Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận- tìm hiểu nhu cầu dinh dưỡng và thức ăn của cá rô phi oreochromis niloticus, linnaeus 1758

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.14 KB, 18 trang )

- 1 -
trờng đại học nha trang
Khoa nuôi trồng thuỷ
Môn học
DINH DƯỡNG Và THứC ĂN TRONG NUÔI TRồNG THủY SảN
Tiểu Luận : Tìm hiểu nhu cầu dinh dỡng và thức ăn của cá Rô
phi (Oreochromis niloticus, Linnaeus 1758)

Hải phòng, tháng 05 năm 2010
Học viên: Phạm Thị Lan
Lớp: Cao học NTTS 2009 - Hải Phòng.
ĐVCT: Phòng NN&PTNT huyện Tiên LãngHP
GVHD: PGS.TS: Lại Văn Hùng
Phần 1:
đặt vấn đề
Việt Nam là nớc khí hậu nhiệt đới, có thành phần sinh vật phong phú, việc
đa dạng hoá các đối tợng nuôi là rất cần thiết. Cá rô phi là loài cá dễ nuôi, lớn
nhanh sau 4-5 tháng nuôi nếu đợc cho ăn đầy đủ sẽ đạt trọng lợng 0,4-
0,6kg/con. Nuôi cá Rô phi vừa có tác dụng tiêu diệt các loại động vật nhỏ mang
mần bệnh vừa có tác dụng làm sạch môi trờng và cho sản phẩm có giá trị .
Hiện nay, cá Rô phi đang đợc nuôi rộng rãi trên thế giới. Ngoài mục đích
cải thiện dinh dỡng cho ngời dân nghèo, nuôi cá rô phi còn tạo ra sản phẩm
hàng hóa ngày càng có sức cạnh tranh cao trên thị trờng thế giới. Thị trờng cá
rô phi trên thế giới tăng nhanh trong 2 thập kỉ qua, đặc biệt ở thị trờng Mỹ.
Thị trờng nhập khẩu cá rô phi trên thế giới năm 1992 mới đạt 2.500 tấn, đến
năm 1999 đã là 100.000 tấn. Trong vòng 5 năm qua, nhu cầu nhập khẩu cá rô
phi tăng 38%/năm đứng đầu các nớc nhập khẩu cá rô phi là Mỹ, tiếp sau là
Nhật, một số nớc châu Âu. Năm 1992, Mỹ nhập 3.400 tấn, năm 2000 nhập
40.000 tấn. Năm 2001, ớc tính nhập 70.000 - 75.000 tấn, trị giá 106 - 108
triệu USD.
Trong khi giá một số hàng thủy sản luôn có nhiều biến động thì hầu hết


các sản phẩm từ cá rô phi có giá khá ổn định trong vòng 5 năm qua. Giá bán
thay đổi ít tạo môi trờng kinh doanh tơng đối ổn định cho ngời nuôi cá và hệ
thống phân phối tiêu thụ. Cá rô phi với u thế: ít dịch bệnh, thức ăn không đòi
hỏi chất lợng cao, cá có màu thịt trắng có khả năng thay thế cho một số loại cá
biển, cá dễ chế biến theo nhiều loại sản phẩm khác nhau nên đợc đa số ngời
tiêu dùng chấp nhận. Thị trờng cá rô phi trên thế giới hiện tại cha thật lớn, nh-
ng theo nhiều dự báo, sẽ có nhu cầu cao và mở rộng với tốc độ nhanh.
Chủ trơng phát triển nuôi cá rô phi ở nớc ta là hoàn toàn đúng đắn, góp
phần tăng nhanh sản lợng cá nuôi, tăng tỷ trọng sản phẩm thủy sản xuất khẩu
đợc nuôi từ nớc ngọt. Nuôi cá rô phi góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tận
dụng tốt hơn các vùng nớc ngọt hiện có. Nuôi cá rô phi trong nớc lợ giúp
giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy sản, là biện pháp cải tạo môi trờng ao nuôi,
đặc biệt những vùng nuôi đang bị suy thoái môi trờng.
Nớc ta có lợi thế về diện tích mặt nớc ngọt và lợ (120.000ha ao hồ nhỏ,
340.000ha hồ chứa nớc, 580.000ha ruộng trũng, nhiều hệ thống sông ngòi,
- 2 -
nhiều vùng nớc ven biển với độ mặn thấp) là những vùng nớc có thể nuôi cá
rô phi, có khả năng mở rộng diện tích, sản xuất với sản lợng lớn. Tuy nhiên,
các ao hồ rất phân tán, xa các cơ sở chế biến, gây khó khăn cho tổ chức sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Phần lớn các ruộng trũng đang cấy lúa cần phải
qui hoạch, cải tạo lại mới đáp ứng yêu cầu kĩ thuật nuôi cá.
Cá rô phi xuất khẩu cần kích cỡ lớn khi thu hoạch (600 - 1.000g/con).
Vậy để sản phẩm cá rô phi nuôi có tính cạnh tranh cao, cần tiếp tục nâng cao
chất lợng con giống, thức ăn
Sinh trởng cuả cá có liên quan đến sự sắp sếp các mô cơ, mô mỡ, biểu
mô và mô liên kết. Cá sinh trởng nhanh phụ thuộc phần lớn vào khẩu phần
thức ăn, ngoài ra còn một số yếu tố khác nh: loài, giới tính, tuổi, mật độ nuôi,
môi trờng sống và điều kiện quản lý và chăm sóc. Thức ăn trong nuôi trồng
thuỷ sản thờng chiếm 30 - 60% chi phí sản xuất (De Silva và Anderson 1995).
Thức ăn không chỉ tác động trực tiếp đến sinh trởng của cá, tôm mà còn tác

động đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp nuôi, hộ nuôi Vì vậy, để nuôi
cá đạt hiệu quả cao không những chúng ta phải quan tâm đến chất l ợng con
giống mà thức ăn và môi trờng còn đóng vai trò quan trọng.
Để đáp ứng một phần nhu cầu của nghề nuôi cá nuớc Ngọt chuyên đề
"Tìm hiểu nhu cầu dinh dỡng và thức ăn của cá Rô phi (Oreochromis
niloticus, Linnaeus 1758)" nhằm đáp ứng phần nào cho nghề nuôi thơng
phẩm cá Rô phi trên cả nớc.
Phần 2
Tổng quan về tình hình nghiên cứu
I. Tình hình nghiên cứu về nhu cầu dinh dỡng của cá rô phi vằn
1/ Nhu cầu Protein và Amino Axid của cá Rô phi
Prôtein là vật chất hữu cơ chủ yếu xây dựng lên các tổ chức mô của cá
cũng nh của động vật. Cá sử dụng Prôtein để đáp ứng nhu cầu amino acid
(Lại Văn Hùng 2004).
Nhu cầu cầu Protein tối u của cá Rô phi phụ thuộc loài, kích cỡ, tuổi,
môi trờng sống và thờng dao động từ 28% đến 50% (bảng1, bảng 2). ở giai
đoạn cá bột và cá hơng nhu cầu Protein của cá Rô phi rất cao từ 36 - 50%
- 3 -
trong thức ăn để đạt sinh trởng tối đa (Davis & Stickney 1978, Jauncey &
Ross 1982, Santiago & Laron 1991, El- Sayed & Teshima 1992). Đối với cá
giống thì nhu cầu này thấp hơn từ 29 - 40% Protein trong thức ăn để đạt đ ợc
tốc độ sinh trởng tối thiểu (Crus & Laudencia 1977, Teshima và ctv 1978,
Mazid và ctv, Kubaryk 1980, Shiau & Peng 1993). Đối với giai đoạn trởng
thành thì nhu cầu Protein của cá Rô phi từ 27,5 - 35% (Jauncey & Ross 1982,
Siddiqui và ctv 1988, Wee & Tuan 1988, Twibell & Brown 1998).
Bảng 1

: Nhu cầu Protein của cá Rô phi nuôi trong nớc ngọt
Loài Kích cỡ cá (g) Nhu cầu (%) Nguồn (tác giả)
1.0-2.5 29-38 Cruz & Laudencia (1977)

Try 50 Jauncey & Ross (1982)
O.mossambicu
s
0.5-1.0 40
6-30 30-35
1.8 40 Jauncey (1982)
1.5-7.5 36 Kubaryk (1980)
3.2-3.7 30 Wang & ctv (1980)
O.niloticus
0.8-3.8 40 Siddiqui & ctv (1988)
40 30
24 27.5-35 Wee & Tuan (1988)
0.012 45 El- Sayed & Teshima (1992)
O.aureus
0.3-0.5 36 Davis & Stickney (1978)
0.16 40 Santiago & Laron (1991)
T.zillii
1.7 35-40 Teshima & ctv (1978)
1.65 35 Mazid & ctv (1979)
O.niloticus và 0.6-1.1 32 Shiau & Peng (1993)
O.aureus 21 28 Twibell & brown (1998)
Nguồn: Shiau 2002
- 4 -
Bảng 2

: Nhu cầu Protein của cá Rô phi nuôi trong nớc mặn
Loài
Kích cỡ
(g)
Độ mặn

(ppt)
Nhu cầu
(%)
Nguồn (tác giả)
0.024 0 30.4 De Silva & Perera (1985)
O.niloticus
5 30.4
10 28.0
15 28.0
O.ni & O.aureus 2.88 32-34 24.0 Shiau & Huang (1989)
Florida red tilapia 10.6 37 20.0 Clark & ctv (1990)
Nguồn: Shiau 2002
Để nuôi cá Rô phi thơng phẩm cần pải điều chỉnh thức ăn ở mức Protein
25 - 35% trong khẩu phần. Tuy nhiên, trong ao nuôi cá có thể sử dụng thức ăn
tự nhiên giàu chất dinh dỡng. Vì vậy, thức ăn cần mức Protein thấp hơn từ 20
- 25% có thể cung cấp đầy đủ cho sinh trởng tối u (Newman và ctv 1979,
Lovell 1980 và Wannigama và ctv 1985).
Cũng giống nh các loài cá và động vật trên cạn khác, cá Rô phi cũng cần
đến 10 loại axit amin cần thiết: arginine, histidine, isoleucine, leucine, lýine,
methionine, phenylalanine, threonine, tryptophan và valline. Nhu cầu về hàm
lợng amino axit không thay thế cho sinh trởng của cá Rô phi vằn giai đoạn
giống đợc xác định bởi nghiên cứu của các tác giả Santiago & Lovell (1988).
Đối với các amino axit không cần thiết cá có thể tự tổng hợp đợc, chúng
không nhất thiết pải đợc cung cấp từ thức ăn. Các ami no acid này có thể đợc
cơ thể tổng hợp từ các sản phẩm trao đổi chất của li pid và carbohydrate hoặc
bằng quá trình chuyển hoá của các amino acid cần thiết (NRC 1983, Lại Văn
Hùng 2004).
Nhu cầu aminoacid của cá Rô phi hoặc động vật nói chung có liên quan
chặt chẽ đến thành phần amino acid trong các tổ chức mô của chúng. Thành
phần amino acid của bột cá rất gần với thành phần amino cho nhu cầu tăng tr -

ởng của cá. Vì vậy, bột cá là nguồn đạm tốt hơn đạm của những nguyên liệu
- 5 -
khác nh: Lạc, đậu tơng, hạt hớng dơng, cùi dừa, hạt cải, hạt bôn. Xu hớng
nghiên cứu thay thế bột cá ở trên cá rô phi đã đạt đợc nhiều kết quả khả quan.
Chhorn (1990) đã dùng đậu tơng làm nguồn đạm để nuôi cá Rô phi và cs bổ
sung thêm riêng lẻ từng loại trong 10 acid amin mà cá cần. Tuy nhiên, chỉ có
Histidine, isoleucine, phenylalanine và valline khi phối trộn với đậu tơng mới
làm cho cá rô phi tăng trởng rõ rệt.
Các nguồn năng lợng trong khẩu phần thức ăn đợc biết là có thể thay thế
cho protein là carbohydrate và lipit ở trên cá Rô phi (De silva và ctv 1991).
Nghiên cứu đã cho thấy việc sử dụng hiệu quả protein trong khẩu phần có thể
đạt đợc bằng cách tăng nguồn năng lợng trong khẩu phần (carbohydrate hoặc
lipit) miễn là lợng protein lấy vào là trên ngỡng tới hạn. Ngời ta từng thấy các
mức lipit trong khẩu phần của cá Hồi cầu vồng và cá Rô phi lai có thể đợc
tăng lên đến 24% và 18% theo thứ tự tơng ứng mà không ảnh hởng xấu đến
tăng trởng và chất lợng thịt. Bằng cách tăng hàm lợng đa vào của các nguồn
năng lợng thay thế này trong các khẩu phần của cá, chi phí thức ăn có thể đợc
giảm đi vì các nguồn protein nói chung đắt đỏ hơn. Tuy nhiên, việc gia tăng
mức lipid sẽ làm giảm thời gian bảo quản thức ăn và có nhiều khó khăn trong
việc tạo viên thức ăn.
2. Nhu cầu năng lợng (Energy) của cá Rô phi
Năng lợng là một dạng vật chất khi đợc hấp thụ vào cơ thể sẽ đợc sử
dụng hoặc đợc tích luỹ dới dạng mỡ hoặc gluco gen Năng lợng không phải
là chất dinh dỡng mà là sản phẩm cuối cùng của quá trình oxy hoá của
Prôtein, Lipid, carbohydrate.
Protein đợc cho là u thế nhất khi lập công thức thức ăn cho cá, tôm bởi vì
nó đợc coi là nguồn năng lợng đắt tiền nhất trong các thành phần của thức ăn.
Tuy nhiên, năng lợng cũng cần nhắc đến khi lập công thức thức ăn cho cá Rô
phi giống nh các loài cá khác để đáp ứng nhu cầu năng lợng. Kubaryk (1980)
cho rằng cá Rô phi vằn cần năng lợng tiêu hoá (DE) trong thức ăn tăng, việc

tiêu thụ của cá sẽ giảm nhng tất cả protein trong thức ăn không bị ảnh hởng
bởi việc tiêu thụ.
Dẫn liệu về nhu cầu năng lợng của cá Rô phi đã đợc Shiau (2002) tổng
hợp (bảng 3)
- 6 -
Bảng 3

: Tỷ lệ tối u Protein/năng lợng của cá Rô phi
Loài Kích cỡ (g)
Tỷ lệ tối u
(P/E)
Nguồn (tác giả)
O.mossambicus
1.8 116.6 mgkcal
-1
ME Jauncey (1982)
5.19 99.48 mgkcal
-1
DE El - Dahhar & Lovell
(1995)
O.niloticus 0.0012 110 mgkcal
-1
DE El- Sayed & Teshima (1992)
1.7 120 mgkcal
-1
DE Kubaryk (1980)
O.aureus
2.5 123 mgkcal
-1
DE Winfree & Stickney 1981

7.5 108 mgkcal
-1
DE Winfree & Stickney 1981
T.zillii
1.65 95.3 mgkcal
-1
DE Mazid và ctv (1979)
50 103 mgkcal
-1
DE El-Sayed (1987)
O.niloticus và
O.aureus
0.16 111 mgkcal
-1
DE Santiago & Laron (1991)
Nguồn: Shiau 2002
Nhu cầu về tỉ lệ P/E cho sự tăng trởng tối u của cá Rô phi giảm theo sự
tăng lên của kích cỡ cá, đối với giai đoạn cá bột và cá hơng thì tỉ lệ P/E này
dao động từ 95,3 đến 123 mg protein kcal
-1
DE (Maizid và ctv (1979)),
Kubaryk (1980), Winfree & Stikney 1981, Jauncey (1982), Santiago & Laron
(1991), El - Sayed & Teshima (1992)), đối với cá kích cỡ lớn hơn thì tỷ lệ P/E
từ 99,48 - 108 mg protein Kcal
-1
DE (Winfree & Stickney 1981, El- Sayed
(1987), El - Dahhr & Lovell (1995)). Còn Shiau & Huang (1990) cho rằng cá
Rô phi lai (O.niloticus & O.aeus) nuôi trong nớc mặn (32- 34 ppt) sinh
trowngr tối đa khi cho cá ăn thức ăn có hàm lợng protein từ 21 đến 24% với tỉ
lệ P/ME là 67.74 và 104.35 mg protein Kcal

-1
trong khẩu phần. Còn theo
nghiên cứu của De Silva và ctv (1989) tác giả đã phát hiện tỷ lệ tối u P/E của
cá Rô phi trởng thành là 17 mg/j.
3. Nhu cầu Lipid và acid béo của cá Rôpid
- 7 -
Lipid là nhóm hợp chất hữu cơ tự nhiên có trong các tổ chức mô của
động vật và thực vật, là hợp phần cấu tạo quan trọng nhất của các màng sinh
học, là nguồn cung cấp năng lợng, nguồn cung cấp các vitamine hoà tan trong
mớ nh A,D,E,K (Lại Văn Hùng 2004). Ngoài việc thoả mãn các nhu cầu của
cá về các acid béo thiết yếu, lipid trong khẩu phần thức ăn hoạt động nh là
một nguồn năng lợng. Nhìn chung, 10 - 20 % Lipid trong các khẩu phần thức
ăn của cá cho tốc độ sinh trởng tối u mà không tạo ra một cơ thể quá béo
(Cowey 7 Sarget 1979). Nhng sự khác giữa các loài về khả năng sử dụng lipid
nh là một nguồn năng lợng phổ biến. Chẳng hạn nh khi cá Hồi cầu vồng đợc
cho ăn các khẩu phần có các hàm lợng lipid đợc phát hiện là 35% Protein và
18% lipid (Takeuchi và ctv (1978 a,b)). Tuy nhiên, cá chép đợc cho ăn các
khẩu phần có mức protein cố định là 32%, có lipid thay đổi từ 5% - 15% và
có sự tham gia tơng ứng hàm lợng carbohydrat đã không cho thấy sinh trởng
tăng lên hoặc các hệ số chuyển hoá thức ăn tốt hơn (Takeuchi & ctv 1979).
Nghiên cứu trên cá rô phi (T.zillii) của tác giả Teshima và ctv (1978) và
El - Sayed & Garling (1988) cho biết sự tăng lên của lipid trong khẩu phần
đến 15% sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng protein (PCR) và sự tích luỹ Protein
trong cơ thể (PPV). Cũng giống kết quả trên khi nghiên cứu trên cá Rô phi
vằn (O.niloticus) (Teshima & ctv 1985). Hanley (1991) khi nghiên cứu ảnh h-
ởng của hàm lợng lipid ở mức khác nhau lên sinh trởng và thành phần sinh
hoá cá rô phi vằn đã cho thấy cá rô phi vằn có thể dự trữ lợng lipid trong thịt
và các cơ quan khác trong cơ thể, nhng không thể sử dụng làm nguồn năng l-
ợng để bổ sung chắnự tăng trởng. Mặc dù cơ chế mà điều này xảy ra là cha đ-
ợc rõ. Bằng chứng cho thấy hàm lợng lipid trong khẩu phần ăn của cá Rô phi

vằn có ảnh hởg đến việc sử dụng chất đạm. Mức protein trong khẩu phần từ
5.7 - 9.4% và Carbohydrate 31,9% - 36,7% (Li và ctv 1991) và mức lipid
trong khẩu phần vợt quá 12% sẽ làm suy gảm sự tăng trởng của cá Rô phi
(O.niloticus & O.aureus) giai đoạn giống (Juancey & Ross 1982). Các Rô phi
xanh (O.aureus) cho tăng trởng 2.50
Tốt hơn khi trong khẩu phần có sử dụng dầu cá (fish oil) hoặc dầu
Menhaden từ 7.5-10% so với mức thấp hơn của thức ăn, nhng sự sinh trởng
tốt nhất là 10% dầu Menhaden trong thức ăn (Stickley & Wurt 1986). Chou &
Shiau (1996) nghiên cứu mức tối u lipid tối u trong khẩu phần ăn của cá rô
phi (O.niloticus x O. aereus) giai đoạn giống, kết quả cho thấy 5& lipid
- 8 -
(Maize oil, cod oil và pork lard (1:1:1) trong thức ăn xem ra vừa đủ thoả mãn
nhu cầu tối u của cá, nhng mức 12% trong thức ăn cho sinh trởng tối đa.
Cá sống ở vùng nớc lạnh có nhu cầu rất cao về acid béo cha bão hoà (n-
3) (các PUFA). Ngợc lại, cá sống ở vùng nớc ấm có khuynh hớng cần acid
béo họ n-6 nhiều hơn. Cá rô phi có nhu cầu acid béo họ n-3 và n-6, nhng nhu
cầu acid béo họ n-6 nhiều hơn, khoảng 1% (Stick & Hardy 1989, Lại Văn
Hùng 2004). Stick & McGeachin (1985) cho biết sự sinh trởng của cá rô phi
xanh không hiệu quả khi khẩu phần thức ăn cha linoleic acid cao ở mức 2%.
Khi cá rô phi xanh cho ăn thức ăn chứa dầu đậu lành (soybean oil) thì sinh tr-
ởng của cá đợc cải thiện cùng với sự tăng lên của acid linoleic (Stickney và
ctv 1985). Takeuchi và ctv (1983) cho thấy rằng sinh trởng của cá rô phi
vằngiảm rõ rệt khi sử dụng dầu cá (pollock live oil) trong khẩu phần so với
dầu bắp (Maize oil)và dầu đậu lành. Còn Santiago & Reyes(1993) cho rằng
mặc dù dầu cá có chứa acid béo 22:6n-3 cao đã làm cho khối l ợng của cá Rô
phi Vằn cân nặng cao. Báo cáo cho thấy sinh trởng của cá rô phi xanh tốt hơn
khi cho cá ăn thức ăn cha dầu đậu nành 10% ( 18:2n-6 cao) hoặc 10% dầu
menhaden (20:5n-3 và 22:2n-3 cao) khối lợng thức ăn (Stickney &
McGeachin 1983). Gần đây nhất, Chou & Shiau (1999) khi nghiên cứu về nhu
cầu acid béo cha bão hoà họ n-3 và n-6 đối với cá rô phi (O.niloticus & O.

aureus) đã phát hiện rằng cả hai loại đều rất quan trọng cho sự sinh tr ởng của
cá.
4. Nhu cầu carbonhydrate của cá rô phi
Carbonhydrate là nhóm hợp chất hữu cơ rất phổ biến trong cơ thể thực
vật, động vật và vi sinh vật, chúng có các vai trò nh chất dự trữ năng lợng dễ
dàng đợc chuyển hoá, nh là các phân tử thúc đẩy sự chuyển hoá năng lợng
khắp cơ thể sinh vật và nh là thành phần kiến tạo tế bào. Ngời và động vật
không có khả năng tổng hợp năng lợng carbonhydrate trong cơ thể mà phải sử
dụng nguồn carbonhydrate từ thực vật. Carbonhydrate thuộc nhóm chất dinh
dơng đặc biệt quan trọng đối với ngơif và động vật (Lại Văn Hùng 2004).
Cá thờng sử dụng carbonhydrate trong khẩu phần kém, việc không có khả
năng sử dụng carbonhydrate trong khẩu phần đợc minh hoạ khá nhiều bằng các
thí nghiệm về sức chịu đụng glucose. Ngời ta cung cấp glucose với lợng lớn vào
cơ thể cá qua đờng miệng và nồng độ glucose trong máu đợc đo suốt thời gian
- 9 -
thí nghiệm. Cá phản ứng với những thử nghiệm nh thể chậm hơn rất nhiều so với
ngời và động vật có vú (De Silva và Anderson 1995).
Nghiên cứu trên cá rô phi cho thấy cá Rô phi tiêu hoá và hấp thụ tinh bột
hiệu quả hơn đờng (glucose) rõ rệt (Anderson và ctv (1984), Tung và
Shiau(1991), Shiau và Chen (1993), Shiau và Lin (1993). Báo cáo cũng cho
thấy cá Rô phi tiêu hoá và hấp thụ disaccharride tốt hơn glucose nhng kém
hơn tinh bột. Disaccharride, maltose đợc cơ thể cá sử dụng tốt hơn sucrose và
lactose (Shiau & Chuong 1995).
Lin & Shiau (1995) cho rằng hoạt động cuẩ enzyme malic, glucose-6-
phosphate dehydrogenase (G-6-PD) và Phossphog-luconate dehydrogenase
(PGD) rất mạnh khi cá rô phi ăn thức ăn tinh bột so với cá ăn thức ăn glucose.
Khi thay đổi thành phần trong thức ăn từ tinh bột sang glucose thì hoạct động
của malic enzyme, G-6-PD vad PGD bị giảm và ngợc lại. Tác giả thừa nhân
rằng hoạt động enzyme lipogenic trong gan cá Rô phi có thể thích nghi với
khẩu phần carborhydrate. Shiau & Choang (1996) cho thấy khả năng sử dụng

carbonhyderate của cá Rô phi bị ảnh hởng bởi nguồng protein trong khẩu
phần. Còn theo Shiau & Shy (1998) cho rằng sinh trởng và khả năng sử dụng
glucose tối đa ở cá rô phi khi thức ăn glucose chứa 204.4mg chromic acid/1kg
thức ăn. Shiau & Yu (1999) đã chứng minh rằng khẩu phần có bổ sung chitin
hoặc chitosan làm suy giảm sinh trởng của cá Rô phi lại với mức bổ sung từ
2.5-10%.
Theo Lin và ctv (1995) thì nồng độ insulin huyết thanh của cá rô phi ăn
thức ăn glucose cao hơn cá ăn thức ăn là tinh bột và mẫu huyết thanh insulin
(plasma insulin) của cá Rô phi giống nh ngời, tuy nhiên việc xác định cơ chế
insulin từ khả năng sử dụng carbonhydrate ở cá Rô phi vẫn cha rõ ràng.
Từ thông tin này cho thấy carbonhydrate trong các khẩu phần của cá phải
kiểm tra cẩn thận bởi vì lợng d thừa đợc tích luỹ dới dạng glycogen rồi sau đó
ít sẵn sàng cho cá sử dụng nh là một nguồn năng lợng so với các phân tử
khác.
5. Nhu cầu Vitamin và khoáng của cá Rô phi
Bổ sung Vitamin không thờng xuyên sử dụng vào thức ăn cho cá Rô phi
nuôi trong ao có bón phân, tuy nhiên ở ao nuôi thâm canh thức ăn tự nhiên bị
hạn chế thì việc bổ sung vitamin vào thức ăn là rất cần thiết.
- 10 -
Nghiên cứu nhu cầu vitamin của cá Rô phi đã đợc thực hiện: khi quan sát
triệu chứng thiếu thiamine (sinh tố B) ở trên cá Rô phi đỏ (O. mosssambicus
& O. niloticus) ở giai đoạn cá giống khi ơng ở độ mặn 32 ppt là giảm sinh tr-
ởng và hiệu xuất thức ăn. Thức ăn chứa thiamine với hàm lợng 2.5 mg/kg thức
ăn thúc đẩy sinh trởng của cá tối đa và phòng bệnh triệu chứng thiếu sinh tố B
(Lim & LeaMater 1991). Một số triệu chứng thiếu Vitamin B2 trong thức ăn
cho cá rô phi là cá chán ăn, sinh trởng kém, tỷ lệ chết cao, vây cá bị mòn, mất
màu sắc tự nhiên, còi thân. Nhu cầu Vitamin B2 là 6mg/kg thức ăn cho rô phi
xanh giai đoạn cá giống ơng trong nớc ngọt (Soliman & Wilson 1992b) và
5mg/kg thức ăn cho cá Rô phi đỏ (O. mossambicus & O. niloticus) ơng ở nớc
mặn 32ppt (Lim và ctv 1993).

Cá ăn thức ăn không bổ sung Vitamin B6 có dấu hiệu bất thờng nh: cá
chán ăn, sự rối loạn, ăn mòn vây đuôi, miệng bị tổn thơng, sinh trỏng kém và
tỷ lệ chết cao, nhu cầu tối u về Vitamin B6 ở cá rô phi lai giai đoạn cá giống -
ơng trong ao nớc ngọt đợc phát hiện là 1.7-9.5 mg/kg thức ăn và 15.5-16.5
mg/kg thức ăn tong ứng với mức protein là 28% và 36% trong khẩu phần thức
ăn (Shiau & Hsih 1997). Tơng tự là 3mg/kg thức ăn tơng ứng với với mức
protein là 38% cho cá rô phi đỏ ơng trong nớc mặn. Cá rô phi có thể tự tổng
hợp đợc Vitamin B12 trong ruột hoặc dạ dày dới sự tổng hợp của vi khuẩn và
không nhất thiết lấy từ thức ăn (Lovell & Limsuwan 1982, Sugita và ctv 1990,
Shiau & Lung 1993).
Niacin rất cần thiết đối với cá rô phi lai (O. niloticus x O. aureus) nhng
nhu cầu của no biến động theo thức ăn, tỷ lệ tối u đợc phát hiện là 26mg/kg
trong khẩu phần glucose và 121mg/kg trong khẩu phần detrin (Shiau & Suen
1992). Nhu cầu biotin cho sinh trởng tối đacủa cá Rô phi lai đợc ớc lợng là
0.06mg/kg thực ăn (Shiau & Chin 1999). Gần đây nhất Shiau & Lo (2000)
cũng đã ớc lợng nhu cầu tối u của Choline trong khẩu phần là 1000 mg/kg
thức ăn cho cá rô phi lai.
Nhu cầu Vitamin C cho cá Rô phi xanh (O.aureus) sinh trởng bình thờng
đợc báo cáo là50mg vitamin C/kg thức ăn (Stickney và ctv 1984). Và cá rô phi
lai giai đoạn cá giống là 79mg vitamin C/kg thức ăn cho sinh trởng tối đa
(Shiau và Jan 1992). ở cá Rô phi vằn (O.niloticus) nhu cầu vitamin C đã đợc
đề nghị là 420mg/kg thức ăn (Soliman và ctv 1994).
- 11 -
Nhu cầu vitamin hoà tan trong mỡ chỉ có 2 loại (vitamin D và E) đợc
quan tâm ở cá rô phi, nhu cầu tối u của vitamin D3 cho sinh trỏng tối đa của
cá rô phi lai (O. noloticus x O. aureus) là 378.8IU/kg thức ăn (Shiau &
Hwang 1993). Còn theo O Concell & Gatlin (1994) thì vitamin D3 không
nhất thiết có trong thức ăncho cá rô phi xanh (O.aureus). Triệu chứng thiếu
vitamin E là cá chán ăn, giảm sinh trởng và hiệu quả sử dụng thức ăn, xuất
huyết trên da. Nhu cầu vitamin E tăng với sự tăng lên của hàm l ợng lipit trong

thức ăn, nhu cầu vitamin E của cá rô pơhi xanh ớc lợng từ 10mg và 25mg/kg
tơng ứng với thức ăn có mức lipit 3% và 6% ( Roem và ctv 1990c). Nhu cầu
Vitamin E của cá rô phi vằn đã đợc báo cáo ở mức 50-100mg/kg thức ăn chứa
thành phần lipit 5%. Tăng lên 500mg/kg thức ăn chứa thành phần lipit từ 10-
155 (Satoh và ctv 1987). Nhu cầu vitamin E đã đợc đánh giá lại bởi Shiau &
Shiau (2001) dao động từ 42-44mg/kg thức ăn chứa thành phần lipit là 5% và
60-66mg/kg thức ăn chứa thành phần lipit 12%.
Cho đến nay có rất ít thông tin về nhu cầu chất khoáng của cá rô phi, nhu
cầu chất khoáng của cá rô phi đợc trình bày ở bảng 4:
Bảng 4

: Nhu cầu chất khoáng ở cá Rô phi
Khoáng
Nhu cầu/kg thức ăn (%/kg)
O.aureus O.niloticus O.niloticus & O.aureus
Ca 0.7
a
- -
P 0.5
b
<0.9
c
-
Mg 0.05
d
0.059-0.0077
e
-
Zn 0.002
f

0.003
g
-
K - - 0.21-0.33
p
a
Robínon và ctv (1984),
b
Robinson và ctv,
c
Wantanable và ctv (1980),
d
Reigh
và ctv (1991),
e
Dabrớka và ctv (1989),
f
McClain & Gatlin (1988),
g
Eid &
Ghonim (1994),
h
Shiau & Hsieh (2001)
Nguồn: Shiau 2002
- 12 -
II/ Nhu cầu dinh dỡng của cá rô phi (O.niloticus L.)
Tính ăn của cá Rô phi vằn O.niloticus thay đổi theo giai đoạn phát triển và
môi trờng sống. Cá Rô phi là loài cá ăn tạp thiên về động vật là chính
(Vinafis 2004, Ria i 2004).
Khi cá mới nở nó dinh dỡng bằng noãn hoàng, sau khi nở đợc 3 ngày tuổi cá

mới bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. ở giai đoạn cá bột, cá ăn chủ yếu là động
vật phù du. Khi chiều dài đạt từ 17 - 18 mm trở lên cá mới chuyển sang ăn mùn
bã hữu cơ lẫn các loại tảo lắng ở đáy ao, ngoài ra cá còn ăn thêm các ấu trùng,
côn trùng, giáp xác, giun đất, thực vật thuỷ sinh. Cá thờng tìm kiếm thức ăn ở
tầng đáy có độ sâu 1 - 2m (Vinafis 2004, Ria i 2004).
Ngoài ra, cá còn có khă năng tiêu hoá tốt thức ăn chế biến từ cá tập, cua,
ghẹ, ốc, bột cá khô, cám gạo, bột ngô, bột sắn, và các phụ phẩm nông
nghiệp khác (Vinafis 2004, Ria i 2004).
III/ Tình hình nuôi, tiêu thụ và triển vọng phát triển nuôi cá
rô phi trong tơng lai trên thế giới và Việt Nam
1/ Tình hình nuôi, tiêu thụ và triển vọng phát triển nuôi cá Rô phi trong
tơng lai trên thế giới
Sản lợngnuôi cá Rô phi trên thế giới đã tăng vọt trong thập kỷ qua, gấp
đôi từ 830.000 tấn năm 1990 lên 1,6 triệu tấn năm 1999 và trên 2,5 triệu tấn
năm 2005. Năm năm trớc, giới chuyên môn đã đa ra dự đoán về khả năng
tăng trởng của sản lợng cá Rô phi đến năm 2010 và con số 2,5 triệu tấn đợc
xem là có khả năng đạt đợc. Vậy mà chỉ đến năm 2005 con số này đã bị vợt
qua (Viasep 2008, [110]).
Trung Quốc là nhà sản xuất cá Rô phi hàng đầu với gần 1 triệu tấn trong
năm 2005. Ai Cập cũng có sự tăng ấn tợng về sản lợng vào đầu những năm
1990 khi bất ngờ vợt qua con số 25.000 tấn năm 1990 lân 115.000 tấn trong
năm 1991. Trong 10 năm liền, sản lợng cá Rô phi của Ai Cập liên tục tăng,
đạt 300.000 tấn vào năm 2001. Tuy nhiên, cũng kể từ sau đó, sản lợng cá Rô
phi đã giữ mức khá ổn định. Mặt khác, ản lợng của Inđonêxia và Philippin
- 13 -
tăng đáng kể trong thập kỷ qua, lên 200.000 tấn mỗi nớc (Vasep 2008,
[110,111]).
Hiện nay, Châu á là khu vực chính sản xuất cá Rô phi và cũng là khu
vực thể hiện sự tăng trởng ngoạn mục trong suốt thập kỷ qua, chiếm khoảng
63% tổng sản lợng, so với 50% của năm 1990. Tuy nhiên, sản lợng cá Rô

phi của châu Phi và Nam Mỹ cúng tăng đáng kể trong thập kỷ qua (Vasep
2008).
Tổng sản lợng cá Rô phi chủ yếu là loài cá Rô phi văn tất cả các nớc
mới sản xuất cá Rô phi đều tập trung vào đối tợng này do sự tăng trởng
nhanh của chúng. Tổng sản lợng cá Rô phi đến năm 2010 ớc đạt 3,5 triệu
tấn, chủ yếu là cá nuôi, trong đó phần lớn là Rô phi vằn và đợc sản xuất tại
Trung Quốc [112, 113].
Trong những năm gần đây, Uganda đã vợt qua Ai Cập để trở thành nớc
đánh bắt cá Rô phi chính với 150.000 tấn. Sản lợng đánh bắt cá Rô phi tự
nhiên tăng với sự đóng góp chủ yếu của Uganda. Tất cả các nớc khác đều
giảm, đặc biệt là Ai Cập.
Sự tăng trởng về sản lợng cá Rô phi nuôi cao hơn gấp nhièu lần so với
sản lợng khai thác. Trung Quốc là nớc nuôi cá Rô phi lớn nhất thế giới với
sản lợng gần 1 triệu tấn. Ai Cập đã phát triển ngành nuôi cá Rô phi của mình
trong những năm gần đây và hiện nay đang sản xuất 200.000 tấn mỗi năm.
Đài Loan xuất khoảng 80.000 tấn cá Rô phi nuôi mỗi năm. Sản xuất cá Rô
phi Inđônêxia, Philippin và Thái Lan đã phát triển trong những năm qua và
đã bắt kịp Đài Loan (Vasep 2008,[110]).
Đáng chú ý là nhiều nớc nuôi cá Rô phi với tổng số rất nhỏ. Mêhicô,
một trong những nớc đánh bắt cá Rô phi chính lại không có vai trò đáng kể
nào trong lĩnh vực nuôi cá Rô phi. Nớc này có tiềm năng lớn để trở thành
một trong những nớc sản xuất cá Rô phí chính.
Châu á chiếm khoảng 63% tổng sản lợng cá Rô phi, sản lợng cá Rô phi
tăng mạnh chỉ trong vòng 5 năm và ở tất cả các khu vực, không loại trừ khu
vực nào. ở Đông á, sản lợng tăng từ 755.000 tấn lên 1,1 triệu tấn, trong khi
ở Nam Mỹ (chủ yếu là Ecuađo) tăng từ 70.000 lên 120.000 tấn. ở Trung
Mỹ, sản lợng tăng hơn gấp đôi chỉ trong năm năm , còn châu phi và Đông
Nam á là khá ổn định.
- 14 -
Năm 2006, Trung Quốc là nhà cung cấp chính cá Rô phi cho thị tr ờng

thế giới với sản lợng ớc tính khoảng 104.000 tấn vào Mỹ và khoảng 5.000
tấn vào thị trờng EU. Đài Loan- Trung Quốc xuất 21.500 tấn cho thị trờng
Mỹ và khoảng 1.000 tấn cho EU. Các nớc châu á khác đóng góp khoảng
8.000 tấn cho thị trờng Mỹ và 14.000 tấn cho EU. Cuối cùng là Trung Mỹ
xuất khẩu khoảng 12.400 tấn, toàn bộ cho thị trờng Mỹ và hầu hết ở dạng
phi lê tơi, trong khi 12.000 tấn của sản phẩm này đợc chuyển từ Nam Mỹ
(chủ yếu là Ecuađo) sang Mỹ. Gần nh không có cá Rô phi xuất khẩu từ Mỹ
Latinh sang châu Âu. Châu phi xuất khẩu rất ít cá Rô phi, ớc tính chỉ
khoảng 500 tấn sang châu Âu, Israel là một thị trờng quan trọng, tuy nhiên
không xác định đợc số lợng (vasep 2008, [110].
Tiêu thụ cá Rô phi của Mý ớc tính đạt 360.000 tấn (khối lợng sống),
đứng thứ 5 trong số các loài thuỷ sản đợc tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ. Nhu cầu
mạnh đã khiến nhập khẩu cá Rô phi vào Mỹ đạt mức cao kỷ lục trong 3
tháng đầu năm 2007, với 47.300 tấn, tăng 35% so với cùng kỳ 2006. Xu h -
ớng này đã đợc thầy trong 2 năm qua, với nhập khẩu philê đông lạnh tăng
mạnh, còn đông lạnh nguyên con là ổn định. Nhập khẩu philê tơi từ cá nhà
sản xuất Mỹ La tinh cũng tăng 20% trong 3 tháng đầu năm [110,112,113].
Ecuađo tiếp tục là nhà xuất khẩu chính cá Rô phi dới dạng philê tơi
sang thị trờng Mỹ, chiếm khoảng 48% tổng lợng cung cấp cho thị trờng này.
Ecođo đang mở rộng vị thế của mình nhờ việc xây dựng các trại nuôi cá mới
và bắt đầu sản xuất vào cuối năm 2006.
Tuy nhiên, thị trờng cá Rô phi philê tơi hiện nay vẫn khá khiêm tốn và
có giá rất cao. Sản phẩm này thực sự thống lĩnh thị trờng cá Rô phi là philê
đông lạnh, chủ yếu từ Trung Quốc. Rô phi philê dông lạnh của Trung Quốc
trên thị trờng Mỹ có mức tăng thật khó tin. Trong 3 tháng đầu năm 2007,
xuất khẩu phi lê Rô phi đông lạnh của Trung Quốc sang Mỹ đã tăng gần gấp
đôi, đạt 22.000 tấn. Chính vì vậy hiện nay Trung Quốc đang chiễm lĩnh
mảng thị trowngf này với 92% thị phần. Các nớc khác chỉ đóng góp không
đáng kể.
Triển vọng và khả quan của cá Rô phi

Dự kiến thị trờng cá Rô phi sẽ tiếp tục tăng trởng mạnh trong những
năm tới, với nhu cầu đặc biệt tăng mạnh ở Mỹ, EU và Trung Quốc.
- 15 -
Hội nghị thơng mại cá Rô phi thế giới lần thứ 2 đã diễn ra tại Kuala
Lumpur vào tháng 8/2007 với sự tham gia của 380 đại biểu, đại diện
chongành cá Rô phi của 38 nớc trên thế giới. Thông tin từ Hội nghị cho biết,
sản lợng cá Rô phi có khả năng đạt 4 triệu tấn trong thời gian ngắn, vợt cả
sản lợng cá Hồi. Tuy nhiên sản lợng cá Rô phi thơng mại lại khá nhỏ, chỉ
chiếm khoảng 10 % tổng sản lợng. Mỹ là thị trờng chính, còn nhập khẩu của
EU ớc tính chỉ khoảng 10 - 15.000 tấn. Kế hoạch cấp chứng nhận sẽ sớm
đóng vai trò quan trọng trong cá Rô phi thơng mại. Nhiều nớc mới sẽ sớm
tham gia vào lĩnh vực này, trong đó ấn độ và Iran đã quyết định cho phép
nuôi cá Rô phi ở nớc của họ.
Trong tơng lai, cá rôphi có thể vợt các loài thuỷ sản nuôi khác trên thị
trờng thế giới. Sản lợng cá Rô phi thế giới có thể sẽ tăng mạnh trong những
năm tới do loài này đợc tập trung đầu t.
2/ Tình hình nuôi, tiêu thụ và triển vọng phát triển nuôi cá Rô phi
trong tơng lai của Việt Nam
Năm 1950, cá Rô phi lần đâu tiên đợc di nhập vào Việt Nam là loài cá
Rô phi đen (O.mossambicus). Tuy nhiên, cá Rô phi đen ít đợc a chuộng do
chậm lớn, đẻ nhiều và kích thớc thơng phẩm nhỏ. Năm 1973 loài cá Rô phi
vằn (O.niloticus) đợc nhập vào Việt Nam từ Đài Loan. Cá Roo phi Đài Loan
sinh trởng nhanh hơn nên đợc ngời nuôi chấp nhận và trở thành một đối tợng
nuôi quan trọng. Do thiếu hệ thống quản lý giống tốt nên cá Rô phi Đài
Loan đã lai tạp với cá Rô phi đen cho ra con lai có chất lợng ngày càng giảm
(Vinafis 2004, [111,114]).
Năm 1994 Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 (Ria i) đã nhập nội và
thuần hoá dòng cá rô phi vằn: Dòng Thái Lan, Dòng Ai Cập và dòng Gift,
đồng thời cho tái tại dong Đài Loan.
Ria i đã nghiên và tiến hành chơng trình chọn giống cá Rô phi nhằm

nâng cao tốc độ sinh trởng, khả năng chịu lạnh và chịu mặn. Từ năm 200,
Ria i đã chọn cá Rô phi dòng Gift, là dòng có tố độ tăng trởng nhanh nhất,
đợc công nhận là dòng u việt và phổ biến nuôi trên cả nớc (Vinafis 2004).
Việt Nam cúng đã hoàn thiện công nghệ sản xuất cá Rô phi đơn tính
bằng phơng pháp cho ăn Hormone 17 - Metyltestosterone và đã chuyển
giao cho nhiều địa phơng trong cả nớc (Vinafis 2004). Đầu năm 200, Việt
- 16 -
Nam có khoảng 10 cơ sở sản xuất cá Rô phi đơn tính, với công suất từ vài
đến 3 triệu con/cơ sở/năm và thiếu ổn định về chất lợng, đặc biệt là chất l-
ợng nuôi để phục vụ xuất khẩu.
Phong troà nuôi cá Rô phi tại Việt Nam đang có xu hớng phát triển.
Tuy nhiên, ngời nuôi hiện đang dùng nhiều loài cá rô phi có chất lợng khác
nhau làm giống nuôi, đa phần giống lai tạp, chất lợng thấp. Mạng lới sản
xuất cá Rô phi giống có chất lợng còn ở giai đoạn sơ khai, đàn cá bố mẹ có
chất lợng (dòng Gift, rô phi hồng) có số lợng nhỏ.
Từ năm 2002, Bộ Thuỷ sản bắt đầu phát động phong troà nuôi cá Rô phi
xuất khẩu. Ngay sau đó, sản lợng cá Rô phi tăng vọt từ hơn 7.600 tấn năm
2003 lên 24.000 tấn năm 2005. Mục tiêu của ngành thuỷ sản là đến 2010,
Việt Nam có thể sản xuất đợc 200.000 tấn cá Rô phi thơng phẩm, trong đó
50% dành cho xuất khẩu.
Triển vọng khả quan của cá Rô phi
Dự kiến thị trờng cá Rô phi sẽ tiếp tục tăng trởng mạnh trong những năm tới,
với nhu cầu đặc biệt tăng mạnh ở Mỹ, EU và Trung Quốc.
Bộ Thuỷ sản đã xép cá Rô phi vào vị trí hàng đầu của các loài thuỷ sản nớc
ngọt, nớc lợ trong chơng trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999 - 2010,
với mục tiêu của toàn chơng trình này là đa tổng sản lợng thuỷ sản nuôi trồng lên
đến 2 triệu tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỉ USD vào năm 2010.
Với diện tích 120.000 Ha ao hồ nhỏ, 340.000 ha hồ chứa nớc và 580.000 ha
ruộng trũng. Việt Nam đợc các chuyên gia nuôi trồng thuỷ sản đánh giá là quốc
gia có nhiều tiềm năng về nuôi cá Rô phi, đặc biệt là khi có các tiến bộ về công

nghệ sản xuất giống và thức ăn.
Phần 3:
Kết luận và đề xuất
- Căn cứ vào tình hình nuôi hiện nay nuôi cá Rô phi thơng phẩm đem
lại lợi nhuận kinh tế cao cho ngời dân nhng ở một số địa phơng vẫn cha
đa vào nuôi tập trung làm mặt hàng xuất khẩu chủ lực cho ngành thuỷ
sản.
- 17 -
- Cần tiếp tục nghiên cứu chi tiết hơn nữa các thành phần sinh hoá
của cơ thể cá đặc biệt là hàm lợng các acid béo vì hiện nay ngời tiêu
dùng rất quan tâm (khi nhu cầu đối với dầu cá chứa hàm lợng cao DHA
và EPA - đây là 2 thành phần đợc coi là hiệu quả đối với sản xuất thực
phẩm có lợi cho sức khoẻ).
- Để cá sinh trởng nhanh và kích cỡ thơng phẩm lớn, việc chọn
giống cá rô phi nuôi cần quan tâm hơn nữa vì nó ảnh hởng đến chất lợng
cá thơng phẩm sau này.
- 18 -

×