Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.71 KB, 21 trang )

Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
b.moái quan heä giöõa asean-vieät nam
1.TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM-ASEAN:
1.1.Trước 1995:
Tháng 8-1967, ASEAN ra đời bao gồm 5 nước thành viên là: Indonesia, Malaysia,
Singapore, Thái Lan. Thực tế các nước Đông Nam Á tham gia ASEAN khi đó phải
đối mặt với tình huống khó khăn và phức tạp do chiến tranh xâm lược của Mỹ ở
Việt Nam và Đông Dương.
Nguyên bộ trưởng Thương mại, thượng nghị sĩ Thái Lan Narongchai Akrasanee
ghi nhận: “ Chính phủ các quốc gia thành viên thành lập hiệp hội này nhằm mục
đích chống cộng, họ tin tưởng tổ chức này có thể ngăn cản được làn sóng cộng sản”
Do vậy, có thể nói trong thời gian đầu, ASEAN là sản phẩm được tạo nên bởi một
số nước Đông Nam Á vào thời điểm nóng bỏng ở khu vực trong bối cảnh chiến
tranh trên Thế giới. Việt Nam là một nhân tố khách quan tác động đến (ngòai ý
muốn chủ quan của ta) việc thành lập tổ chức này và Việt Nam chính là đối tượng
chủ yếu được tính đến trong cách hành xử của ASEAN suốt một thời gian không
ngắn
Mối quan hệ Việt Nam-ASEAN trong thời kỳ 1967-1995 đã trải qua nhiều giai
đoạn, từ những năm tháng nghi kỵ và lạnh nhạt, có lúc rất căng thẳng đến khi cả hai
bên cùng kiếm tìm biện pháp hòa giải và từng bước tiến tới hòa nhập. Sự kiện Việt
Nam gia nhập ASEAN(tháng 7-1995) đã khép lại giai đoạn đầy khó khăn trong khu
vực mở ra những trang mới trong quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác ở Đông
Nam Á. Có thể tóm tắt sơ lược về mối quan hệ giữa Việt Nam-ASEAn từ năm
1967-1995 như sau:
• Sau khi đế quốc Mỹ rút khỏi Đông Nam Á bộc lộ mâu thuẫn giữa một số
quốc gia trong khu vực qua việc giải phóng Campuchia khỏi ách thống trị
của chế độ diệt chủng Khơme Đỏ và cuộc xung đột biên giới ở phía Bắc
nước ta. Thời kỳ căng thẳng đối đầu ở Đông Nam Á giữa lực lượng cách
mạng Đông Dương với các nước ASEAN được một vài nước lớn hậu thuẫn
diẫn ra hết sức gay gắt trong nửa đầu thập niên 1980.
• Trong khoảng thời gian từ nửa sau những năm 1980 và nửa đầu những năm


1990, mối quan hệ này dần chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Có nhiều
nhân tố tác động vào sự phát triển của mối quan hệ này, trong đó, về phía
Việt Nam , yếu tố có tính quyết định là đường lối đổi mới nói chung và đổi
mới trong quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng.
Có thể nói năm 1986 là thời điểm khởi đầu cho quá trình hòa giải ở Đông Nam Á.
Trong đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, Đảng khẳng định nhiệm vụ của công
tác đối ngọai là:“ Ra sức kết hợp sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa
bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên Thế giới”
44
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
với mục tiêu “ tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân Thế giới”. Về quan hệ trong khu vực, Đảng tuyên bố: “Chúng
ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng và giải
quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng
Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác”.
Ở Đông Nam Á, các nước thuộc hai khối :ASEAN và Đông Dương đều muốn đi
đến hòa bình, ổn định mà trong những năm 1980, cái nút của vấn đề là tình hình
Campuchia. Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết trên tinh thần hòa giải và
hòa hợp dân tộc, tình hình Đông Nam Á được cải thiện , các bên xích lại gần nhau.
Đồng thời, các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là các nước lớn được
cải thiện theo chiều hướng tích cực. Bối cảnh thuận lợi đó đã dẫn tới việc Việt Nam
kí Hiệp ước Bali(7-1992). Sự kiện này chính thức mở ra thời kỳ Việt Nam chuẩn bị
gia nhập ASEAN và kết quả của nó là lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN tháng 7-
1995 tại thủ đô Brunei.
The Admission of Vietnam (1995)
1.2. Sau 1995:
Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, như cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính Đông Á năm 1997 - 1998, sự gia tăng của chủ nghĩa
khủng bố quốc tế từ sau 11/9/2001, các cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở

Aphganixtan (10/2001) và Irắc (3/2003) với lý do chống khủng bố, hay sự lan tràn
của căn bệnh chết người - viêm nhiễm đường hô hấp cấp (SARS) trên thế giới và ở
khu vực. Tất cả những biến động trên đã đặt ra những thách thức to lớn đối với các
45
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
nước ASEAN trong việc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài, trong khi tình hình
thế giới, khu vực và nội bộ một số quốc gia thành viên vẫn tiếp tục diễn biến phức
tạp.
Tuy nhiên, ASEAN đã chứng tỏ được sức sống của mình, vượt lên những khó
khăn và thách thức đó bằng việc tăng cường và làm sâu sắc hơn liên kết khu vực và
hợp tác ASEAN; đẩy mạnh việc mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài; thu hẹp
khoảng cách, và giúp các nước thành viên mới phát triển…
Trải qua nhiều thăng trầm và vượt qua nhiều thách thức, ngày nay, bao gồm 10
quốc gia Đông Nam Á, ASEAN đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực toàn diện
cũng như là một thực thể chính trị-kinh tế gắn kết và năng động. Dù còn không ít
hạn chế song ASEAN hiện là đối tác không thể thiếu của các nước và tổ chức lớn
trên thế giới, đã và sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng đối với việc duy trì môi trường
hòa bình, an ninh và hợp tác vì sự phát triển ở Đông Nam Á; hỗ trợ đắc lực cho mục
tiêu an ninh và phát triển của từng nước thành viên cũng như cả Hiệp hội, trong đó
có Việt Nam.
Việt Nam gia nhập ASEAN là một sự kiện hết sức quan trọng, có ý nghĩa lịch sử
to lớn vì đã chính thức khép lại thời kỳ chia rẽ của khu vực Đông Nam Á, mở ra
thời kỳ mới, thời kỳ các quốc gia trong khu vực cùng chung sức với nhau xây dựng
một Đông Nam Á hoà bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng. Hơn mười năm qua,
Việt Nam đã tham gia tích cực vào mọi hoạt động hợp tác của ASEAN, đồng thời
chủ động đề ra nhiều sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực phát triển. Việt Nam
đã có những nỗ lực to lớn trong việc duy trì sự đoàn kết và thống nhất trong
ASEAN, đảm bảo ASEAN đi đúng hướng, phù hợp tôn chỉ, mục đích của Hiệp hội
cũng như lợi ích của các quốc gia thành viên. Mối quan hệ tương trợ qua lại giữa
Việt Nam và ASEAN đang ngày càng trở nên gắn bó, đem lại nhiều lợi ích và thúc

đẩy tiến trình phát triển của hai bên trong một thế giới ngày càng biến động.
1.2.1. Đóng góp trong hoạt động ASEAN:
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 tại Bru-nây; và lần đầu
tiên tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 và các Hội nghị liên quan
(Bru-nây, 2-3/8/1995) với tư cách thành viên đầy đủ. Trước đó, tháng 7/1992, Việt
Nam đã chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Bali) và trở
thành quan sát viên của ASEAN. Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương
trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y
tế, văn hoá-thông tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Khu vực
ASEAN (ARF) và trở thành một trong những nước sáng lập Diễn đàn này.
46
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
Diễn đàn khu vực ASEAN lần 8
th
(2001) tại Hà Nội
Trong 13 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính
1997.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính gây ra những thiệt hại lớn cho toàn
khu vực, Việt Nam được phân công tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6.
Vượt qua nhứng khó khăn về cơ sở vật chất, trình độ kinh nghiệm tổ chức, Hội nghị
cấp cao ASEAN 6 do Việt Nam tổ chức đã thành công rực rỡ với việc thông qua
chương trình hành động Hà Nội nhằm thực hiện thành công chương trình tầm nhìn
ASEAN 2020. Đến năm 2000, Việt Nam tiếp tục đảm nhận cương vị chủ tịch Ủy
ban thường trực ASEAN (ASC), tổ chức một loạt hội nghị quan trọng nhằm củng
cố lại đoàn kết, hợp tác, tăng cường vị thế của ASEAN sau khủng hoảng. Với quan
điểm trước hết cần tạo ra một khối liên kết nội bộ mạnh để nâng cao vị thế của
ASEAN trên trường quốc tế, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng các nước trong
khu vực trên các diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Diễn đàn sau hội nghị Bộ
trưởng (PMC) nhằm đối thoại với các nước và các khu vực kinh tế trên thế giới.

Bên cạnh việc tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như
khoa học công nghệ, văn hóa thông tin, phòng chống tệ nạn xã hội ... Việt Nam còn
mạnh dạn đăng cai tổ chức các hội nghị về hợp tác được các nước trong khối đánh
giá cao như Tuần lễ khoa học và công nghệ ASEAN năm 1998; Tuần văn hóa
ASEAN năm 2004; Hội thi tay nghề ASEAN... Đối với quan hệ của ASEAN với
các đối tác bên ngoài, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực với vai trò là nước
điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các nước lớn như Hoa Kỳ, Nga, Nhật
Bản... và tham gia tích cực tiến trình hợp tác ASEAN+3 với 3 nước Nhật Bản, Hàn
47
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
Quốc, Trung Quốc nhằm tiến một không gian hợp tác toàn Đông Á. Những diễn
đàn hợp tác liên khu vực như diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác
Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)... luôn có sự đóng góp rất nhiệt tình của Việt
Nam với nhiều sáng kiến duy trì và phát triển các diễn đàn trên. Đặc biệt là Hội
nghị cấp cao Á-Âu lần thứ 5 tổ chức tại Hà Nội với việc kết nạp thêm 13 thành
viên vào diễn đàn được đánh giá như một dấu mốc lịch sử nâng cao uy tín của
ASEM cũng như của nước chủ nhà Việt Nam trong con mắt của bạn bè thế giới.
Như vậy, trong suốt thời gian tham gia Hiệp hội,cùng với các nước khác, Việt
Nam đã hoạt động nhiệt tình, đưa ra nhiều sáng kiến mới, hoàn thành tốt các nhiệm
vụ được giao nhằm khắc phục những mặt yếu kém, trì trệ, thúc đẩy hợp tác khu vực
phát triển.
1.2.2. Về kinh tế:
1.2.2.1.Quan hệ đầu tư:
Thủ tướng dự Phiên
họp cấp cao ASEAN
về kinh doanh và
đầu tư
Là những nước trong cùng một khu vực với những điều kiện địa lý, tự nhiên cho
sản xuất có nhiều điểm tương đồng, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước
còn lại trong khối vừa là quan hệ hợp tác, vừa là quan hệ cạnh tranh. Nhưng với

diện tích gần 4,5 triệu km
2
, với hơn 560 triệu dân, với GDP đạt hơn 1100 tỉ USD;
kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 550 tỉ USD (chiếm 78,5% GDP, bình quân đầu
người đạt xấp xỉ 1.000 USD), ASEAN đã trở thành một đối tác quan trọng về đầu
tư, thương mại của Việt Nam.
Phần lớn các nước thuộc khu vực ASEAN đều đang phát triển theo mô hình
hướng tới xuất khẩu dựa vào công nghệ chế biến, có tiềm lực tương đối lớn về
vốn và công nghệ nhưng lại thiếu tài nguyên và giá lao động đắt.Bởi vậy, xu
hướng tất yếu là các quốc gia phát triển trong khu vực chuyển dịch các ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động sang Việt Nam.
Trong khi đó, về phía Việt Nam, chủ trương chuyển dịch nền kinh tế theo hướng
thị trường mở, tự do hoá thương mại và đầu tư, ban hành Luật Đầu tư nước ngoài
(1987), cải thiện mạnh mẽ những quan hệ chính thức Việt Nam- ASEAN từ sau
năm 1989, quy mô thị trường hấp dẫn cộng với lợi thế về nguồn lao động rẻ và
nguồn tài nguyên phong phú đã là những yếu tố thuận lợi khơi mạnh dòng chảy vốn
48
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
quốc tế vào Việt Nam, trong đó nguồn vốn từ khu vực ASEAN chiếm tỷ trọng
tương đối lớn.
Các nước ASEAN tuy xuất hiện muộn hơn trên thị trường đầu tư Việt Nam nhưng
đã có bước tiến khá dài. Từ một số ít dự án mang tính thăm dò thị trường của các
quốc gia đi tiên phong là Singapore, Thái Lan, Indonesia vào những năm 1990,
dòng vốn này thực sự khởi sắc vào năm 1995 với tổng số 230 dự án và trên 3 tỷ
USD đăng ký đầu tư tại Việt Nam.
Đặc biệt, ngay sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định Thương mại tự do ASEAN
(AFTA), tháng 1/1996, tốc độ thu hút FDI từ khi vực đã tăng nhanh chóng, đạt tới
trên 7,8 tỷ USD vào thời điểm giữa năm 1997.
Tuy nhiên, tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã khiến
dòng vốn này chững lại và sụt giảm mạnh. Số dự án cấp phép mới hầu như không

tăng, các dự án đang thực hiện cũng bị giãn tiến độ. Vào lúc đó chỉ còn Singapore
vẫn giữ được mức độ đầu tư, hầu hết các quốc gia còn lại đều giảm.
Giai đoạn từ cuối năm 2000 đến nay được coi là thời kỳ phục hồi dòng vốn FDI
từ ASEAN vào Việt Nam, cùng với đà phục hồi của các nền kinh tế thành viên
khu vực này.
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết
tháng 5/2007, khu vực ASEAN có 1.179 dự án đầu tư được cấp phép tại Việt
Nam, với tổng vốn trên 16 tỷ USD.
Trong số này, Singapore vẫn giữ vị trí dẫn đầu với 474 dự án và 9,07 tỷ USD
còn hiệu lực, đứng thứ hai trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào
Việt Nam. Quốc gia thuộc ASEAN đầu tư ở vị trí thứ 2 là Malaysia với 219 dự án
và 1,7 tỷ USD, đứng thứ 10. Quy mô vốn cho các dự án đầu tư của khu vực
ASEAN vào Việt Nam nhìn chung cao hơn mức trung bình của cả nước và cao
hơn nhiều so với một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác có dự án tại Việt Nam.
Các dự án đầu tư của ASEAN vào Việt Nam cũng đã có sự thay đổi cơ cấu rõ rệt,
từ các lĩnh vực thương mại, khách sạn, dịch vụ chuyển mạnh sang lĩnh vực công
nghiệp và sản xuất. Trong tổng số 115 dự án và 1,2 tỷ USD vốn đầu tư của Malaixia
ở Việt Nam thì lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 44% số dự án và 70% số vốn.
Tiếp theo Malaixia là Thái Lan với 112 dự án và 1,16 tỷ USD vốn đầu tư. Một số
khu công nghiệp và chế xuất mà các nước ASEAN tham gia đã hoạt động có hiệu
quả như: khu công nghiệp Việt Nam - Xingapo (Bình Dương), Khu công nghiệp
Việt Nam - Thái Lan (Amata), Khu chế xuất Việt Nam - Malaixia (Đà Nẵng), khu
công nghiệp Việt Nam - Malaixia (Nội Bài)... Có thể nói, đầu tư từ các nước
ASEAN đã và đang là một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp vào phát
triển kinh tế Việt nam, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
và hiện đại hoá, và đưa Việt Nam tiến kịp các nước trong khu vực.
1.2.2.2.Quan hệ thương mại:
49
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
Sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã chính thức tham gia Khu vực

Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ ngày 1/1/1996. Với việc tham gia AFTA, cả
Việt nam và các nước ASEAN đều có điều kiện hơn nữa để thúc đẩy quan hệ
thương mại theo những qui định về giảm thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Từ
đó, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN cũng không ngừng gia
tăng trong những năm qua đặc biệt là sau năm 2003, các nước ASEAN 6 hoàn thành
nghĩa vụ cắt giảm thuế xuống còn 0-5%. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt
Nam mở rộng xuất khẩu sang các nước này. Trong khi một số nước thành viên còn
đang gặp phải khó khăn khi tham gia AFTA, một số nước ASEAN tiếp tục giành
những ưu đãi thuế quan, trong đó cho phép Việt Nam hưởng thuế suất CEPT khi
các mặt hàng tương ứng của Vietnam chưa cắt giảm ngang bằng mức của nước này
trong khuôn khổ cơ chế ưu đãi hội nhập AISP. Cụ thể: Brunây dành ưu đãi thuế
quan cho Việt Nam một mặt hàng, Thái Lan: 17 mặt hàng, Inđônêxia: 50 mặt hàng
và Malaixia: 173 mặt hàng theo AISP. Việt Nam cũng cam kết cắt giảm thuế từ
1/1/2001 đối với những mặt hàng có mức thuế cao xuống còn 20%, giảm tiếp mỗi
năm.
Từ lợi thế trên, Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN
năm 1995 đạt chưa được 1 tỉ USD thì đến năm 2000 đạt trên 2,6 tỉ, năm 2004 đạt
gần 3,8 tỉ, năm 2008 tăng hơn 50% của các năm trước đó. Các thị trường có tỷ lệ
nhập khẩu vào Việt Nam cao là Singapore với 1.370 triệu USD; Malaysia với 601,1
triệu USD; Philipin với 498,6 triệu USD.... Những mặt hàng chính của Việt Nam
xuất khẩu vào ASEAN là dầu thô, gạo, điện tử và linh kiện, dệt may, thủy sản, cà
phê, cao su...
Tuy nhiên ở khu vực ASEAN, Việt Nam luôn ở thế nhập siêu và thực trạng này đã
kéo dài nhiều năm nay với các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc thiết bị, phân
bón, hóa chất nguyên liệu, xăng dầu. Điều này có thể thấy qua tổng kim ngạch nhập
khẩu của Việt Nam từ ASEAN và tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam đối với thị trường
này: nếu năm 2000 nhập khẩu 4.449 triệu USD, nhập siêu 1.830 triệu USD, tỷ lệ
nhập siêu 69,9% thì năm 2004 các chỉ số tương ứng là 7.762 triệu USD, 3.977,6
triệu USD và 105,1%. Và nhập siêu dường như vẫn là bài toán khó đối v ới Việt
Nam khi5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đã tăng cao kỷ lục, đạt khoảng 14,4 tỉ

USD, bằng 61,6% tổng kim ngạch xuất khẩu 5 tháng và tăng 3,4 lần so cùng kỳ năm
2007.
Mặc dù còn những hạn chế, Vị thế của Việt Nam trong khu vực ASEAN đã nâng
lên rõ rệt. Trong 687 tỉ USD GDP của toàn khu vực năm 2003, Việt Nam đã đóng
góp trên 50 tỉ USD. GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2004 đã đạt trên
554 USD, cao gần gấp đôi mức 282 USD của năm 1995. Tốc độ tăng GDP của Việt
Nam thời kỳ 2001 - 2004 thuộc loại cao nhất khu vực và theo dự đoán của ADP, vị
trí đó vẫn còn tiếp tục trong những năm tới, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng
chung của ASEAN (năm 2005 là 5,4%, năm 2006 là 5,6%, năm 2007 là 5,9%...).
50
Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển
Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 của Việt Nam đã đạt trên 320 USD, cao
hơn nhiều so với mức của năm 1995 và đã vượt qua mức của Indonesia. Tỷ lệ xuất
khẩu so với GDP đã đạt khoảng 60%, đứng thứ 4 khu vực sau Singapore, Malaysia,
Brunei, vượt qua Indonesia (đạt 29,3%), Philippines (đạt 45,1%), Thái Lan (đạt
56,1%)... Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam hiện đứng thứ 109 thế
giới, cao hơn vị trí 111 của Indonesia - là nước có GDP bình quân đầu người cao
hơn Việt Nam nhưng lại có tuổi thọ bình quân và các chỉ số giáo dục thấp hơn Việt
Nam.
Đóng góp của Việt Nam vào ASEAN không chỉ là sự đóng góp để nâng quy mô
diện tích, quy mô dân số, quy mô GDP, quy mô xuất khẩu; cũng không chỉ là sự
góp vào với khu vực về thị trường đầu tư, thị trường tiêu thụ; mà còn là một mô
hình khối gồm những nước có chế độ chính trị khác nhau chung sống trong một
ngôi nhà chung; còn là cầu nối giữa các nước còn lại của khu vực với Trung Quốc.
Hơn nữa, khi Việt Nam gia nhập WTO, với vị trí thuận lợi về địa lý, thì Việt Nam
còn là điểm đến của đầu tư, hàng hóa, khách du lịch - do dân số đông và có mức
sống đang lên - là địa bàn để đầu tư, sản xuất hàng xuất khẩu đi khắp gần 150 nước
thành viên WTO.
1.2.3.Về an ninh-chính trị:
Việt Nam luôn tích cực tăng cường đoàn kết và thống nhất ASEAN, kiên trì bảo

vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, nhất là không can thiệp và đồng thuận; xử lý
khéo léo một số vấn đề phức tạp, nhạy cảm trên cơ sở bảo đảm đoàn kết và lợi ích
chung của ASEAN. Việt Nam cũng có nhiều đóng góp quan trong trong việc duy trì
môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực; duy trì vai trò chủ
đạo của ASEAN trong việc xử lý các vấn đề khu vực cũng như tại các diễn đàn hợp
tác khu vực do ASEAN khởi xướng
51

×