Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

Đề cương bài giảng học phần: Qui hoạch lãnh thổ và phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.58 MB, 145 trang )

Trường Đại học Khoa học
Khoa Khoa học Môi trường & Trái Đất
&&
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN: QUI HOẠCH LÃNH THỔ
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Số tín chỉ: 02
Đối tượng: Cử nhân Địa lý và Cử nhân Khoa học Môi trường
Biên soạn: Th.S Phạm Thị Hồng Nhung
1
Thái Nguyên, năm 2014
1. Tên môn học: Qui hoạch lãnh thổ và PTBV
2. Tên môn học bằng tiếng Anh: Territorial planning and Sustainable
Development
3. Số đơn vị học trình của môn hoc: 2
4. Phân bổ thời gian: 24 tiết lý thuyết
6 tiết thực hành, thảo luận
5. Điều kiện tiên quyết: Sinh viên đã học qua các môn cơ bản như Các
khoa học trái đất, Khoa học Môi trường đại cương, Cơ sở Địa lý nhân văn, Cơ sở
cảnh quan học .
6. Mục tiêu học phần: Gồm 2 mảng kiến thức:
- Về qui hoạch lãnh thổ: Cung cấp các kiến thức lý luận cơ bản về tổ chức
lãnh thổ và của qui hoạch vùng, chủ yếu ở cấp vùng KT-XH; những kiến thức về
nội dung, phương pháp tiếp cận qui hoạch, qui hoạch tổng thể ở Việt Nam. Nâng
cao nhận thức về vấn đề quản lý, sử dụng lãnh thổ ở một tỉnh, một vùng trong tổng
thể quốc gia. Sinh viên có khả năng vận dụng những kiến thức vào thực hiện qui
hoạch và quản lý việc phát triển KT-XH của một ngành, một lĩnh vực cũng như
một lãnh thổ.
- Trang bị cho sinh viên những kiến thức về mặt lý luận và thực tiễn về phát
triển bền vững (PTBV) trên thế giới cũng như Việt Nam. Qua đó làm thay đổi
nhận thức, thay đổi nhân sinh quan của người học trong việc vận dụng vào công


việc sau này để hướng tới sự PTBV.
7. Tài liệu học tập
7.1. Tài liệu bắt buộc
1. Nguyễn Văn Phú, Qui hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ, Nxb Chính trị Quốc
gia, 2007.
2. Đinh Văn Thanh. Quy hoạch vùng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2005
7.2. Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Báo cáo các chương trình tổ chức lãnh thổ Việt
Nam, 1994.
2
2. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB
Sự thật, Hà Nội 1991.
3. Nguyễn Thế Chinh và nnk, Bài giảng về PTBV, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội, 2006.
4. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự PTBV, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
5. Phạm Kim Giao, Qui hoạch vùng, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
6. Nguyễn Hiền, Phân tích hệ thống trong địa lý qui hoạch và tổ chức lãnh thổ,
Tập bài giảng Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2008.
7. Nguyễn Văn Phú, Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, 2006.
8. Đinh Văn Thanh, Qui hoạch vùng (Lý luận và phương pháp qui hoạch),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2005.
9. Đặng Như Toàn, Lý thuyết tổ chức không gian Kinh tế - xã hội, ĐH Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội 1981.
3
PHẦN MỘT: QUI HOẠCH VÙNG VÀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ
MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội người ta nhận thấy những

hiện tượng sau:
+ Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng kinh tế, tạo nên sự tương phản
về mức độ, trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội giữa đô thị và nông thôn, giữa
miền xuôi và miền núi, giữa các vùng – miền, giữa các địa phương với nhau.
+ Trong khi tiến hành kế hoạch hoá đất nước, có những vùng trọng điểm, có
những vùng ưu tiên, nhưng lại có những vùng không hoặc ít được coi trọng, nên việc
đầu tư cho phát triển không được đồng đều. Yêu cầu phát triển KT-XH bao giờ cũng
lớn hơn khả năng thực hiện nên Nhà nước phải có những phương hướng và biện pháp
chính xác nhằm làm cho nền kinh tế phát triển có lợi nhất trong mỗi giai đoạn kế
hoạch nhất định
+ Trong khi tiến hành công nghiệp hoá, con người đã phí phạm không ít tài
nguyên như mất đất canh tác, thu hẹp và huỷ hoại nguồn tài nguyên rừng, phí phạm
nguồn tài nguyên nước, huỷ hoại cảnh quan thiên nhiên v.v.
Những hiện tượng đó cùng nhiều hiện tượng khác là nguyên nhân của sự lãng
phí tài nguyên kỹ thuật, tài chính, nhân lực v.v., đã đòi hỏi phải quy hoạch vùng lãnh
thổ để làm cho sản xuất và đời sống xã hội phát triển nhịp nhàng, cân đối. Qui hoạch
vùng phát triển từ thế kỷ thứ XVII trong các công trình phân vùng kinh tế nước Nga
và phát triển rực rỡ trong thờ kỳ xây dựng CNXH của Liên Xô.
Còn Tổ chức lãnh thổ (TCLT) là bộ môn khoa học ra đời từ cuối thế kỷ XIX
và đã trở thành khoa học quản lý lãnh thổ. Tổ chức lãnh thổ được hiểu là nghệ thuật
sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và hiệu quả (Jean Pean Paul De Gaudemar,
1992); là một hành động địa lý học có chủ trương hướng tới một sự công bằng về mặt
không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực và các không gian ảnh hưởng,
nhằm giải quyết sự ổn định về công ăn việc làm, cân đối giữa quần cư nông thôn và
quần cư thành thị, bảo vệ môi trường sống. Lĩnh vực này đã phát triển mạnh về lý
luận và đã đem lại những kết quả tốt đẹp cho quá trình phát triển ở các nước phương
Tây, song còn mới mẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập phát triển
hiện nay của nước ta, vấn đề quản lý lãnh thổ như thế nào để có sự cân đối trong phát
triển giữa các ngành, các vùng là vấn đề cấp thiết. Do vậy, TCLT góp phần giải quyết
các đòi hỏi khách quan của thực tiễn.

4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUI HOẠCH VÙNG VÀ
TỔ CHỨC LÃNH THỔ
1.1. Các khái niệm chung về lãnh thổ, vùng
1.1.1. Khái niệm về lãnh thổ
a, Lãnh thổ
Theo nghĩa rộng lãnh thổ là một phần bề mặt của Trái Đất có giới hạn gồm
cả đất liền, nước và không gian. Thông thường nó được xem là thuộc sở hữu của
một cá nhân, tổ chức, đoàn thể, quốc gia và có khi kể cả của loài vật. Về địa
lí, chính trị và hành chính, lãnh thổ là một phần đất nằm dưới sự quản lí của cơ
quan chính quyền của một quốc gia. Lãnh thổ cũng được dùng theo nghĩa "không
gian hoạt động của một cộng đồng người". Đối với loài vật thì là vùng địa lý sinh
sống và tự vệ của một con hay một đàn vật chống lại những con vật khác cùng loài
hay khác loài.
Là một bộ phận của bề mặt đất thuộc quyền sở hữu của một quốc gia nhất
định bao gồm đất liền và lãnh hải. Giới hạn lãnh thổ là đường biên giới quốc gia
(Từ điển bách khoa về các khái niệm địa lý, tiếng Nga, 1968).
Hay theo định nghĩa của Pierre George trong “Dictionnaire de la
Géographie”: “Lãnh thổ là một không gian địa lý, được gọi theo pháp luật như
lãnh thổ Quốc gia, hoặc theo các đặc thù về thiên nhiên hoặc văn hóa như lãnh thổ
(vùng, miền) núi, lãnh thổ ngôn ngữ. Nó gắn liền với việc xác định các ranh giới.
Khái niệm lãnh thổ cũng gắn liền với những ranh giới đó.
Người ta cũng có thể quan niệm lãnh thổ như một thể thống nhất, hay nói
chung là một thực thể (Entity) được cấu trúc và tổ chức bởi các cộng đồng xã hội
(Chamusy và nnk, 1977). Đây là một thực thể không gian, nơi sinh sống của một
cộng đồng xã hội, được cộng đồng này chiếm lĩnh để đảm bảo sự cung cấp các nhu
cầu thiết yếu của nó và sự tái sinh của chính nó. Để đảm bảo được việc này, cộng
đồng xã hội phải quyết định một số hành động can thiệp nhằm tổ chức lại không
gian cho phù hợp với đường lối chính trị, kế hoạch phát triển các điều kiện công
nghệ và kỹ thuật, kể cả tâm lý dân tộc, khiếu thẩm mỹ vốn có nữa.

* Về mặt hành chính- chính trị:
- Lãnh thổ với ý nghĩa rộng hơn quốc gia: Là toàn bộ bao gồm hết các vùng
đất và vùng nước (nước sông hồ trong vùng đất và vùng nước biển), vùng trời,
5
khoảng không và lòng đất nằm trên, dưới vùng đất và vùng nước đó của một quốc
gia, kể cả những vùng đã thực hiện chủ quyền hoặc trong vòng tranh chấp.
- Lãnh thổ trong khái niệm hẹp:
+ Lãnh thổ phụ thuộc một quốc gia: là những vùng đất xa xôi với thường là
các cựu thuộc địa trước đây. Mặc dầu có tổ chức chính quyền địa phương
nhưng hiến pháp quốc gia chưa được áp dụng (hoặc nếu có chỉ có một phần nhỏ)
tại những phần đất này. Ví dụ như Quần đảo Virgin thuộc Mỹ (người dân có quốc
tịch Mỹ nhưng không được trực tiếp bầu Tổng thống Mỹ).
+ Lãnh thổ bên trong quốc gia
 Vùng đất rộng nhưng có quá ít người ở để thành lập nên một đơn
vị hành chính cấp bang (như tỉnh bang của Canada hay tiểu bang của Hoa Kỳ)
và vì vậy được chính quyền trung ương trực tiếp quản lý và điều hành như các
lãnh thổ sau đây: Lãnh thổ Yukon, Lãnh thổ Nunavut và Lãnh thổ Tây Bắc của
Canada; Lãnh thổ miền Bắc của Úc
 Những đặc khu kinh tế, chính trị quan trọng, khu vực hành chính của
chính phủ trung ương, vùng quanh thủ đô quốc gia như Lãnh thổ Thủ đô
Úc, Lãnh thổ Jervis Bay của Úc.
 Vùng đất có dân tộc thiểu số chiếm đa số hoặc có tỉ lệ đáng kể,
thường được gọi là khu hay lãnh thổ tự trị như Nội Mông, Tân Cương, Tây
Tạng, Quảng Tây và Ninh Hạ ở Trung quốc.
b, Các lãnh thổ khu biệt
Đây là những lãnh thổ có đặc điểm và ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển
KT-XH của các vùng và của cả nước. Các đơn vị này được vận dụng sáng tạo ở
nước ta trong một hai thập kỷ đã qua tiêu biểu như các vùng kinh tế trọng điểm,
các tam giác tăng trưởng, các đặc khu kinh tế, Các thành phố, thị trấn, các lãnh
thổ khu biệt có quan hệ với nhau trong một không gian; có sức hút và có sức lan

toả ra xung quanh.
* Vùng kinh tế trọng điểm
6
Là lãnh thổ quy mô lớn trong các đơn vị tổ chức lãnh thổ khu biệt, thông
thường có xu hướng phát triển nhất, có ý nghĩa trung tâm, có lợi thế so với các
vùng khác.
Khung 1.1. Vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam
Vùng kinh tế trọng điểm là vùng có ranh giới “cứng” và “mềm”. Ranh giới
cứng bao gồm một số đơn vị hành chính cấp tỉnh và ranh giới mềm là khu nhân,
gồm các đô thị và phạm vi ảnh hưởng của nó.
7
Tổng quan về quá trình hình thành các vùng kinh tế trọng điểm

Một trong những nhân tố đột phá then chốt để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước là có những chính sách hợp lý nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao
gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Yêu cầu đổi mới cơ cấu
kinh tế của đất nước là một yêu cầu khách quan cấp thiết trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ nghiên cứu các đặc điểm về vị trí địa lý; điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; đặc
điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước; các yếu tố tác động từ
bên ngoài đến nền kinh tế của đất nước như: bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của
các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xu hướng toàn cầu hoá nhằm rút ra kết luận
về những lợi thế, thời cơ phát triển cũng như những hạn chế, thách thức đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước nhằm giúp cho việc hoạch định những
chính sách phát triển mang tính đột phá trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân.
Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát
triển kinh tế - xã hội giữa các vùng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã và đang cố gắng lựa chọn
một số tỉnh/ thành phố để hình thành nên vùng kinh tế trọng điểm quốc gia có khả năng đột phá,
tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo
điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt được sự công bằng xã hội

trong cả nước. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm là nhằm đáp ứng những nhu cầu
của thực tiễn nói chung và đỏi hỏi của nền kinh tế nước ta nói riêng.
Theo hướng đó, cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt
các quyết định số 747/1997/QĐ-TTg, 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg về
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia đến năm
2010, bao gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Trung bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Trong 3 vùng kinh tế trọng điểm này, có 13 tỉnh/thành phố được xếp vào quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội các vùng kinh tế trọng điểm.
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế
trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm 4 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
là:thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau. Theo đó, xây dựng Vùng
kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng phát triển năng động, có cơ
cấu kinh tế hiện đại, có đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế của đất nước, góp phần quan
trọng vào việc xây dựng cả vùng đồng bằng sông Cửu Long giàu mạnh, các mặt văn hoá, xã
hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước; bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc phòng
vững chắc.
Các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam hiện nay gồm :
Lãnh thổ được gọi là vùng kinh tế trọng điểm phải thỏa mãn các yếu tố sau:
+ Có tỉ trọng lớn trong tổng GDP của quốc gia và trên cơ sở đó, nếu được
đầu tư tích cực sẽ có khả năng tạo ra tốc độ phát triển nhanh cho cả nước.
+ Hội tụ các điều kiện thuận lợi và ở mức độ nhất định, đã tập trung tiềm lực
kinh tế (kết cấu hạ tầng, lao động kỹ thuật, các trung tâm đào tạo và nghiên cứu
khoa học cấp quốc gia và vùng, có vị thế hấp đẫn các nhà đầu tư, có tỷ trọng lớn
trong GDP của cả nước ).
+ Có khả năng tạo tích lũy đầu tư để tái sản xuất mở rộng: đồng thời, có thể
tạo nguồn vốn thu ngân sách lớn. Trên cơ sở đó, vùng này không những chỉ tự đảm
bảo cho mình, mà còn có khả năng hỗ trợ một phần cho các vùng khác khó khăn
hơn.
+ Có khả năng thu hút những ngành công nghiệp mới và các ngành dịch vụ
then chốt để rút kinh nghiệm về mọi mặt cho các vùng khác trong phạm vi cả

nước. Từ đây, tác động của nó là lan truyền sự phân bố công nghiệp ra các vùng
xung quanh với chức năng là trung tâm của một lãnh thổ rộng lớn.
Như vậy, vùng kinh tế trọng điểm là một bộ phận lãnh thổ quốc gia, hội tụ
đầy đủ nhất các điều kiện phát triển, có tiềm lực kinh tế lớn, gữ vai trò động lực,
đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. Lãnh thổ được gọi là vùng kinh
tế trọng điểm phải có vị thế hấp dẫn các nhà đầu tư, tập trung tiềm lực kinh tế, có
khả năng cao tạo tích luỹ đầu tư để tái sản xuất mở rộng.
* Hành lang kinh tế, vành đai kinh tế:
Là một không gian kinh tế - xã hội, hình thành dựa trên một tuyến trục giao
thông huyết mạch và sự tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ dọc hai bên
tuyến trục đó.
Nó là một không gian kinh tế có giới hạn về chiều dài và chiều rộng,
liên vùng lãnh thổ hoặc liên quốc gia, dựa trên việc thành lập một hoặc nhiều
tuyến giao thông kết hợp với những chính sách kinh tế nhất định để thúc đẩy phát
triển kinh tế trên toàn không gian đó.
Hành lang kinh tế thường được thành lập để đẩy mạnh sự hội nhập về kinh
tế giữa những vùng kém phát triển hơn và thường là vùng sâu vùng xa với những
vùng phát triển hơn và thường là vùng duyên hải. .Do có sự phát triển tập trung các
cơ sở kinh tế, lợi dụng triệt để việc vận chuyển thuận lợi nên các hoạt động kinh tế
8
đem lại hiệu qua cao hơn. Đây là hình thức tổ chức kinh tế theo lãnh thổ có triển
vọng.
Hành lang kinh tế bao gồm các yếu tố sau đây: Tuyến giao thông huyết
mạch kết nối các cực phát triển; Các cơ sở kinh tế, nhất là các doanh nghiệp công
nghiệp, du lịch, thương mại, dịch vụ khác phân bố lân cận hành lang. Các doanh
nghiệp đó được lợi do có được điều kiện vận tải dễ dàng, các điểm dân cư và
những khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp bổ trợ. Ví dụ: hành lang Đông Tây gồm
khu vực đường 9 của Việt Nam, Lào, qua Thái Lan và Mianma đang góp phần tạo
ra tuyến lực phát triển kinh tế nối khu vực ven biển Thái Bình Dương với duyên
hải Ấn Độ Dương.

* Khu kinh tế
Là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh
doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục theo luật định.
Khu kinh tế được phép tổ chức thành 2 khu chức năng: Khu thuế quan và
khu phi thuế quan. Khu phi thuế quan gồm có khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng
khác phù hợp với đặc điểm từng khu kinh tế. Khu thuế quan gồm khu thương mại,
khu mậu dịch tự do.
- Khu kinh tế cửa khẩu:
Khu vực có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thương giữa các quốc gia, nghĩa
là hình thành ở khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu
chính; được Chính phủ cho phép xây dựng và phát triển, vận hành bởi khung pháp
lý có tính ưu đãi, mở cửa theo các thông lệ quốc tế. Ở đó có môi trường đầu tư,
kinh doanh, buôn bán phù hợp với cơ chế thị trường, được hưởng quy chế ưu đãi
hơn các vùng khác. Các quốc gia xây dựng các khu kinh tế như thế đều có chung
mục đích là tạo nên sự giao thương thông thoáng, nơi thu hút mạnh đầu tư nước
ngoài và thông qua đó thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển nhanh. Ngày nay, các
quốc gia có xu hướng hình thành các khu kinh tế phát triển hơn là các khu kinh tế
tự do.
- Khu kinh tế ven biển:
Là một lãnh thổ có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và
kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, hình
9
thành chủ yếu ở khu vực ven biển, được thành lập theo qui định của Thủ tướng
Chính phủ.
Những điểm phân biệt khu kinh tế ven biển khác với “khu công nghiệp”,
“khu chế xuất”, “khu kinh tế cửa khẩu” ở chỗ được hinhfthanhf ở khu vực ven
biển, có chức năng kinh tế tổng hợp, mà trong đó các dự án, công trình nòng cốt có
ý nghĩa quan trọng của quốc gia thuộc một hay nhiều lĩnh vực như công nghiệp, du

lịch, thương mại, khu phi thuế quan, đô thị giữ vai trò động lực thúc đẩy tăng
trưởng, xuất khẩu của các vùng, miền. Sự phát triển của khu kinh tế được đảm bảo
bằng các cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Khung 1.2. Một số khu kinh tế của Việt Nam
Ở Trung Quốc, các đặc khu kinh tế đã được xây dựng theo mô hình khu
kinh tế tự do tổng hợp như Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Hải Nam. Trên lãnh
thổ Việt Nam đang nghiên cứu hình thành khu kinh tế phát triển Chu Lai thuộc
tỉnh Quảng Nam và khu kinh tế mở Dung Quất thuộc tỉnh Quảng Ngãi, khu kinh tế
mở Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang.
* Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao:
- Khu công nghiệp: Là khu chuyên sản xuất hàng hóa công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục qui định của Nghị
định, không có dân cư sinh sống. Xu hướng hiện đại là phát triển các công viên
công nghiệp.
- Khu chế xuất: Là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định,
10
Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) sẽ phát triển theo mô hình "khu trong khu".
Đây cũng là khu kinh tế mở duy nhất được xây dựng và phát triển để thử nghiệm thể chế,
chính sách mới, tạo môi trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các loại hình kinh
doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ phát triển thành một khu kinh tế tổng hợp đa
ngành với các chính sách ưu đãi, khuyến khích ổn định lâu dài. Tại đây sẽ tập trung phát triển
công nghiệp lọc dầu-hoá dầu-hoá chất, từng bước phát triển các ngành công nghiệp cơ khí,
đóng sữa chữa tàu biển, luyện cán thép, sản xuất xi măng, sản xuất container…bên cạnh đó sẽ
phát triển hệ thống giao thông liên khu với 10 bến cảng dầu khí, khu cảng tổng hợp, đê chắn
được thành lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục qui định
của Nghị định, không có dân cư sinh sống
- Khu công nghệ cao: Là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ cao và

các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu - triển
khai khoa học - công nghệ, nhằm ươm tạo các doanh nghiệp công nghệ cao, đào
tạo nhân lực công nghệ cao và các dịch vụ liên quan; được thành lập, tổ chức hoạt
động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục qui định của Nghị định; có ranh giới
xác định. Đối với Việt Nam khu công nghệ cao do Chính phủ thành lập. Mục tiêu
của khu công nghệ cao là thu hút công nghệ cao của nước ngoài, tiếp nhận chuyển
giao công nghệ cao, kinh doanh công nghệ cao và phát triển công nghệ cao trong
nước để nhân rộng ra. Hiện nay, một số khu công nghệ cao đang được xây dựng ở
Tp.Hồ Chí Minh và ở Hà Nội.
1.1.2. Khái niệm về vùng và vùng kinh tế
a, Khái niệm vùng
Vùng là một không gian lãnh thổ xác định, là một phần của bề mặt Trái Đất
có sự phân biệt với vùng lân cận. Nó là một miền, một khu vực rộng, một khoảng
đất rộng như vùng đồng bằng, vùng núi, vùng quê, vùng mỏ… hay thậm chí là một
khu ruộng lớn gồm nhiều thửa.
Là một thực thể hay hệ thống tự nhiên, KT-XH. Ranh giới này có ý nghĩa
pháp lý được xác định bởi một văn bản pháp qui và cũng có thể chỉ là ước lệ. Lãnh
thổ đó là vùng hữu hạn về phạm vi, ở đó có các yếu tố tự nhiên, nơi sinh sống của
cộng đồng xã hội có những tác động tích cực vào tự nhiên, trực tiếp tổ chức KT-
XH cho phù hợp với đường lối chính trị và phát triển KT-XH của đất nước.
11
Các ngành khoa học khác nhau có cách hiểu về vùng không đồng nhất:
Hình 1.1. Quan niệm vùng của các ngành khoa học
Trên giác độ quản lý Nhà nước, vùng được quan niệm là cấp trung gian giữa
quốc gia và tỉnh, một cấp phân vị cao của lãnh thổ quốc gia có những đặc điểm về
mặt tự nhiên và KT-XH làm cho nó có thể phân biệt với các vùng khác (theo GS
Lê Bá Thảo trong “Việt Nam- Lãnh thổ và vùng địa lý”). Nó là khoảng không gian
liên tục nằm trong ranh giới một lãnh thổ xác định. Nó là duy nhất, không lặp lại
và được đặc trưng bằng những nét riêng biệt cho phép phân biệt nó với bất kỳ
vùng nào khác.

* Bản chất:
Là một khái niệm không gian, có hình thức kết cấu của vùng đất chiếm một
không gian nhất định trên bề mặt trái đất, dựa vào điều kiện vật chất khác nhau
làm đối tượng. Nó phải có những thuộc tính cơ bản sau:
(1) Một phần của bề mặt trái đất, chiếm không gian nhất định (không
gian 3 chiều), có thể là không gian tự nhiên, không gian kinh tế, không gian xã
hội…
(2) Có một phạm vi và giới hạn nhất định. Phạm vi lớn, hay nhỏ là căn cứ
vào các yêu cầu khác nhau, hệ thống chỉ tiêu khác nhau để phân chia. Ranh giới
thường mang tính quá độ, là một “dải đất” biến đổi cả về lượng và về chất, chúng
có khi liên tục (liền khoảnh), có khi không liên tục (không liền khoảnh).
(3) Có hình thức kết cấu hệ thống nhất định có tính phân cấp hoặc tính
nhiều cấp, tính phân tầng nên có mối quan hệ trên và dưới, dọc và ngang.
(4) Là một thực tại khách quan. Là cái mà mọi người căn cứ theo yêu cầu
và đối tượng khác nhau để phân chia, là phản ánh chủ quan đối với khách quan.
* Quan niệm về vùng ở Việt Nam
12
Vùng
Chính trị, hành chính

Lãnh thổ hành chính
để thực hiện sự quản
lý hành chính
Kinh tế học
Một không gian,
một lãnh thổ kinh
tế tương đối hoàn
chỉnh
Địa lý học
Là một đơn vị

địa lý của bề
mặt Trái Đất
Xã hội học
Nơi tập trung dân cư
có những đặc trưng
xã hội tương đồng của
một loại người nào đó
(ngôn ngữ, dân tộc )
- Các chuyên gia nghiên cứu về qui hoạch quản lý và phát triển vùng đều
thống nhất quan điểm cho rằng vùng là một bộ phận lãnh thổ quốc gia. Sự tồn tại
và phát triển của nó gắn bó chặt chẽ với các bộ phận lãnh thổ khác. Nó hoạt động
như một hệ thống do những mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành phần
cấu tạo nên nó cũng có mối quan hệ chọn lọc với không gian các cấp bên ngoài.
- Đặc điểm cơ bản:
+ Có ranh giới xác định (hoặc mang tính pháp lý hoặc mang tính ước lệ).
+ Tồn tại các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mạng lưới giao
tông, cơ sở vật chất kỹ thuật mà con người tạo dựng và các điểm dân cư.
+ Có qui mô rất khác nhau, có tính khách quan và tính lịch sử.
+ Là cơ sở để hoạch định các chiến lược, các kế hoạch phát triển theo lãnh
thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển KT-XH trên mỗi vùng của đất
nước.
b, Vùng kinh tế- xã hội
* Định nghĩa:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về vùng kinh tế, song hiện nay đa số các nhà
khoa học Liên Xô (cũ) và các nước XHCN trong đó có Việt Nam chấp nhận định
nghĩa của “UB về vấn đề phân vùng kinh tế nước Nga” do Kalinin chỉ đạo, được
coi là những nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác lý thuyết và thực tiễn trong phân
vùng kinh tế. Theo đó vùng kinh tế “Là một khu vực đặc thù hoàn chỉnh về kinh tế.
Khu vực đó nhờ sự kết hợp các tài nguyên thiên nhiên, các di sản văn hóa trước
đây, dân cư, văn hóa, có kỹ năng sản xuất trở thành một mắt khâu trong sợi dây

chuyền chung của nền kinh tế quốc dân”.
Là một thực thể tồn tại khách quan, nội dung, trình độ và mức độ phát triển
của vùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Vùng kinh tế được coi là một cơ thể kinh tế hoàn chỉnh. Hoàn chỉnh không
có nghĩa là tự cấp tự túc, khép kín mà gạt bỏ dứt khoát mọi tư tưởng bế quan tỏa
cảng. Tất cả mọi vùng đều là những bộ phận kinh tế của một cơ thể Nhà nước
thống nhất, thực hiện những nhiệm vụ chung nhất thông qua những ngành chuyên
môn hóa của chúng là sự phù hợp với sự phân công lao động tự nhiên giữa các
vùng.
* Về bản chất: Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền
kinh tế quốc dân với những dấu hiệu sau:
13
- Chuyên môn hóa những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản… Sản xuất
chuyên môn hóa là quá trình tập trung sản xuất một hay một vài sản phẩm có lợi
nhất, có hiệu quả kinh tế cao nhất, phù hợp với điều kiện khách quan của vùng, tạo
ra nguồn sản phẩm hàng hóa cao nhất không những thỏa mãn nhu cầu nội vùng mà
còn cả ngoại vùng (vùng khác, cả nước và xuất khẩu).
- Tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa
các thành phần quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ vùng… Vì
thế, coi vùng như một hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản
lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, phát triển tổng hợp là phát triển tất cả các ngành sản xuất có liên
quan, ràng buộc với nhau; khai thác, sử dụng đầy đủ mọi tiềm năng sản xuất trong
vùng để phát triển toàn diện, cân đối, hợp lý nền kinh tế vùng trong sự phối hợp tốt
nhất giữa các ngành chuyên môn hoá sản xuất, các ngành bổ trợ chuyên môn hóa
sản xuất và các ngành sản xuất phụ của vùng, tạo cho vùng một cơ cấu sản xuất
hợp lý nhất.
* Cơ sở hình thành và phát triển vùng
Là các yếu tố tạo vùng, trong đó yếu tố tiền đề là sự phân công lao động. Sự
phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ. Yếu

tố phân công lao động theo lãnh thổ là yếu tố lý giải quá trình tạo vùng dưới góc
độ triết học và kinh tế chính trị học, do việc luận chứng và kích thích cơ bản sự
phân bố lực lượng sản xuất một cách hợp lý.
* Nội dung của vùng kinh tế:
Bao gồm cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ:
- Cơ cấu ngành của vùng là mối quan hệ giữa các ngành chuyên môn hóa,
ngành phát triển tổng hợp (gồm các ngành phục vụ, hỗ trợ cho chuyên môn hóa,
cấu trúc hạ tầng).
- Cơ cấu lãnh thổ: Là những mối quan hệ giữa hạt nhân với lớp vỏ trong và
lớp vỏ ngoài. Đó là quan hệ giữa trung tâm với ngoại vi và ranh giới vùng. Sức hút
của trung tâm tới đâu thì ngoại vi tới đó.
* Qui mô: Gồm các cấp
(1) Cấp cao:Vùng KT-XH (vùng lớn):
- Bao gồm nhiều tỉnh hoặc nhiều huyện của nhiều tỉnh, hoặc gồm những dải
lãnh thổ theo chiều dọc (dải miền núi, dải ven biển…).
14
- Đặc điểm: có tính đồng nhất cao về tự nhiên, có sự hình thành vùng sản
xuất hàng hóa bao quát trên nhiều tỉnh, mạng lưới kết cấu hạ tầng cũng trải rộng.
Trên cơ sở đó cần phải có hệ thống chính sách phát triển chung cho nhiều tỉnh, tạo
ra sự thống nhất trên phạm vi lãnh thổ lớn.
- Yêu cầu: Xác định về ranh giới, tên gọi và luận chứng trong qui hoạch
phát triển KT-XH lãnh thổ. Nó là đối tượng để tổ chức lãnh thổ quốc gia và lập qui
hoạch phát triển.
(2) Cấp thứ 2: Vùng là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là tỉnh) là cấp hành
chính có qui định trong Hiến pháp 1992. Đây là cấp có bộ máy quản lý Nhà nước
về lãnh thổ tỉnh.
- Là đơn vị nằm trong vùng lớn và phải có đầy đủ các điều kiện tự nhiên,
KT-XH để làm tròn nhiệm vụ chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp nền kinh tế
- Là đối tượng của qui hoạch phát triển KT-XH lãnh thổ và là cấp qui hoạch

quan trọng, tại vì:
+ Phục vụ công tác điều hành và chỉ đạo vĩ mô về phát triển kinh tế và cung
cấp các căn cứ cần thiết cho hoạt động KT-XH và các nhà đầu tư.
+ Căn cứ khoa học cho các nhà lãnh đạo đưa ra các chủ trương, các kế
hoạch cũng như các giải pháp hữu hiệu để chỉ đạo, điều hành, quản lý quá trình
phát triển KT-XH của tỉnh.
+ Nhân dân, các nhà đầu tư hiểu rõ tiềm năng, cơ hội đầu tư và yêu cầu phát
triển KT-XH của tỉnh.
- Số lượng cấp vùng phụ thuộc vào sự thay đổi địa giới hành chính cấp tỉnh.
Khung 1.3. Sự thay đổi số lượng các tỉnh, thành phố qua các thời kỳ
15
- Những năm 1975- 1980: có 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đã xây
dựng qui hoạch phát triển nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến của các tỉnh.
- Thời kỳ 1982- 1984: có 44 tỉnh, thành phố; xây dựng Tổng sơ đồ phân bố lực
lượng sản xuất trên phạm vi cả nước.
- Từ năm 1989 đến nay: chia tách 49 tỉnh, 53 tỉnh, 61 tỉnh và nay là 64; đã xây dựng
được các qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH và có sự rà soát, điều chỉnh các qui hoạch
trên phạm vi các tỉnh.
(3) Cấp thứ 3- cấp huyện (hay liên huyện)
Là những đơn vị hành chính KT-XH cấp huyện.
c, Vùng ngành
Vùng kinh tế ngành là vùng kinh tế của một ngành mà phân bố sản xuất
phần lớn của một ngành nhất định ví dụ như vùng công nghiệp, vùng nông nghiệp,
vùng du lịch… Vùng kinh tế ngành cũng có tính chất tổng hợp và quá trình phát
triển của nó cũng mang tính chất khách quan và bị chi phối bởi sự phân công lao
động theo lãnh thổ.
Có hai dạng:
- Vùng kinh tế ngành tổng hợp bao gồm các dạng sản xuất của một loại
ngành chung như vùng công nghiệp, vùng nông nghiệp…
16

- Vùng kinh tế ngành cụ thể là những loại vùng ngành nhỏ nằm trong vùng
kinh tế ngành tổng hợp như vùng trồng cây công nghiệp, vùng trồng cây lương
thực, vùng khai thác khoáng sản…
Khung 1.4. Các vùng công nghiệp Việt Nam
Khung 1.5. Các vùng nông nghiệp của Việt Nam
17
Có sáu vùng công nghiệp tại Việt Nam được quy hoạch từ nay đến năm 2020:
- Vùng 1 gồm 14 tỉnh Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang,
Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái tập
trung phát triển thủy điện, chế biến nông, lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, hóa
chất, phân bón, luyện kim, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí phục vụ nông
nghiệp và công nghiệp chế biến.
- Vùng 2 gồm 14 tỉnh, thành Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hà
Nam, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa,
Vĩnh Phúc) được định hướng tập trung phát triển ngành cơ khí, nhiệt điện, phát triển
ngành điện tử và công nghệ thông tin, hóa chất, luyện kim, khai thác và chế biến khoáng
sản, sản xuất vật liệu xây dựng, tiếp tục phát triển nhanh công nghiệp dệt may, da giầy
phục vụ xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
- Vùng 3 gồm 10 tỉnh, thành Bình Định, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên,
Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế tập trung phát triển
công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, lọc và hóa dầu, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu
xây dựng và dệt may, da giầy, ngành điện tử và công nghệ thông tin.
- Vùng 4 gồm 4 tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum tập trung phát triển thủy
điện, công nghiệp chế biến nông, lâm sản và khai thác, chế biến khoáng sản.
- Vùng 5 gồm 8 tỉnh, thành Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận,
Đồng Nai, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh) tập trung phát triển công
nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, điện, chế biến nông, lâm, hải sản và đặc biệt là công
nghiệp cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm, hóa chất, hóa dược, phát triển công
nghiệp dệt may, da giầy chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, phát triển công nghiệp trên cơ
sở áp dụng công nghệ cao, phát triển các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao.

- Vùng 6 gồm 13 tỉnh, thành An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu
Giang, Kiên Giang, Long An, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long tập
trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản hướng vào xuất khẩu,
các ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên, ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp sau thu hoạch và bảo quản, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản,
cơ khí đóng tàu.
Lãnh thổ trên đất liền của Việt Nam có thể chia thành tám vùng theo hệ sinh
thái nông nghiệp:
1. Vùng Tây Bắc: gồm 4 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình.
2. Vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú
Thọ.
3. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh,
Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh
Phúc.
4. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
5. Vùng Nam Trung bộ: gồm 5 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hoà.
6. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai,
Kon Tum.
7. Vùng Đông Nam bộ: gồm 6 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây
Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận.
8. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng,
Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên
Giang, An Giang, Trà Vinh
1.2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ và qui hoạc vùng
1.2.1. Về tổ chức lãnh thổ và tổ chức lãnh thổ kinh tế- xã hội
a, Những quan niệm cơ bản
Tổ chức lãnh thổ là việc tìm ra mối liên kết không gian, là việc bố trí hợp lý

các cơ sở kinh tế trên một lãnh thổ nhất định, sao cho việc sử dụng lãnh thổ ấy đạt
hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Ở các nước phương Tây khái niệm tổ chức lãnh thổ (Territorial organistation)
được dùng từ cuối thế kỷ XIX cả trong lý thuyết cũng như ứng dụng trong thực
tiễn. Song khái niệm này chỉ bắt đầu được nêu ra ở Liên Xô (cũ) từ năm 1972 và
được coi như là một bước đổi mới trong việc lập tổng sơ đồ phát triển sau 1921.
Theo B.S.Kharop (1981) trong “Những vấn đề hiện tại quản lý vùng và qui
hoạch ở Liên Xô” thì tổ chức lãnh thổ theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các vấn đề
có liên quan đến sự phân chia lãnh thổ lao động, phân bố lực lượng sản xuất, liên
quan đến sự khác biệt giữa các vùng trong quan hệ sản xuất, về phân bố dân cư, về
18
quan hệ tương hỗ giữa xã hội và thiên nhiên cũng như các vấn đề chính sách KT-
XH của khu vực (vùng). Với ý nghĩa hẹp hơn, khái niệm này bao gồm những lĩnh
vực sau: Tổ chức hành chính lãnh thổ của quốc gia; quản lý sản xuất của khu vực;
sự hình thành của các tổ hợp tổ chức kinh tế lãnh thổ; xác định các đối tượng lãnh
thổ quản lý; phân vùng KT-XH được thực hiện không chỉ với mục đích mô tả và
phân tích các hiện tượng và quá trình mà chủ yếu là mục đích quản lý chúng.
Các khái niệm thường gặp liên quan đến “Tổ chức lãnh thổ” như “Tổ chức
lãnh thổ sản xuất”,“Tổ chức lãnh thổ KT-XH”, “Tổ chức lãnh thổ lực lượng sản
xuất”, “Tổ chức lãnh thổ nền kinh tế quốc dân”.
“Tổ chức lãnh thổ KT-XH” theo các khoa học Liên Xô (cũ) cho rằng: Nó
được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở các cấp độ khác nhau, phổ biến là trên
các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chính tỉnh. Coi sự tổ chức lãnh thổ
KT-XH là sự sắp xếp, bố trí (phân bố) và phối hợp các đối tượng gây ảnh hưởng
lẫn nhau, có liên hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ
thống dân cư nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động và
vị trí kinh tế- xã hội để đạt hiệu quả kinh tế cao và nâng cao mức sống dân cư của
lãnh thổ đó.
Tổ chức lãnh thổ KT-XH được xem như việc tổ chức sự phối hợp giữa các
ngành sản xuất, các quá trình và các cơ sở sản xuất trong phạm vi lãnh thổ nhất định.

Các nhà khoa học phương Tây phát triển theo hướng kinh tế thị trường sử
dụng thuật ngữ không gian KT-XH. Tổ chức không gian ra đời từ cuối thế kỷ XIX
và trở thành một khoa học kinh tế lãnh thổ. Họ cho rằng: Tổ chức không gian được
xem như là lựa chọn nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu
quả (Jean Pean Paul De Gaudemar, 1992). Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức lãnh thổ
là tìm ra một tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển KT-XH giữa các ngành trong
một vùng, giữa các lãnh thổ nhỏ hay các tiểu vùng trong một vùng hay giữa các
vùng trong một quốc gia và trên mức độ nhất định có xét đến mối liên kết giữa các
quốc gia với nhau; tạo ra một giá trị mới nhờ có sự sắp xếp có trật tự và hài hòa
giữa các đơn vị lãnh thổ khác nhau trong cùng một vùng đó. Một cách khái quát, tổ
chức lãnh thổ KT-XH là “sự tìm kiếm khung cảnh địa lý quốc gia, sự phân bố tốt
nhất các hoạt động tùy thuộc vào các tài nguyên tự nhiên”. Như vậy nó là một nội
dung cụ thể của một chính sách kinh tế phát triển theo hướng dài hạn nhằm cải
thiện môi trường diễn ra các hoạt động sống của con người.
19
Tổ chức lãnh thổ KT-XH ở góc độ địa lý học xem như là một hành động có
chủ ý hướng tới sự công bằng về không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các
cực và các không gian ảnh hưởng nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân
đối giữa quần cư nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ môi trường sống.
Khái niệm “Tổ chức lãnh thổ xã hội” là khái niệm rộng, liên ngành trong lĩnh
vực vùng (hoặc lãnh thổ), các nghiên cứu địa lý, xã hội, kinh tế và các lĩnh vực
khác, bao gồm cả phân bố nền sản xuất, phân bố cơ sở hạ tầng xã hội và các mối
quan hệ tương hỗ trong hệ thống lãnh thổ KT-XH, các quá trình tái sản xuất theo
không gian và vấn đề quản lý chúng. Mặt khác, tổ chức lãnh thổ xã hội đồng thời
là một trong hướng hoạt động toàn diện của con người và kết quả hoạt động trước
đó của con người.
Với nhiều quan điểm khác nhau, đối tượng khác nhau có thể thể thấy tổ chức
lãnh thổ chủ yếu tập trung vào tổ chức lãnh thổ KT-XH. Tổ chức lãnh thổ KT-XH
là sự sắp xếp và phối hợp các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành, đa lĩnh vực và
đa lãnh thổ trong một vùng cụ thể nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự

nhiên, lao động và vị trí địa lý KT-XH và các CSVCKT đã, sẽ được tạo dựng để
đem lại hiệu quả KT-XH cao và nâng cao mức sống dân cư của vùng đó.
Từ quan niệm cơ bản này cần hiểu rõ một số điểm sau:
- Tổ chức: là việc sắp xếp các đối tượng (xí nghiệp, công trình; các ngành,
các lĩnh vực; các điểm dân cư và kết cấu hạ tầng ).
- Việc tổ chức được tiến hành trên một lãnh thổ xác định theo yêu cầu của
phát triển KT-XH.
- Chủ thể tổ chức cũng là chủ thể quản lý phát triển vùng. Đó là những cơ quan
Nhà nước được qui định trong hiến pháp và luật pháp hiện hành của quốc gia.
b, Đặc tính của tổ chức lãnh thổ kinh tế- xã hội
Tổ chức lãnh thổ kinh tế- xã hội có 3 đặc tính: tính kết cấu- hệ thống, tính
lãnh thổ, tính đa phương án.
* Tính kết cấu- hệ thống: Tổ chức là sự sắp xếp các đối tượng đa dạng, luôn
luôn vận động và phát triển, chúng độc lập tác động qua lại. Hệ thống lãnh thổ có
giới hạn, sức chứa của nó qui định tính chất và trình độ phát triển. Tính kết cấu thể
hiện ở sự muôn màu muôn vẻ trong việc sắp xếp và định hướng các đối tượng.
Tính định hướng làm cho các phần tử phát triển hài hòa, nhịp nhành với nhau.
20
* Tính lãnh thổ: Nó thể hiện ở sự đa dạng không gian. Trong một vùng có
nhiều tiểu vùng với nhiều điều kiện không thật giống nhau làm cho việc phân bố
các đối tượng trong vùng có sự đa dạng linh hoạt. Khi tiến hành tổ chức lãnh thổ
KT-XH ở một vùng nào đó thì bao giờ cũng gặp tình trạng do điều tra cơ bản bị
hạn chế, không đầy đủ nên tổ chức phải có những xem xét liên lãnh thổ và để một
“biên độ” thay đổi sau đó.
* Tính đa phương án: Các phương án được xây dựng dựa theo nhiều mục
tiêu, nhiều phương hướng nhằm phát huy lợi thế, tính hợp lý về khai thác, sử dụng
tài nguyên lãnh thổ. Quyết sách cuối cùng là lựa chọn trên cơ sở so sánh các
phương án để tìm ra phương án tối ưu.
1.2.2. Về qui hoạch vùng
a, Về qui hoạch

* Khái niệm: Qui hoạch là một khái niệm rộng được sử dụng trong nhiều
lĩnh vực khác nhau như qui hoạch sử dụng đất, qui hoạch đô thị, qui hoạch phát
triển kinh tế- xã hội, qui hoạch cán bộ hay qui hoạch nguồn nhân lực, qui hoạch
CSHT, qui hoạch môi trường
Qui hoạch có thể được hiểu theo những góc độ sau:
- Là sự tích hợp các kiến thức khoa học và kỹ thuật, tạo nên những sự lựa
chọn để có thể thực hiện các quyết định về các phương án lựa chọn cho tương lai.
- Là công việc chuẩn bị có tổ chức cho các hoạt động có ý nghĩa bao gồm
việc phân tích tình thế, đặt ra các yêu cầu, khai thác và đánh giá các lựa chọn và
phân chia một quá trình hành động.
- Là quá trình soạn thảo một tập hợp các chương trình có liên quan, được
thiết kế để đạt được những mục tiêu nhất định. Nó bao gồm việc định ra một hay
nhiều vấn đề cần được giải quyết, thiết lập các mục tiêu qui hoạch, xác định các
giả thiết mà qui hoạch cần dựa vào, tìm kiếm và đánh giá các biện pháp hành động
có thể thay thế và lựa chọn hành động cụ thể để thực hiện.
Như vậy, qui hoạch là một công cụ có tính chiến lược trong phát triển, được
coi là phương pháp thích hợp để tiến đến tương lai theo một phương hướng, mục
tiêu do ta vạch ra. Đồng thời, nó có thể là tất cả những công việc hoặc khả năng
kiểm soát tương lai bằng các hoạt động hiện tại nhờ vào việc sử dụng các kiến
thức về mặt nhân quả.
21
Viện Chiến lược Phát triển: Qui hoạch là việc lựa chọn phương án phát triển
và tổ chức không gian KT- XH cho thời kỳ dài hạn trên lãnh thổ nhất định.
Kỹ thuật cơ bản của qui hoạch là viết báo cáo, kèm theo dự báo thống kê,
trình bày toán học, đánh giá định lượng và sơ đồ (bản đồ) qui hoạch.
* Các loại qui hoạch: Hiện nay ở Việt Nam có các loại hình qui hoạch sau:
- Qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH: bao gồm qui hoạch tổng thể phát
triển KT-XH vùng và các lãnh thổ đặc biệt, tỉnh, huyện. Là luận chứng phát triển
KT-XH và tổ chức không gian các hoạt động KT-XH hợp lý trên lãnh thổ trong
thời gian xác định.

- Qui hoạch phát triển ngành, lĩnh vực là luận chứng, lựa chọn phương án
phát triển và phân bố ngành, lĩnh vực hợp lý trong thời kỳ dài hạn trên phạm vi cả
nước và trên các vùng, lãnh thổ. Bao gồm: qui hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
thiết yếu, qui hoạch phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, qui hoạch phát triển ngành.
- Qui hoạch cụ thể, chi tiết như qui hoạch xây dựng, qui hoạch khu dân cư.
b, Qui hoạch vùng
* Khái niệm: Qui hoạch vùng là một hành động tổng hợp với sự tham gia
của nhiều lĩnh vực và bộ môn khoa học chuyên ngành như chính trị, kinh tế, xã
hội, địa lý, y học, lịch sử, môi trường
Tùy theo mức độ của lĩnh vực khoa học chuyên môn mà nhìn nhận nội dung
của định nghĩa:
- Là sự sắp xếp trên mặt đất những cơ sở hoạt động của con người bao gồm
các công trình sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, mạng lưới giao thông, rừng cây
và khoảng trống, nhà ở và công trình phục vụ sinh hoạt, nhằm thỏa mãn những nhu
cầu và sự mong muốn của con người (Le Corbusier).
- Là lý luận và thực tiễn phân bố hợp lý nhất trên các lãnh thổ vùng những
xí nghiệp công nghiệp, giao thông vận tải và các địa điểm dân cư có sự tính toán
tổng hợp những vấn đề địa lý kinh tế, kiến trúc xây dựng, kỹ thuật. Qui hoạch
vùng được cụ thể hóa trên lãnh thổ những dự đoán, những chương trình, kế hoạch
hành động phát triển tổng thể vùng, đồng thời qui hoạch vùng bổ sung, phát triển
và làm phong phú thêm những điều kiện đó (Pertxik).
- Là bộ phận trung gian giữa qui hoạch quốc gia (qui hoạch lãnh thổ) và qui
hoạch các điểm dân cư (Seifert).
22
Trên cơ sở thống nhất khái niệm qui hoạch vùng của khối EEC (khối thị
trường chung châu Âu), các nhà khoa học của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
đưa ra định nghĩa:
- Qui hoạch vùng là qui hoạch tổng hợp, trên cấp và vượt ra ngoài khuôn khổ
điểm dân cư thuộc phạm vi vùng qui hoạch với sự tham gia của nhiều cơ quan qui
hoạch và quản lý địa phương. Qui hoạch vùng cụ thể hóa các qui hoạch lãnh thổ quốc

gia, bổ sung và làm phong phú thêm các chương trình, kế hoạch đó; đồng thời cũng
đề xuất các định hướng và kiến nghị quan trọng cho qui hoạch điểm dân cư.
- Qui hoạch vùng nhằm thay đổi các điều kiện không gian theo mô hình trật
tự tương lai của vùng. Vì thế, nó là những hoạt động, việc làm hướng đích, không
chỉ là sự miêu tả hiện trạng hiện tại và tương lai,
- Vùng qui hoạch có thể trùng hoặc không trùng với ranh giới các đơn vị
hành chính. Đơn vị nhỏ nhất của vùng qui hoạch là đô thị, xã (đơn vị hành chính
dân cư nhỏ nhất).
* Qui hoạch vùng cho phép:
- Phân bố có hiệu quả các xí nghiệp công nghiệp, giao thông vận tải và các
xí nghiệp dịch vụ trên cơ sở sử dụng tổng hợp điều kiện tự nhiên, nguồn tài
nguyên thiên nhiên và KT-XH.
- Tổ chức hợp lý sản xuất nông nghiệp trên cơ sở hình thành chuyên môn
hóa hợp lý.
- Phân bố dân cư hợp lý phù hợp với nhu cầu, tập quan canh tác, nguyện
vọng sinh hoạt của cư dân.
- Giải quyết đồng bộ các hệ thống trang bị kỹ thuật vùng.
- Tổ chức hợp lý các khu nghỉ dưỡng.
- Sử dụng hợp lý các loại tài nguyên thiên nhiên.
- Phân chia các khu vực lãnh thổ theo chức năng cụ thể tạo điều kiện thuận
lợi cho sử dụng hợp lý, bảo vệ, tái tạo tài nguyên thiên nhiên.
* Đặc điểm chung:
Trước hết qui hoạch vùng mang đặc điểm chung của một qui hoạch là tính
mục tiêu, tính nhìn trước và tính động thái. Tính mục tiêu bởi qui hoạch nhằm làm
rõ phương hướng, xác định mục tiêu hoặc trạng thái nào đó mới tiến hành qui
hoạch. Tính nhìn trước do qui hoạch dựa vào ý tưởng và bố trí tương lai để xác
23
định nhiệm vụ. Tính động thái, mỗi qui hoạch không bao giờ ở trạng thái tĩnh mà
là quá trình động, không ngừng thay đổi và phát triển.
Ngoài những điểm chung này, qui hoạch vùng còn mang một số đặc điểm

riêng sau:
- Tính tổng hợp: còn gọi là tính chỉnh thể hoặc tính toàn cục. Nó thể hiện ở
một số mặt dưới đây:
+ Nội dung của qui hoạch rộng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
trong vùng. Vùng là một hệ thống mở to lớn và phức tạp, do hệ thống tự nhiên,
kinh tế và xã hội hợp thành. Mỗi hệ thống lại là tập hợp của các hệ thống con và
nhiều yếu tố hợp thành. Vì thế, qui hoạch vùng liên quan đến các lĩnh vực tự
nhiên, kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân ; liên quan đến nhiều ngành như nông
nghiệp, công nghiệp, du lịch Vì thế, qui hoạch vùng cần nghiên cứu một cách
toàn diện, tiến hành một cách toàn diện tất cả các yếu tố hợp thành, các nội dung
liên quan. Như vậy, qui hoạch vùng cần giải quyết một cách hài hòa mâu thuẫn
giữa ngành với ngành, giữa vùng với vùng. Nói một cách khác, qui hoạch vùng
cần điều hòa tốt mối quan hệ giữa các ngành kinh tế quốc dân, giữa các địa
phương với nhau trong vùng
+ Phương pháp tư duy qui hoạch cần chú trọng đánh giá tổng hợp, phân tích
luận chứng tổng hợp, nhấn mạnh sự hài hòa lẫn nhau giữa các ngành và vùng, khắc
phục những thiếu sót do luận chứng một ngành hoặc chuyên đề riêng biệt.
+ Các phương án qui hoạch cần được so sánh nhiều phương hướng, mục
tiêu, nhiều phương án (đa phương án) để lựa chọn phương án tối ưu.
+ Đội ngũ công tác làm qui hoạch vùng gồm nhiều thành viên của nhiều
ngành, nhiều chuyên ngành. Trước đây, cán bộ làm qui hoạch vùng chủ yếu của
các ngành như địa lý, xây dựng, kỹ thuật. Hiện nay, các cán bộ làm qui hoạch
vùng thường phối hợp chặt chẽ với cán bộ phụ trách hành chính vùng, chuyên gia
của nhiều ngành khoa học (kinh tế, môi trường, xã hội ) và các Bộ, các ngành
kinh tế chủ quản.
- Tính tổng thể, dài hạn, lấy chiến lược làm căn cứ (còn gọi là tính chiến
lược). Qui hoạch vùng là cụ thể hóa của chiến lược nên phải có tính chiến lược thể
hiện như sau:
+ Độ dài qui hoạch: thông thường khoảng 10- 15 năm, thậm chí lên tới 20-
30 năm, hoặc lâu hơn. Do thời gian qui hoạch dài nên đòi hỏi các phương án qui

24
hoạch cần có tính “thấy trước” (tầm nhìn xa) một cách rõ ràng. Bên cạnh đó, qui
hoạch cũng cần tập trung vào các hạng mục trọng điểm trong thời kỳ gần. Vì thế,
phương án qui hoạch vừa có thể chỉ đạo phát triển KT-XH trong thời kỳ gần, vừa
bảo đảm kết hợp giữa gần và xa, thực hiện phát triển bền vững.
+ Mối quan hệ ở tầm vĩ mô, hài hòa và toàn diện: Qui hoạch đòi hỏi phải có
sự điều hòa và toàn diện trong quan hệ giữa các khu vực, giữa các ngành và vùng.
Do đó, qui hoạch vùng cần nhìn xa, lâu dài và suy nghĩ từ vĩ mô, suy tính cặn kẽ
hiệu quả tổng thể của vùng. Trọng điểm của qui hoạch là những hạng mục lớn
quan trọng mang tính vĩ mô, toàn cục, then chốt của vùng.
+ Chỉ tiêu của qui hoạch có tính cơ động tương đối lớn: Do qui hoạch vùng
có tính nhìn xa, lâu dài mà trong quá trình phát triển thường có nhiều yếu tố không
xác định được, việc dự tính tương đối khó có thể chính xác nên các phương hướng
phat triển, mục tiêu, cơ cấu, bố trí và sắp xếp sử dụng đối với KT-XH của vùng có
tính khái quát, chỉ tiêu có biên độ nhất định, có tính cơ động tương đối lớn.
+ Việc thực hiện qui hoạch sẽ phát sinh ảnh hưởng sâu xa, lâu dài đối với
các vùng: Qui hoạch vùng là sự cụ thể hóa chiến lược phát triển KT-XH của đất
nước. Hạng mục qui hoạch nhất là hạng mục công trình xây dựng lớn quan trọng
khi xây dựng khó có thể thay đổi và có ảnh hưởng lâu dài. Do đó cần thận trọng
trong việc xác định, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các ngành, các địa phương, lợi
ích xa và lợi ích gần.
- Tính đặc thù vùng: Đặc điểm này bao hàm hai nội dung:
+ Đặc sắc của địa phương: Điều kiện tự nhiên, TNTN, điều kiện KT-XH
mỗi vùng có những nét riêng nên mục tiêu, phương hướng phát triển, cơ cấu kinh
tế, kết cấu hạ tầng sẽ không giống nhau. Tính đặc thù riêng ở các vùng làm cho qui
hoạch phải thích hợp với từng vùng, phát huy mặt mạnh, khắc phục điểm yếu. Các
phương án qui hoạch mỗi vùng phải khác nhau, bản đồ, văn bản và báo cáo qui
hoạch cũng không được sao chép.
+ Bảo đảm phạm vi qui hoạch hoàn chỉnh: Qui hoạch vùng là bố trí tổng thể
xây dựng nền kinh tế quốc dân và sử dụng đất đai trong phạm vi một vùng nhất

định. Trong quá trình qui hoạch cần coi qui hoạch vùng là một chỉnh thể để tiến
hành nghiên cứu, trên vùng qui hoạch hoàn chỉnh phải bố trí sử dụng một cách
tổng thể.
1.3. Sơ lược lịch sử phát triển của tổ chức lãnh thổ và qui hoạch vùng
25

×