Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

giải pháp hữu hiệu nhằm giảm tác hại và đẩy lùi đôla hóa ra khỏi nền kinh tế của quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.23 KB, 23 trang )

Đề án môn học
Lêi më ®Çu
Trong nền kinh tế hiện đại, hội nhập, phát triển là một tất yếu khách
quan và là một xu thế chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Có “hội
nhập” thì mới “phát triển” được. Song song với tiền trình hội nhập diễn ra
hết sức mạnh mẽ trên thế giới, quá trình tự do hóa tài chính diễn ra liên tục,
các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do va xuyên suốt từ quốc gia
này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh như vậy, nền kinh tế mỗi quốc gia sẽ
càng gắn bó chặt chẽ hơn nữa vào tình hình biến động kinh tế chính trị xã hội
diễn ra trên thế giới. Do đó, bên cạnh những cơ hội to lớn khi tham gia vào
quá trình hội nhập để phát triển, các quốc gia cũng phải đối mặt với rất nhiều
những thách thức khó khăn. Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự
chủ tài chính sẽ giúp nền kinh tế quốc gia đó có sức đề kháng trước những cú
sốc kinh tế bên ngoài, nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế. Vì vậy điều kiện
tiên quyết để đứng vững trên con đường hội nhập đó là mỗi quốc gia phải
“chuẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế của nước mình và từ đó tìm
các cách “chữa trị’ nó một cách hữu hiệu nhất. Một trong những căn bệnh
điển hình mà mỗi quốc gia khi tham gia vào quá trình hội nhập thế giới, đặc
biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt, đó chính là
tình hình đôla hóa nền kinh tế.
Chính vì vây, trong phạm vi nội dung đề tài này, tôi xin phép được
trình bày những vấn đề chung nhất về “đôla hóa” nền kinh tế, giúp cho mỗi
người có thể hiểu và nắm bắt rõ hơn về căn bệnh điển hình này của nền kinh
tế, đặ biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển, có cái nhìn toàn diện
và chính xác hơn về đôla hóa, từ đó có thể đưa ra những biện pháp hữu hiệu
nhằm giảm tác hại và đẩy lùi đôla hóa ra khỏi nền kinh tế của quốc gia.
Phần I: Tổng quan về đô la hóa
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
I.1. Khái niệm đô la hóa:
Đôla hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế


khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng tiền bản tệ
trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la
hoá toàn bộ hoặc một phần.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền có ba chức năng
đó là: chức năng phương tiện trao đổi, chức năng đơn vị đo lường và chức
năng cất trữ giá trị. Đối với những nền kinh tế bị đô la hóa, ngoại tệ được sử
dụng rộng rãi trong việc niêm yết giá hàng hóa dịch vụ, trong thanh toán và
trong cất trữ. Đôla hóa không chỉ có nghĩa là sự sử dụng rộng rãi USD mà
còn bao gồm nhiều loại ngoại tệ mạnh khác như EUR, JPY, GBP. Điều đấy
có nghĩa là bất kì một loại ngoại tệ nào có khả năng thay thế đồng nội tệ
cũng dẫn đến hiện tượng “đôla hóa”.
Mặc dù hiệp ước Bretton Wood đã phá sản nhưng từ lâu USD được
nhìn nhận là đồng tiền mạnh nhất thế giới, đã trở thành phương tiện thanh
toán quốc tế mà không có đồng tiền nào có thể thay thế được. Mặt khác, Mỹ
luôn lợi dụng sự lớn mạnh của nền kinh tế đã gây sức ép với nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó hệ thống tiền tệ vốn chưa “hoàn thiện”, và còn rất
“nhạy cảm” ở các nước đang phát triển.
Sự thay thế một phần hay hoàn toàn nội tệ ở đây được thể hiện dưới
hai dạng:
Thứ nhất, là sự thay thế tài sản: đó là việc công chúng nắm giữ trái
phiếu nước ngoài; Tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ ở nước ngoài; Tài
khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước với
mục đích cất giữ giá trị từ đó hạn chế tác động của sự giảm giá trị đồng nội tệ
đối với tài sản khi lạm phát xảy ra.
Thứ hai là sự thay thế tiền tệ: đó là việc công chúng nắm giữ ngoại tệ
tiền mặt, tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tê trong hệ thống ngân
hàng trong nước để thực hiện chức năng phương tiện thanh toán và đơn vị đo
lường. Giá hàng hóa và dịch vụ được niêm yết bằng USD và công chúng sử
dụng USD để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ đó. Điều này cũng xảy ra
trong điều kiện lạm phát cao, khi đó chi phí trong việc sử dụng nội tệ trong

giao dịch cao đã thúc đẩy công chúng tìm kiếm một sự thay thế.
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
I.2. Phân loại đôla hóa:
I.2.1. Căn cứ vào phạm vi:
Dựa vào vị trí, vai trò, cơ sở pháp lý của ngoại tệ và mức độ sử dụng
ngoại tệ trong nền kinh tế, thái độ của quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay
không thừa nhận đồng đôla mà Đôla hóa được chia làm ba loại: đôla hóa
chính thức, đôla hóa bán chính thức, đôla hóa không chính thức.
I.2.1.1. Đô la hóa chính thức:
Là hiện tượng xảy ra khi một quốc gia thống nhất sử dụng ngoại tệ là
tiền tệ chính thức, hoàn toàn thay thế nội tệ. Nghĩa là đồng nội tệ không tồn
tại hoặc nếu tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ cấp, tồn tại dưới dạng tiền xu với
mệnh giá nhỏ và không có nhiều ý nghĩa trong việc thực hiện chức năng tiền
tệ. Trong khi đó ngoại tệ được lựa chọn là tiền tệ chính thức được sử dụng
với ba chức năng : phương tiện thanh toán, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị.
Đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa
các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính Phủ.
Ngân hàng trung ương (NHTW)của các quốc gia này chỉ tồn tại trên danh
nghĩa và không có vai trò gì trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính
sách tiền tệ hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương Mỹ ( Cục dự trữ liên bang Mỹ-FED). Nền kinh tế đôla hóa chính thức
bị điều chỉnh bằng những cú sốc ngoại lai nhiều hơn bằng cách điều chỉnh tỷ
giá hối đoái Đôla hóa chính thức không có nghĩa là chỉ một hoặc hai đồng
ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên hầu hết các quốc gia có nền
kinh tế đôla hóa chính thức chỉ chọn một ngoại tệ là tiền tệ chính thức.
Những quốc gia này thông thường là những nước nhỏ với quy mô dân số vài
triệu dân. Sáu trong số những nền kinh tế đôla hóa chính thức là thành viên
của IMF: Kiribati, Marshall Islands, Micronesia, Paula, Panama, San Marino.
Trong đó Panama là một quốc gia được biết đến nhiều nhất với nền kinh tế

đôla hóa chính thức điển hình. Đôla hóa chính thức không phổ biến bằng
đôla hóa không chính thức và thậm chí rất hiếm do mọi người đều coi đồng
tiền quốc gia là một biểu tượng của dân tộc, mất đi đồng tiền riêng có nghĩa
là giao quyền điều hành chính sách tiền tệ cho NHTW nước ngoài. Chính vì
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
vậy, thông thường các quốc gia chỉ áp dụng đôla hóa chính thức sau khi đã
thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Tuyên bố từ bỏ
đồng nội tệ đồng thời chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức chỉ là giải pháp
cuối cùng khi chính phủ nước đó không còn cách nào khác để đưa nền kinh
tế thoát khỏi khủng hoảng, thoát khỏi sự mất ổn định kéo dài.
Bảng 1: Danh sách một số nền kinh tế đôla hóa chính thức
Quốc gia Dân số Ngoại tệ sử dụng Từ
năm
Cook Island 18500 Newzealand dollar 1995
Cyprus, Northern 180000 Turkish lira 1974
Liechtenstein 31000 Swiss franc 1921
Marshall islands 61000 U.S dollar 1944
Micronesia 130000 U.S dollar 1944
Nauru 10000 Australia dollar 1914
Northern Mariana
Islands
48000 U.S dollar 1944
Panama 2.7 mn U.S dollar notes and coins,
Panamanian coins
1904
Samoa, American 60000 U.S dollar 1899
(Nguồn: IMF-2000)
I.2.1.2. Đôla hóa không chính thức:
Là hiện tượng xảy ra khi cư dân một quốc gia nắm giữ một số lượng

lớn tài sản bằng ngoại tệ, tuy nhiên nội tệ vẫn là đồng tiền chính thức, hợp
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
pháp của quốc gia đó. Đôla hóa không chính thức có thể bao gồm các loại cụ
thể sau:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Các nhà kinh tế nhìn chung đồng nhất Đôla hóa không chính thức với
sự thay thế tài sản. Có nghĩa là ngoại tệ được nắm giữ chủ yếu với chức năng
cất trữ giá trị nhằm giảm tác động của sự giảm giá nội tệ trong điều kiện lạm
phát. Tuy nhiên tùy thuộc vào mức độ đôla hóa nền kinh tế và tùy thuộc vào
các quy định hạn chế trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia về vấn đề
sử dụng ngoại tệ mà có những quốc gia, ngoại tệ còn được sử dụng trong cả
thanh toán và niêm yết, thông báo giá hàng hóa dịch vụ. Thông thường trong
các quốc gia này, các khoản mục như: lương, thuế và những chi phí hàng
ngày như hóa đơn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ vẫn được thanh toán bằng nội
tệ còn những hàng hóa dịch vụ xa xỉ hay trong hoạt động kinh doanh bất
động sản được niêm yết và thanh toán bằng ngoại tệ. Việt Nam là một trong
những nước ở Châu Á có nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức. Ở Việt
Nam, nhìn chung công chúng nắm giữ ngoại tệ dưới dạng ngoại tệ tiền mặt
hoặc tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại với chức
năng cất trữ giá trị còn đối với chức năng phương tiện thanh toán và đơn vị
đo lường, mặc dù pháp luật Việt Nam cũng có đưa ra một số những quy định
hạn chế nhưng do khâu thực thi pháp luật yếu kém nên giao dịch ngoại tệ và
việc niêm yết, thông báo giá hàng hóa bằng ngoại tệ vẫn diễn ra phổ biến.
Một cách để đo lường quy mô của đôla hóa không chính thức là đo
lường quy mô trái phiếu quốc tế, tài khỏan tiền gửi ngân hàng và quy mộ
ngoại tệ tiền mặt. Tuy nhiên để đo lường chính xác quy mô của các khoản

mục trên là không hề dễ dàng, thông thường các con số có được là do ước
lượng mà thành. Theo ước lượng của cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) : người
nước ngoài nắm giữ từ 55-70% đôla tiền giấy. Tổng giá trị USD trong lưu
thông hiện nay khoảng 480 tỷ trong đó người nước ngoài nắm giữ 300 tỷ.
Một cách khác để đo lường mức đôla hóa không chính thức là tỷ lệ tài khoản
tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trên tổng phương tiện thanh toán
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
(M2) ( bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có
kì hạn và tiền gửi ngoại tệ). Theo đánh giá của IMF, nếu một quốc gia tỷ lệ
này trên 30% thì tình trạng đôla hóa là nghiêm trọng.
Trong hầu hết các quốc gia có nền đôla hóa không chính thức, USD là
ngoại tệ được lựa chọn. Trường hợp này đặc biệt đúng với các quốc gia mà
Mỹ là đối tác thương mại, nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất hoặc lớn ,thứ hai.
Điển hình là các nước Châu Mỹ Latinh và Caribean. Tuy nhiên từ khi đồng
tiền chung Châu Âu (EUR) ra đời thì EUR nhanh chóng trở thành ngoại tệ
lựa chọn của một số quốc gia ở Châu Phi và khu vực Trung Đông.
Các quốc gia hiện nay bị đôla hóa không chính thức (U.S dollar) bao
gồm: hầu hết các nước Châu Mỹ Latinh và vùng Caribean trong đó đặc biệt
là Argentina, Bolivia, Mexico, Peru, và vùng Trung Mỹ; hầu hết các nước
thuộc Liên Xô cũ trong đó đặc biệt là: Armenia, Azerbaijan, Georgia, Russia,
Ukraine; ngoài ra còn có Mongolia, Mozambique, Romania, Turkey, Việt
Nam.
Chúng ta cần phân biệt đôla hóa không chính thức và sự hình thành
đồng tiền chung khu vực. Nhiều người cho rằng việc sử dụng đồng tiền
chung khu vực chính là đôla hóa nền kinh tế. Nhận định này là không chính
xác vì: Đôla hóa không chính thức là sự xâm nhập bất hợp pháp của một
đồng tiền mạnh vào nền kinh tế, thay thế một phần nội tệ để sử dụng trong
thanh toán, cất trữ và niêm yết giá cả. Đây là điều mà Chính Phủ các nước
không mong muốn và luôn nỗ lực đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế tình

trạng trên. Còn việc hình thành đồng tiền chung khu vực là xuất phát từ các
nước trong cùng khu vực địa lý đã liên kết, hợp tác với nhau thiết lập một
đồng tiền chung để làm đối trọng với các đồng tiền mạnh khác ngoài khu vực
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa các nước trong khu
vực đó, hạn chế được các rủi ro trong thương mại như rủi ro tỷ giá. Đồng
EUR là một ví dụ cụ thể, Ngày 1/1/1999 tỷ lệ hối đoái giữa EUR và các đơn
vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và EUR trở thành tiền tệ
chính thức. Đến ngày 1/1/2002, EUR bắt đầu được phát hành tới người tiêu
dùng. Từ khi EUR ra đời và chính thức được đưa vào sử dụng là tiền tệ hợp
pháp của các quốc gia thì thương mại và cộng tác kinh tế giữa các nước trong
khu vực EUR trở nên vững mạnh hơn. Hơn thế nữa EUR nhanh chóng trở
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
thành một đồng tiền mạnh, ở thế đối trọng với USD và là tiền tệ lựa chọn của
một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh EUR, trong thời gian sắp tới đơn vị
tiền tệ chung các nước Châu Á (ACU) sẽ ra đời với 13 thành viên: Trung
Quốc, Hàn quốc, Nhật và các nước ASEAN, trong tương lai không xa sẽ
hình thành đồng tiền chung Châu Á. Có thể nói việc hình thành liên minh
tiền tệ và sự ra đời của các đồng tiền chung khu vực là xu thế phát triển của
thời đại hội nhập trên lĩnh vực tiền tệ quốc tế, không thể coi sự hình thành
những đồng tiền chung này là đôla hóa.
I.2.1.3. Đôla hóa bán chính thức:
Là đôla hóa của các quốc gia mà ở đó có hệ thống lưu hành chính
thức hai đồng tiền.
Ở những quốc gia này, ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và
chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số tiền gửi ngân hàng nhưng việc trả lương,
thuế và các chi tiêu hàng ngày vẫn được thực hiện bằng nội tệ. Các quốc gia
này vẫn duy trì NHTW để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Một số quốc
gia có nền kinh tế đôla hóa bán chính thức điển hình: Cuba, Bahamas,
Cambodia, haiti, Laos, Liberia ( U.S dollar); Bhutan (India rupee), Bosnia

(German Mark, Croatia kuna, Yugoslav dinar); Brunei ( Singapore dollar);
Channel islands, isle of Man ( British pound); Lesotho, Namibia (Sounth
African rand); Taijikistan (Russian ruble).
I.2.2. Căn cứ vào hình thức:
Đôla hóa được thể hiện dưới ba hình thức sau:
I.2.2.1.Đôla hóa thay thế tài sản:
Thể hiện qua tỷ lệ gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán
(FCD/M2). Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh tế đó bị đôla hóa
nghiêm trọng, tạo ra các lệch lạc trong việc điều hành tài chính tiền tệ vĩ mô.
Nhìn chung với các nền kinh tế chuyển đổi thì tỷ lệ đôla hóa bình quân hiện
nay là 29%.
I.2.2.2.Đôla hóa phương tiện thanh toán:
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Các giao dịch thanh toán
bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất là đối với những nền kinh
tế tiền mặt như Việt Nam.
I.2.2.3. Đôla hóa định giá, niêm yết giá:
Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng ngoại tệ.
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Phần II: Nguyên nhân dẫn đến Đôla hóa
Ta phân chia các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đôla hóa nền kinh tế
của các quốc gia thanh nguyên nhân chủ quan ( xuất phát từ ý chí của các
nhà lãnh đạo) và nguyên nhân khách quan ( các nguyên nhân dẫn đến tình
trạng đôla hóa nền kinh tế mặc dù các quốc gia không hề mong muốn).
II.1. Nguyên nhân chủ quan:
Theo thống kê, các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức đều là
những quốc gia nhỏ cả về quy mô và diện tích Đôla hóa thường gặp khi một
nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua đồng bản tệ giảm sút thì người dân

phải tìm công cụ dự trữ khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín.
Tình trạng đôla hóa bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ
bao gồm:
• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị
• Chức năng làm phương tiện cất trữ
• Chức năng làm phương tiện thanh toán.
Đối với các quốc gia này đôla hóa chính thức nền kinh tế còn có thể
xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà lãnh đạo. Theo họ, việc chấp nhận
một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần làm cho nền kinh tế ổn định
hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao và họ chấp nhận đánh đổi chủ
quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này, vì suy cho cùng mục tiêu của
chính sách tiền tệ cũng là tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và ổn
định giá trị đồng tiền.
Một cách lí giải nữa của việc chấp nhận đôla hóa chính thức nền kinh
tế của các quốc gia là do sự yếu kém trong việc họach định, thực thi chính
sách tiền tệ của NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống ngân
hàng thương mại trong nước. NHTW không đủ năng lực để điều hành chính
sách tiền tệ do đó chấp nhận trao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài để
ổn định và phát triển kinh tế quốc gia mình.
II.2. Nguyên nhân khách quan:
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Trên đây là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ ý chí của các
nhà lãnh đạo và người dân. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khách
quan dẫn tới tình trạng đôla hóa nền kinh tế mặc dù các quốc gia không hề
mong muốn.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng đôla hóa của các quốc gia
có liên quan đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood. Hệ thống Bretton
Wood (BWS) là một hệ thống tiền tệ quốc tế được đi vào hoạt động từ năm
1947. Đây là một hệ thống chế độ tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh.

Mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được
phép dao động trong khoảng biên độ (+-1%), tỷ giá đồng USD tự nó được cố
định với giá vàng là 35$/ounce. Một đặc điểm nữa của BWS là sự hình thành
hai tổ chức quốc tế mới là IMF và WB với hạn mức tín dụng thường xuyên
nhằm hỗ trợ cho những quốc gia bị thâm hụt tạp thời BP. Có thể nói BWS
hoạt động với sự thành công rõ ràng và đáng ghi nhận, trong suốt những năm
từ 1947 đến 1971 chỉ xảy ra một số lần điều chỉnh đột xuất. Tuy nhiên sau 24
năm tồn tại, BWS bị sụp đổ với những lý giải xuất phát từ rất nhiều nguyên
nhân khác nhau. Sau sự sụp đổ của BWS, các quốc gia đều tiến hành thả nổi
tỷ giá, và đặc trưng của hệ thống tỷ giá thả nổi này là không có trật tự và rối
loạn. Có một số quốc gia khó khăn trong việc tìm kiếm và lựa chọn một một
chế độ tỷ giá phù hợp, điều này cũng trở nên khó khăn hơn trong điều kiện
thị trường vốn và thị trường thương mại quốc tế tự do hội nhập. Một trong
những cách giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề này là từ bỏ đồng tiền chính
thống của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia khác.
Cũng sau khi BWS sụp đổ xảy ra cú sốc dầu đầu tiên. Các nước kém phát
triển (LDCs) không xuất khẩu dầu gặp nhiều khó khăn, một mặt do giá dầu
nhập khẩu tăng, mặt khác do kinh tế các nước công nghiệp bị suy thoái nên
xuất khẩu vào những quốc gia này có xu hướng giảm sút. Kết quả là LDCs là
nhóm quốc gia chịu thâm hụt cán cân vãng lai với khối lượng khổng lồ. Để
cân bằng cán cân thanh toán, các quốc gia tiến hành vay nợ nước ngoài và
khủng hoảng nợ đã xảy với các nước LDCs đặc biệt là các nước Châu Mỹ
Latinh. Khủng hoảng nợ dẫn đến khủng hoảng tài chính và đây chính là điều
kiện để ngoại tệ xâm nhập vào nền kinh tế trong nước thay thế nội tệ, thực
hiện các chức năng của tiền tệ.
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ những sự bất ổn tiền tệ trong các
quốc gia như khủng hoảng tài chính. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ năm 1997 xảy ra với các quốc gia Đông Nam Á. Thái Lan được

coi là quốc gia châm ngòi cho cuộc khủng hoảng này và dần dần cuộc khủng
hoảng đã lan ra hầu hết các nược trong khu vực. Trược khủng hoảng, NHTW
Thái Lan cố gắng duy trì một tỷ giá cố định của đồng baht so với USD.
Chính vì vậy trong một thời gian dài đồng baht được định giá quá cao so với
giá trị thực và đấy là cơ hội để các nhà đầu cơ nhảy vào cuộc, họ mua và găm
giữ ngoại tệ, chờ đến lúc đồng baht phá giá. Cũng trong thời gian này, thị
trường chứng khoán Thái Lan phát triển quá nóng song không ổn định, dòng
vốn gián tiếp ồ ạt chảy vào Thái Lan nhưng lại không được kiểm soát chặt
chẽ. Có thể nói nguyên nhân khủng hoảng ở Thái Lan là sự tấn công đầu cơ
và rút ra hàng loạt của các dòng vốn gián tiếp. Ngày 1/7/1997 Thái Lan
chính thức tuyên bố thả nổi đồng baht và chỉ sau một đêm, đồng baht đã bị
mất giá 20% so với đồng USD và mức vốn hóa của thị trường chứng khoán
đã sụt giảm mạnh mẽ. Giá cả hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trở nên đắt
đỏ từ đó làm tăng mức giá chung của nền kinh tế. Đồng baht bị mất giá so
với USD, lạm phát trong nước ở mức cao đã làm mất lòng tin của công
chúng khi nắm giữ đồng baht và tất yếu dẫn đến việc đồng tiền yếu đuổi
đồng tiền mạnh ra khoi lưu thông, họ sử dụng USD để cất trữ. Thời gian này,
nguồn vốn huy động của các NHTM Thái Lan bị đôla hóa nghiêm trọng.
Cũng có một số quốc gia sau khi đối mặt với khủng hoảng tài chính,
không thể hồi phục lại nền kinh tế và do đó giải pháp cuối cùng là từ bỏ nội
tệ, chấp nhận ngoại tệ là đồng tiền chính thức của quốc gia mình.
Nguyên nhân thứ ba, nền kinh tế phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao
hoặc siêu lamj phát trong khi lãi suất tiền gửi nội tệ không mấy hấp dẫn so
với lãi suất tiền gửi ngoại tệ, tất yếu công chúng tìm đến một sự thay thế đó
là việc nắm giữ và sử dụng rộng rãi ngoại tệ mạnh, ổn định trong cất trữ và
thanh toán.
Nguyên nhân thứ tư, mức độ đô la hóa ở mỗi nước khác nhau phụ
thuộc vào trình độ dân trí và tâm lý của người dân, trình độ phát triển của hệ
thống ngân hàng và cơ chế quản lý ngoại hối. Ở một số quốc gia, trình độ
của người dân về lĩnh vực tài chính tiền tệ còn hạn chế, họ có tâm lý ưu thích

SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
nắm giữ ngoại tệ trong tích trữ và thanh toán, ưu thích tiêu dùng hàng ngoại,
và chính tâm lý này đã tiếp tay cho sự xâm nhập quá sâu của ngoại tệ vào
nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, trình độ phát triển của hệ thống ngân
hàng trong nước càng thấp, cơ chế quản lý ngoại hối càng lỏng lẻo thì mức
độ đôla hóa nền kinh tế càng cao.
Nguyên nhân thứ năm, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết
các quốc gia đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế
hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực
tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi quốc gia, nên trong từng nước xuất
hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số
chức năng tiền tệ.
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Phần III: Tác động của Đôla hóa
Có rất nhiều quan điểm đánh giá xung quanh vấn đề tác động của đôla
hóa tới nền kinh tế. Có ý kiến cho rằng đôla hóa nền kinh tế chỉ mang lại
những tác động tiêu cực do đó phải đưa ra những giải pháp nhằm xóa bỏ triệt
để tình trạng trên. Tuy nhiên thực tế cho thấy, ý kiến trên chưa thực sự chính
xác vì bên cạnh những tác động của tiêu cực, đôla hóa mang lại những tác
động tích cực đặc biệt là đối với những quốc gia có nền đôla hóa chính thức.
III.1. Tác động tích cực:
Thứ nhất, đôla hóa nền kinh tế tạo một cái van giảm áp lực đối với
nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân bằng và các điều
kiện vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống
ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện
để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Đối với các quốc gia có chính
sách tiền tệ độc lập, khi ngân sách chính phủ bị thâm hụt, một trong những
giải pháp được đưa ra để tài trợ cho sự thâm hụt này là yêu cầu NHTW phát

hành thêm tiền. Và chính hành động phát hành thêm tiền của NHTW sẽ làm
gia tăng cung tiền trong nền kinh tế từ đó gây ra lạm phát. Ở các quốc gia
đôla hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng USD, họ sẽ duy trì được tỷ lệ
lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư
nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những quốc gia
này Chính phủ không thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để bù đắp thâm hụt
ngân sách (sẽ gây ra lạm phát), vì vậy ngân sách nhà nước sẽ không thể trông
chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về
tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ
mang tính tích cực hơn.
Thứ hai, Đôla hóa cũng là một trong những giải pháp giúp giảm áp
lực lạm phát cho nền kinh tế. Đôla hóa làm tăng cung ngoại tệ kéo theo sự
tăng giá nội tệ và giảm giá ngoại tệ. Khi đó giá cả hàng hóa nhập khẩu từ
nước ngòai trở nên rẻ hơn từ đó làm cho mặt bằng giá cả chung của hàng hóa
trong nước cũng trở nên rẻ hơn và lạm phát lúc này được đẩy lùi.
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Thứ ba, Đôla hóa cũng được cho là có tác dụng thúc đẩy phát triển
ngành Ngân hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh tế, phản ánh
dưới góc độ tỷ trọng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP (thuật ngữ
chuyên môn gọi là “độ sâu tài chính”) tăng lên khi có đôla hóa. Điều này có
được là do người gửi tiền thay vì chuyển tài sản của mình bằng ngoại tệ ra
nước ngoài trong bối cảnh rủi ro lạm phát cao nay được phép, và có thể yên
tâm, gửi tài sản (bằng ngoại tệ) của mình vào hệ thống ngân hàng trong nước
và hưởng lãi tính theo ngoại tệ mà không phải bận tâm đến lạm phát của bản
tệ. Nói cách khác, đôla hóa giúp cung cấp “dinh dưỡng” nuôi sống hệ thống
ngân hàng trong nước.
Thứ tư, tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội
nhập quốc tế. Với một khối lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân
hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua

đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát
của ngân hàng trung ương đối với luông ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng
sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập
của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ năm, hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những quốc gia đô la hoá chính
thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ
giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế
giảm được chi phí kinh doanh.
Thứ sáu, thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các quốc gia thực hiện đô la
hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát
mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền
kinh tế đô la hoá có thể được: chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài
thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống, thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
Thứ bảy, thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và
phi chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo
ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp
pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp).
III.2. Tác động tiêu cực:
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Ngoài sự đánh mất chủ quyền về tiền tệ, vị trí độc tôn của đồng bản tệ
bị giảm sút khi ngoại tế được sử dụng rộng rãi, lấn lướt đồng bản tệ thì đối
với những quốc gia có nền kinh tế bị đôla hóa, những tác động mà đôla hóa
mang lại là rất nghiêm trọng. Cũng chính vì lí do này mà ngày nay đôla hóa
chính thức hiếm xảy ra còn đối với đôla hóa không chính thức, Chính Phủ và
NHTW của các quốc gia luôn tìm cách để hạn chế và đẩy lùi tình trạng này.
Tác động tiêu cực đầu tiên mà đôla hóa mang lại đối với các quốc gia
có nền kinh tế đôla hóa chính thức là việc mất đi thu nhập từ thuế đúc tiền,
tên tiếng anh là Seigniorage (Se), đó chính là thu nhập từ việc phát hành tiền

tệ. Se ròng là chênh lệch giữa chi phí đúc tiền, chi phí đưa tiền vào trogn lưu
thông và giá trị của hàng hóa mà tiền mua được. Ví dụ 1$ tiền giấy mất
khoảng 3 cent để in ra và đưa vào lưu thông nhưng Chính phủ Mỹ có thể sử
dụng nó để mua 1$ giá trị hàng hóa, nếu giấy bạc đó được lưu thông vĩnh
viễn thì Se ròng là 97 cent. Khi người nước ngoài nắm giữ USD họ tạo ra Se
cho Chính phủ Mỹ. Như đã đề cập, người nước ngoài nắm giữ khoảng 55-
70% tổng giá trị đô la tiền giấy trong lưu thông. Điều đó ngụ ý rằng chúng
chiếm khoảng 15 tỷ USD mỗi năm cho Se từ phát hành USD. Cũng như Mỹ,
các nước khác kiếm được Se từ phát hành nội tệ, tuy nhiên dưới đôla hóa
chính thức, các quốc gia từ bỏ Se. Chính sự mất đi Se là một nhân tố giải
thích tại sao đôla hóa chính thức rất hiếm ngày nay.
Thứ hai, đối với những nền kinh tế không bị đôla hóa, NHTW có thể
thông qua cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm
đạt được một mức tỷ giá xác định, để tỷ giá tác động tích cực đến họat động
xuất nhập khẩu từ đó thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Còn
đối với các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có tỷ giá độc
lập, không có chính sách tiền tệ độc lập, khi đó mục tiều của các chính sách
tiền tệ sẽ bị giảm hiệu quả hoặc thậm chí các quốc gia này sẽ không thể chủ
động trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ví dụ chính
sách tỷ giá có thể được sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm đạt được
mục đích ổn đinh giá cả. Với các yếu tố khác không đổi, muốn kiềm chế lạm
phát gia tăng, NHTW có thể sử dụng chính sách nâng giá nội tệ (tức là làm
cho tỷ giá giảm), muốn kích thích lạm phát gia tăng, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và tạo công ăn việc làm NHTW có thể sử dụng chính sách phá giá nội
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
tệ (tức là tác động là tỷ giá tăng). Ngược lại, với các nước có nền kinh tế đôla
hóa chính thức họ không có quyền chủ động trogn việc điều hành chíhn sách
tiền tệ, chính sách tiền tệ của họ hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
của NHTW nước ngoài. Bên cạnh đó đôla hóa cũng sẽ cướp đi vai trò độc

tôn của NHTW: là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. ở những nền
kinh tế không bị đôla hóa, khi NHTM gặp khó khăn về thanh toán mà không
thể tìm được nguồn hỗ trợ nào khác, NHTW sẽ đóng vai trò là người cho vay
cuối cùng có nghĩa là sẽ cho NHTM vay để giải quyết vấn đề khó khăn về
thanh khoản, tránh dẫn đến sự sụp đổ của cả một hệ thống NH. Trong khi đó
những quốc giá có nền kinh tế đôla hóa chính thức, do chỉ tồn tại trên danh
nghĩa nên một khi đã sử dụng hết dự trữ tiền tệ, NHTW các nước này không
thể phát hành thêm tiền để đáp ứng tín dụng cho NHTM. Do đó khả năng sụp
đổ của hệ thống NHTM trong nước là hoàn toàn có thể xảy ra.
Chính sách tiền tệ của NHTW không phát huy được hiệu quả, bị mất
tính độc lập và chịu nhiều ảnh hưởng từ diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi
xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, cụ thể:
Đối với nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức, ngoại tệ được người
dân sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ do đó sẽ có một lượng lớn
ngoại tệ trôi nổi trên thị trường nằm ngoài kiểm soát của NHTW, gây khó
khăn cho NHTW trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán,
từ đó việc đưa ra các quyết định về tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu
thông sẽ kém chính xác và không kịp thời
Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá
có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong
nước không ổn định, do người dân co xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang
đô la Mỹ, làm chi cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng
tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh
tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không
ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang
ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát.
Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47

Đề án môn học
về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ
đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi
này sẽ gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền
gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ
xô đi rút ngoại tệ, trong khi cố ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc
biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá
cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
Sự dịch chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được giải thích
thông qua thuyết “ngang giá lãi suất”. Giả sử một nhà đầu tư có một lượng
ngoại tệ nhàn rỗi trong 3 tháng là Po và quyết định gửi tiết kiệm ngân hàng.
Có hai cách đầu tư: một là gửi ngoại tế (USD) tại NHTM, hai là đổi sang nội
tệ (VNĐ) và gửi vào NHTM. Khi quan sát bảng yết lãi suất của NHTM thấy
rằng cùng một thời hạn nhưng lãi suất của các đồng tiền khác nhau la rất
khác nhau. Các thông tin thị trường hiện hành như sau:
Mức lãi suất/năm kỳ hạn 3 tháng của VNĐ là Rvnd
Mức lãi suất/năm kỳ hạn 3 tháng của USD là Rusd
Tỷ giá giao ngay S (VNĐ/USD)=S
Tỷ giá kì hạn 3 tháng F (VND/USD)=F
Phương án 1: đầu tư vào ngoại tệ, sau 3 tháng số tiền thu được cả gốc
và lãi bằng ngoại tệ là: (1+Rusd/4)*Po. Để thu được số VNĐ chắc chắn sau 3
tháng, nhà đầu tư mua hợp đồng kỳ hạn 3 tháng. Số VNĐ thu được là:
F*(1+Rusd/4)*Po (1).
Phương án 2: đầu tư vào nội tệ. Nhà đầu tư mua VND theo tỷ giá giao
ngay. Số VND mua được sẽ là: S*Po. Sau 3 tháng số tiền thu được cả gốc và
lãi bằng VND là: S*(1+Rvnd/4)*Po (2).
Và cuối cùng nhà đầu tư sẽ đem so sánh hai phương án để chọn ra
phương án tối ưu.
Như vậy, tâm lý ưu chuộng nắm giữ ngoại tệ của người dân sẽ làm cho
cầu nội tệ trở nên không ổn định và rất nhạy cảm với sự biến động của lãi

suất trong và ngoài nước. Khi lãi suất có sự thay đổi theo hướng nắm giữ
ngoại tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang nội tệ đổi lấy ngoại tệ dẫn đến cầu
nội tệ giảm và ngược lại, khi nắm giữ nội tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
ngoại tệ đổi lấy nội tệ dẫn tới cầu nội tệ tăng. Điều này sẽ gây khó khăn cho
NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Ngoài ra đối với các NHTM có tiền gửi bằng đồng ngoại tệ cao, khi có
biến động, người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi đó số ngoại tệ đó đã
được ngân hàng đem cho vay và HNTW cũng không thể hỗ trợ được do dự
trữ ngoại hối còn mỏng từ đó có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống
NHTM trong nước.
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Phần IV: Các biện pháp hạn chế đôla hóa
Đối với những nền kinh tế mà đồng nội tệ quá suy yếu, không thể
mang lại niềm tin cho công chúng trong việc nắm giữ và sử dụng thì hiện
tượng đôla hóa xảy ra là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong thời đại
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Qua phân tích tác động của đôla hóa
tới nền kinh tế, có thể nói những tác động tiêu cực mà đôla hóa mang lại là
đáng kể do đó trên thực tế hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa đều
cố gắng hạn chế tình trạng trên bằng cách đưa ra các biện pháp, các chương
trình nhằm kiểm soát, giảm dấn tiến tới xóa bỏ sự sử dụng rộng rãi ngoại tệ
của dân chúng trong việc thực hiện các chức năng tiền tệ. Có hai nhóm biện
pháp chính nhằm hạn chế đôla hóa: biện pháp hành chính và biện pháp kinh
tế, các quốc gia có thể áp dụng một hoặc kết hợp cả hai tùy thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng nước.
IV.1. Các biện pháp hành chính:
Đây là những biện pháp mang tính chất bắt buộc, điều chỉnh trực tiếp
hành vi của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế bằng cách áp dụng các văn

bản quy phạm pháp luật do Quốc Hội, Chính phủ, NHTW ban hành. Trong
trường hợp vi phạm, các đối tượng sẽ bị xử phạt theo đúng quy định của
pháp luật. Các biện pháp này thông thường áp dụng với những quốc gia có
nền kinh tế đôla hóa chính thức hoặc các quốc gia có tình trạng đôla hóa ở
mức độ cao.
Văn bản quy phạm pháp luật này thường đề cập đến những vấn đề
như: nghiêm cấm mọi hành vi niêm yết, quảng cáo, thông báo, thanh toán giá
cả hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ, xóa bỏ hoạt động huy động và cho vay
bằng ngoại tệ của các NHTM; quy định cụ thể điều kiện đối với những cá
nhân tổ chức khi mua ngoại tệ từ các NHTM; quy định tỷ lệ kết hối đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu…Các biện pháp này là không thể thiếu trong
trường hợp các biện pháp kinh tế không có đủ điều kiện để thực hiện được
hoặc thực hiện không có hiệu quả. Trên thực tế, ở các quốc gia đôla hóa, biện
pháp hành chính cũng đã phát huy tác dụng tích cực trong những thời kỳ nhất
định, góp phần giảm đáng kể việc sử dụng rộng rãi ngoại tệ trong giao dịch;
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
tuy nhiên nó chỉ nên là những biện pháp tạm thời vì nó đi ngược lại với xu
hướng tự do hóa, hội nhập và phát triển nền kinh tế quốc tế như hiên nay.
IV.2. Các biện pháp kinh tế:
Nếu như biện pháp hành chính mang tính chất bắt buộc và điều chỉnh
trực tiếp hành vi của các tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng ngoại tệ thì biện
pháp kinh tế điều chỉnh gián tiếp hành vi của các đối tượng trên thông qua
các công cụ, chính sách kinh tế như chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất, các
biện pháp nhằm phát triển thị trường tài chính, thị trường ngoại hối, hệ thống
NHTM…
Chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá là hai bộ phận quan trọng của
chính sách tiền tệ quốc gia. NHTW mỗi nước đều có chức năng hoạch định
và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia hướng tới mục tiêu ổn định giá trị của
đồng bản tệ và tăng trưởng kinh tế. Có thể nói ổn định giá trị đồng bản tệ,

mang lại niềm tin cho người dân chính là yếu tố quan trọng và là giải pháp
hữu hiệu nhất để hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình trạng đôla hóa. Để đạt được
mục tiêu trên đòi hỏi mỗi NHTW mỗi nước phải sử dụng một cách có hiệu
quả các công cụ của chính sách tiền tệ: công cụ nghiệp vụ thị trường mở, lãi
suất tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc. Ngoài ra sự kết hợp nhịp nhàng, đồng
bộ giữa chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất cũng góp phần tăng hiệu quả
của NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
KÕt luËn
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
Với sự mở cửa giao lưu của các khu vực tài chính trong những năm
tới, sự hội nhập của các nền kinh tế trên thế giới, việc kiềm chế và đẩy lùi
tình trạng đôla hóa ra khỏi nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ tiếp tục gặp rất
nhiều khó khăn. Muốn làm được điều đó đòi hỏi phải có thời gian và quyết
tâm cao. Điều quan trọng là những tác động tích cực mang lại lợi ích cho nền
kinh tế của mỗi quốc gia không bị xóa bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị
trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong
chính sách tiền tệ tích cực của mỗi quốc gia trong giai đoạn tới, còn những
tác động tiêu cực mà đôla hóa mang lại cho nền kinh tế cần được giảm thiểu,
đẩy lùi đi đến xóa bỏ hoàn toàn.
Để giải quyết được vấn đề này, không thể vội vàng thực hiện được
trong một thời gian ngắn mà đòi hỏi mỗi quốc gia cần có cả một quá trình
với những bước đi đứng đắn nhằm mục tiều trước hết là xây dựng được nền
kinh tế phát triển ổn định và bền vững, tự chủ tài chính để có sức đề kháng
với những căn bệnh của nền kinh tế,các cú sốc kinh tế bên ngoài tác động
vào nền kinh tế mỗi quốc gia. Tuy không vội vàng nhưng cũng cần thực hiện
mục tiêu một cách khẩn trương và chính xác nếu không nền kinh tế sẽ có thể
bị đôla hóa hoàn toàn, dẫn đến mất khả năng tự bảo vệ trước những biến cố
kinh tế, khủng hoảng kinh tế trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
• Quyết định 98/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án nâng cao tính
chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá
trong nền kinh tế.
• Http://www.imf.org
• Http://www.mof.gov.vn
• Http://www.moi.gov.vn
• Http://www/vneconomy.com.vn
• Http://www.vnexpress.net
• Http://www.vietnamnet.vn

SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47
Đề án môn học
MỤC LỤC
SV: Trần Hoàng Vũ Lớp: TCF - K47

×