SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ DẠY
HỌC HÓA HỌC
KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ DẠY HỌC HÓA HỌC
Thế kỉ XXI , thế kỉ của những phát minh khoa học có khả năng làm thay
đổi diện mạo thế giới. Vì vậy để đào tạo ra những chủ nhân của những phát minh
ấy thì phải cần đến sự nghiệp giáo dục. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước thì
giáo dục đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Nghị quyết
trung ương Đảng lần thứ IV đã chỉ rõ " giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy
và là điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế , xã
hội, xây dựng và bảo vệ đất nước".
Để thực hiện quan điểm trên, Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành TƯ
Đảng khóa VIII, về việc tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ
:" Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp tốt học
với hành, học tập với lao động sản xuất; thực nghiệm và nghiên cứu khoa học,
gắn nhà trường và xã hội, áp dụng phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề , do đó đặt ra nhiệm
vụ cho ngành giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để đào tạo con người
có đủ khả năng làm việc theo yêu cầu của cuộc cách mạng lớn của thời đại.
Một trong những sự đổi mới của giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng hoạt động hóa người học, trong việc tổ chức quá trình lĩnh hội tri
thức thì lấy học sinh làm trung tâm, theo hướng này GV đóng vai trò tổ chức và
điều khiển học sinh chiếm lĩnh tri thức, tự lực hoạt động tìm kiếm kiến thức
mới.Trong sự đổi mới này không phải ta loại bỏ phương pháp truyền thống mà
cần tìm ra những yếu tố tích cực sáng tạo trong từng phương pháp. Trong dạy
học hóa học ở trường THCS bên cạnh những phương pháp dạy học mới như: vấn
đáp tìm tòi, dạy và học phát hiện giải quyết vấn đề, dạy và học hợp tác theo
nhóm nhỏ….thì việc tăng cường sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp với
thí nghiệm hóa học cũng là phương pháp đổi mới dạy học theo hướng tích cực
hóa người học. Vì Lênin đã nói " Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn", vậy có thể xem trực quan là khâu quan trọng
bắt đầu cho quá trình nhận thức. Và vì hóa học là môn khoa học thực nghiệm,
nên trong giảng dạy bộ môn hóa học, việc sử dụng dụng cụ trực quan và thí
nghiệm là một trong những việc làm không thể thiếu đối với người GV, có tác
dụng giúp các em đi tìm tri thức mới mang tính nghiên cứu, nó làm điểm xuất
phát cho quá trình nhận thức của học sinh; giúp các em lĩnh hội kiến thức mới
một cánh chắn chắn có hệ thống, logic, bổ sung vào vốn hiểu biết nghèo nàn, các
biểu hiện tích lũy còn hạn chế của các em. Bên cạnh nó còn đặc trưng với bộ
môn hóa học, giúp học sinh nắm bài nhanh,qua thí nghiệm các em tận mắt thấy
các hiện tượng xảy ra, thấy được sự biến đổi chất hay các điều kiện để phản ứng
xảy ra … thì các em mới tin tưởng vào khoa học một cánh tuyệt đối, có niềm
tin vào cuộc sống, tinh thần học tập sẽ hăng say. Thay vì trước đây học sinh học
môn hóa chỉ lĩnh hội kiến thức qua lí thuyết mà không được kiểm chứng bằng
thực nghiệm dẫn đến các em mất niềm tin vào khoa học, mơ hồ về các hiện
tượng xảy ra trong thực tế, áp dụng kiến thức đã học vào thực tế rất khó khăn.
Chính vì vậy trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hóa
người học thì phương pháp dạy học sử dụng dụng cụ trực quan và thí nghiệm đã
mang lại hiệu quả cao trong việc dạy và học.Đối với bộ môn Hóa học thì có
nhiều hình thức thí nghiệm, nhưng ở đây tôi chỉ đề cập đến những hình thức mà
thường áp dụng trong những giờ học hóa học ở trường THCS. Để phát huy được
tối đa vai trò của thí nghiệm trong giờ dạy học hóa học thì bản thân tôi có những
kinh nghiệm như sau:
-Đối với hình thức thí nghiệm biểu diễn của GV trên lớp phải.
+ Đảm bảo an toàn thí nghiệm: luôn giữ hóa chất tinh khiết; dụng cụ thí
nghiệm luôn sạch và khô; GV làm thí nghiệm đúng kĩ thuật, luôn bình tĩnh khi
làm thí nghiệm, nếu có sự cố xảy ra phải bình tĩnh tìm ra nguyên nhân xử lí kịp
thời. Không nên quá cường điệu hóa những nguy hiểm của thí nghiệm cũng như
tính độc hại của hóa chất làm học sinh quá sợ hãi.
+ Đảm bảo chất lượng cao về khoa học và về mặt giáo dục, nghĩa là phải
đảm bảo truyền thụ cho học sinh kiến thức cơ bản vững chắc, chính xác khoa
học hiện đại gắn với thực tiễn.
+ Thí nghiệm biểu diễn của GV cần phải làm với lượng hóa chất vừa đủ
lớn để cả lớp có thể quan sát, GV không che khuất thí nghiệm.
+ Kết hợp chặt chẽ thí nghiệm với bài giảng của GV, lúc này lời giảng của
GV không phải là nguồn thông tin mà là sự hướng dẫn quan sát chỉ đạo suy nghĩ
của HS để đi đến kết luận đúng đắn hợp lí, qua đó các em lĩnh hội được kiến
thức mới.
+ Phải xác định vị trí của từng loại thí nghiệm, mỗi thí nghiệm có một vị
trí khác nhau trong từng bài dạy. GV cần xác định rõ vị trí từng loại TN để áp
dụng phù hợp vào các bài cụ thể.
Vd: -Khi nghiên cứu bài " Sự biến đổi chất " ở lớp 8. Bằng thí nghiệm
biểu diễn, GV có thể cho học sinh thấy sự chuyển đổi từ thể lỏng sang thể hơi
hoặc từ thể rắn sang thể lỏng và ngược lại của nước chỉ là sự biến đổi về trạng
thái mà tính chất không thay đổi nên đó chỉ là hiện tượng vật lí. Với thí nghiệm
đốt cháy đường, GV hướng dẫn HS quan sát thấy đường (không màu) đã chuyển
sang than (có màu đen) từ đó HS thấy được có sự biến đổi chất từ đường sang
than và đi đến kết luận đó là hiện tượng hóa học.
- Khi nghiên cứu bài " Tính chất hóa học của Fe" GV làm thí nghiệm đốt
cháy Fe trong O
2
, HS quan sát thấy ngọn lửa cháy sáng chói, có chất rắn màu
nâu đen tạo thành là oxít sắt từ. Từ đó GV dẫn dắt thêm cho học sinh đi đến kết
luận được tính chất hóa học của kim loại là tác dụng được với oxi….
Nhưng hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hóa, cá biệt hóa hoạt động của học sinh trong quá trình học
tập . Theo tôi, bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả các loại hình thiết bị dạy học
khác như : mô hình, tranh ảnh…….cần đặc biệt quan tâm đến thí nghiệm nghiên
cứu và thí nghiệm thực hành của HS.
- Đối với thí nghiệm nghiên cứu bài mới của học sinh : Ở thí nghiệm biểu
diễn của GV thì HS chỉ được nghiên cứu bằng thị giác và thính giác thì thí
nghiệm nghiên cứu bài mới của HS, HS tự tay làm thí nghiệm, các em tự làm
quen với dụng cụ hóa chất sẽ mang tính tích cực cao. Ở đây HS tự tay điều khiển
các quá trình làm biến đổi các chất nên có sự phối hợp giữa hoạt động trí óc với
hoạt động tay chân trong quá trình nhân thức dẫn đến HS tích cực tham gia xây
dựng bài, hình thành kiến thức một cách chủ động, kích thích hứng thú của HS vì
thí nghiệm rèn luyện cho HS nhận thức , phân tích những dấu hiệu, hiện tượng
cụ thể bằng thực nghiệm của mình, thu hút mọi khả năng của HS vào nhận thức
đối tượng.
Vd: Khi nghiên cứu bài "Hiđro" lớp 8. HS có thể tự làm thí nghiệm điều
chế H
2
, thử tính chất của H
2
( đốt cháy H
2
trong oxi và khử đồngoxit) từ đó cho
HS thảo luận và đi đến kết luận về tính chất hóa học của H
2
.
-Khi nghiên cứu bài " Tính chất hóa học của axít" lớp 9. GV tổ chức cho
HS tự làm thí nghiệm cho axit tác dụng với : quì tím, kim loại, dung dịch bazơ,
oxitbazơ. Từ đó HS tự đi đến kết luận về tính chất hóa học của axit dựa vào các
hiện tượng mà các em quan sát được.
Tùy vào điều kiện trang bị cơ sở vật chất của nhà trường mà GV có thể
tiến hành theo 2 cách:
+ Cả lớp cùng làm một thí nghiệm nếu điều kiện trang thiết bị hạn chế.
+ Từng nhóm làm TN khác nhau: GV tổ chức cho HS từng nhóm làm TN.
Hạn chế trường hợp chỉ có 1 số em chuyên phụ trách. Phải có sự phân công giữa
các HS trong nhóm. Sau khi thu thập kết quả thí nghiệm GV tổ chức cho HS kết
hợp thảo luận để đi đến kết luận vấn đề.
-Đối với thí nghiệm thực hành của HS: thường dùng cho bài củng cố; ôn
tập kiến thức đã học, qua đó rèn luyện kĩ năng kĩ xảo cho HS, thì cần chú ý các
vấn đề sau:
+HS cần chuẩn bị trước nội dung, trình tự bài thí nghiệm.
+ GV xác định rõ nội dung, phương pháp thực hiện giờ thực hành sao cho
phù hợp với đặc điểm, nội dung, thời gian và cơ sở trang thiết bị nhà trường.
GV cần có kĩ năng tổ chức giờ thực hành theo các bước sau:
Phân nhóm cho học sinh.
Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh.
Nêu ngắn gọn mục đích thí nghiệm và phương pháp tiến hành thí
nghiệm.
Hướng dẫn HS cách quan sát và ghi chép.
Lưu ý HS cần tuân thủ qui tắc an toàn trong thí nghiệm.
Giao dụng cụ hóa chất, HS kiểm tra lại dụng cụ hóa chất, phiếu
tường trình thực hành theo mẫu.
Khi HS làm thí nghiệm, GV theo dõi các thao tác của từng HS để
uốn nắn những sai sót cần thiết nhưng không làm thay cho HS.
Tạo điều kiện cho mỗi HS đều được làm thí nghiệm.
Cuối giờ mỗi HS đều phải làm tường trình.
Cho học sinh vệ sinh dụng cụ, dọn dẹp hóa chất.
Phương pháp dạy học bằng thí nghiệm và dụng cụ trực quan có ưu điểm nữa là
có thể kết hợp chặt chẽ và góp phần nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy
học mới khác như phát hiện tìm tòi và giải quyết vấn đề, hợp tác theo nhóm nhỏ,
đàm thoại….
Ngoài những ưu điểm của phương pháp tôi vừa nêu trên thì bên cạnh cũng còn
những hạn chế mà trong quá trình thực hiện còn mắc phải nên đã dẫn đến kết quả
của nhiều tiết dạy còn chưa đạt hiệu quả cao như quá trình nhận thức, tư duy của
HS còn hạn chế, các em ít được tiếp xúc với những hiện tượng khoa học nên
trong quá trình nhận xét hiện tượng hóa học còn gặp nhiều khó khăn. Thao tác
làm thí nghiệm còn lúng túng nên dẫn đến kết quả chưa cao. Dụng cụ hóa chất
của nhà trường còn hạn chế nên các bài thực hành chưa thực hiện đầy đủ và
phong phú…
Trên đây là những kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học - phát huy
vai trò của thí nghiệm trong dạy học môn hóa học mà tôi muốn chia sẻ với quí
thầy cô giáo. Thời gian vào nghề còn ít ỏi nên phương pháp giảng dạy của bản
thân sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng
góp chân thành của quí thầy cô để phương pháp dạy học của tôi càng hoàn thiện
hơn.