọi người :” Ta đã được nhà vua ban
quan tước, dân làng đã được an cư lạc nghiệp ; thế là từ nay ta vinh hiển hưởng
phúc cùng các ngươi. Ta để lại một di mệnh là trang các ngươi sẽ phụng thờ ta
mãi mãi.” ông lại ban cho dân năm mươi hốt bạc dùng vào việc thờ cúng sau
này.
Bà Trưng lên ngôi được ba năm thì nhà Hán lại sai Mã Viện sang phục
thù. Bà Trưng vô cùng lo lắng, binh thư cấp báo về triều năm lần trong một
ngày.
Bà cho triệu ông về kinh đô cùng bà đem quân đi giết giặc. Đánh nhau
một trận quyết liệt mà vẫn chưa phân thắng bại. Không ngờ được rằng, do vận
trời suy vong, vua Trưng Nữ thất cơ thua chạy, thế rồi bà hoá ông than rằng :”
cơ đồ của nữ vương quả thật chỉ như một giấc mộng mà thôi!”.

Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 22

Khoá luận tốt nghiệp
Hôm sau đó, ông trở về nhiệm sở An Phong. Không ngờ bị quân Hán
đuổi theo. Ông nói với mọi người rằng :” Quân giặc Hán mạnh, khó mà địch
nổi ” và bèn sai quân ra đóng chặt cửa ải không cho chúng vào. Tướng quân
nhà Hán vô cùng căm giận, cho quân tiến thẳng vào.
Đêm hôm ấy,chúng tiến đến đất Trong- Vi, ông phá vòng vây, cưỡi
ngựa lên núi, rồi biến mất ( đêm Êy là vào ngày 15 tháng 11 ).
Sau khi ông qua đời, nhân dân làng Hồi Quan làm lễ cúng tế, rước thần
hiệu và xây đền thờ ông.
Sau này tới thời vua Lê Đại Hành, vào năm Thiên Phúc ( 980 ) có làm
lễ khảo khoá các vị thần đã linh ứng giúp nước để tặng thưởng thêm. Và nhà vua
đã phong cho ngài Tam Quang là :” Thần thành hoàng linh phù “ của vùng này.
Sắc phong ghi nguyên chữ “ Bản cảnh thành hoàng linh phù chi thần “.
- Phong ngài là đại vương Tam Quang.
- Trong khi làm lễ, các loại sắc phục nhất thiết bị cấm là màu hồng,
màu tím ( cho phép trang Hồi Quan được làm hộ nhi – tức được miễn sưu dịch
cho nhà nước vì đã có công thờ cúng thần - để thờ cúng ngài ).
Từ đó về sau, ngài lại càng tỏ rõ sự linh ứng của mình, nên các đế vương
đời sau đều tặng thêm mỹ tự cho ngài.
Đời vua Trần Thái Tông, khi giặc Nguyên kéo quân sang xâm lược nước
ta, kinh thành bị vây hãm, Trần Quốc Tuấn nhận lệnh đi cầu đảo ở đền thờ ngài
thì được ngài hiển ứng, âm phù theo đi đánh giặc, dẹp được tương quân Ô Mã
Nhi.
Sau đó vua Thái Tông khen thưởng cho ngài mỹ tự là :” Uy dũng, Hộ
quốc, Tế thế, An dân, Phù vận, Dương vũ, Bản cảnh, Hiển từ, Tích chỉ, Ngưng
hưu “.
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 23
Khoá luận tốt nghiệp
Đến đời vua Lê Thái Tổ khởi binh dẹp giặc Minh, chém đầu Liễu
Thăng, đất nước thái bình, vua Thái Tổ lại tặng cho ngài sắc chỉ là :” Phổ tế,

cương nghị, anh linh”.
Khai lệ ngày sinh cũng như ngày hoá cùng những chữ huý nhất thiết bị
cấm kỵ là :” Tam Quang “. Cho phép trang Hồi Quan phụng thờ ngài.
- Ngày sinh : mồng bảy tháng hai. Làm lễ phải : Trên đặt cỗ chay,
dưới bày trâu lợn, xôi rượu, bánh dày, bánh chưng, ca hát, đánh vật,
diễn các trò vui.
- Ngày hoá : mười lăm tháng mười một. Làm lễ có : Trên đặt cỗ
chay, dưới bày trâu lợn, xôi rượu, bánh chưng, bánh dày.
2.2. Bà Nguyễn Thị Ngọc Thường.
Từ xưa, đình làng Hồi Quan chỉ thờ một vị thần là đức thánh Tam Quang.
Vào thời Hậu Lê, không rõ năm nào, dân làng còn phối thờ bà Nguyền thị Ngọc
Thường Trong đình. Theo lưu truyền, bà Thường là con gái làng Hồi Quan.
Một hôm, nhà vua đi tuần thú vùng này và ghé vào quán nước đầu làng
Hồi Quan, thấy có trầu têm cánh phượng rất đẹp, bèn hỏi chủ quán rằng ai têm
trầu này. Bà chủ quán đáp :
- Con gái già têm đấy, nó đang bắt cua ngoài đồng kia kìa.
Vua ngoảnh mặt nhìn ra cánh đồng thì thấy có áng mây vàng lởn vởn bay,
che cho cô gái đang bắt cua . Vua bèn sai cận thần ra gọi cô về. Thấy cô gái quê
mùa, chân tay còn lấm láp đầy bùn đất mà vẫn xinh đẹp khác thường, trên người
nàng toả ra thứ mồ hôi quế thơm phức, vua bèn xin với bà chủ quán cho đưa về
cung.
Thế là cô gái bắt cua thuở nào đã trở thành vợ vua. Chung sống với vua
đã lâu nhưng mãi không sinh nở, được vua cho về. Do xa quê quá lâu, lúc trở về,
bà về nhầm làng là làng Diềm ( Yên Phong ). Vốn là một ca công có giọng hát
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 24
Khoá luận tốt nghiệp
nổi tiếng, bà đã đặt cho làng Diềm lối hát quan họ và bỏ tiền ra dựng đình cho
làng. Một hôm bà ra bờ giếng dạo chơi, không thấy cây hồng chấp, hỏi lại mới
biết là mình về nhầm làng. Bà lần tìm về đúng quê mình, vốn liếng còn lại có ba
quả cau và ba lá trầu bằng vàng, bèn dâng cúng cho làng để dựng mới lại đình

cũ đã bị hư hỏng.
Những quả cau và lá trầu bằng vàng Êy về sau được làm mô hình bằng
giấy bạc để thờ, nay vẫn còn ở đình Hồi Quan. Từ đấy dân hai làng kết nghĩa
anh em, ngày mùng bảy tháng hai hàng năm, khi làng Hồi Quan mở hội, dân
làng Diềm vẫn ra theo lễ. Nhớ công lao của Bà Thường, dân làng tôn bà là “ Tá
phụ hoàng hậu “, lập bài vị trong cung, cạnh bài vị thành hoàng. Phần mộ của bà
được dân làng mai táng ngay trước cửa tam quan chùa làng. Đây là hiện tượng
Ýt thấy trong việc thờ cúng ở làng xã.
2. Đình Hồi Quan qua các thời kỳ lịch sử.
Di tích được hình thành và tồn tại là do chính bàn tay cũng như tâm thức
của con người, sự hình thành và tồn tại của di tích song song với sự phát triển
của lịch sử làng xã. Theo GS Hà Văn Tấn :” mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin
rằng Đình – ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải
thời tiền sử thì cũng thời sơ sử của dân tộc, tất nhiên là thời đó, chưa được gọi là
đình, mội từ vay mượn của Trung Hoa. Tuy nhiên, để xác định rõ thời điểm khởi
dựng của một di tích hoàn toàn không phải việc dễ dàng”
Ngày nay, trên đất nước ta, có biết bao nhiêu nững công trình văn hoá,
hàng vạn những di sản về lịch sử đánh giặc giữ nước – về kiến trúc, điêu khắc,
nghệ thuật, về danh lam thắng cảnh đã và đang được nhà nước và nhân dân ta
bảo vệ, giữ gìn nhằm phát huy những truyền thống cao đẹp đó để khuấy động,
khơi dậy tình yêu quê hương “uống nước nhớ nguồn” cho các thế hệ trẻ mai
Ngô Thị Thanh Tâm: BT 20B 25

×