Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Đề án Sử dụng các biện pháp marketing xã hội nhằm ngăn ngừa bệnh trầm cảm trong giới trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.14 KB, 33 trang )

ĐỀ TÀI:
Xây dựng chương trình phòng ngừa căn bệnh trầm cảm trong
giới trẻ hiện nay
Nhóm 5:
Trần Thị Ngọc Hà
Đinh Thị Thu Hằng
Huỳnh Thị Huyền
Thạch Thị Luyến
Nguyễn Thị Mai
Nguyễn Phan Quang
Nguyễn Sơn Tùng
Nội dung công việc
STT Họ tên Công việc
1 Trần Thị Ngọc Hà - Những phần còn lại
2 Đinh Thị Thu Hằng - 1.1.2 Những áp lực mà thế hệ trẻ đang gặp phải
- 1.2.1 Trầm cảm là gì?
- 1.3.2 Cuộc sống của những người trẻ bị trầm cảm
3 Huỳnh Thị Huyền Thu thập tài liệu
4 Thạch Thị Luyến Thu thập tài liệu
5 Nguyễn Thị Mai Thu thập tài liệu
6 Nguyễn Phan Quang Thu thập tài liệu
7 Nguyễn Sơn Tùng Thu thập tài liệu
1
LỜI NÓI ĐẦU
Với cuộc sống diễn ra với tốc độ nhanh chóng, mọi thứ luôn biến đổi không
ngừng, con người ngày càng chịu nhiều áp lực hơn. Những nhu cầu về việc khẳng địn
mình, nhu cầu giải trí, sự cạnh tranh đã kéo con người vào một guồng quay khổng lồ và
đến một lúc nào đó, họ không chịu đựng nổi và bị rơi vào sự bế tắc. Đó là những gì đang
diễn ra với người được coi là có sức bền bỉ, sức chịu đựng giỏi – những người trẻ tuổi.
Không ít trong số họ đang rơi vào căn bệnh được coi là bệnh của xã hội hiện đại – trầm
cảm. Trầm cảm đã lấy đi rất nhiều từ những người trước đây được xem là giỏi giang, đa


tài: công việc giảm sút, tinh thần suy sụp, thể chất cạn kiệt, thậm chí lấy đi cả mạng sống
của họ. Với những tác hại mà bệnh trầm cảm gây ra, xã hội, cộng đồng cần có những
hành động tích cực để đẩy lùi căn bệnh này.
Với phương châm ‘phòng bệnh hơn chữa bệnh”, cần chú trọng vào những người
có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm cao trong xã hội nhằm ngăn ngừa họ rơi vào trạng thái
nghiêm trọng. Với lý do đó, nhóm xin đưa ra đề tài: “Sử dụng các biện pháp marketing
xã hội nhằm ngăn ngừa bệnh trầm cảm trong giới trẻ”
2
1. Thực trạng về bệnh trầm cảm trong giới trẻ
1.1 Đời sống của giới trẻ
1.1.1 Giới trẻ - Lối sống – Suy nghĩ – Hành động
Thế hệ trẻ là một thế hệ chuyển tiếp giữa thế hệ đi trước và thế hệ tương lai. Với
sự chuyển mình của đất nước trong thời kì mở cửa, kéo theo đó là sự phát triển của công
nghệ, của các hình thức giải trí,…thế hệ trẻ Việt Nam đã có những thay đổi to lớn về
quan niệm, suy nghĩ và văn hóa. Những 8X, 9X đang bùng nổ với những cú xoay chuyển
về bản chất sống, thái độ sống mạnh mẽ, có phong cách. Họ có cái nhìn thoáng hơn về
văn hóa, về cuộc sống. Họ dễ chấp nhận và hưởng ứng những trào lưu mới. Thế hệ trẻ
thích làm, thích sự mới lạ và cũng thích được chiều chuộng. Họ luôn có nhu cầu muốn
được khẳng định, muốn tạo được cá tính riêng cho mình, muốn mọi người biết họ là ai.
Vì thế giới trẻ hiện nay đang có xu hướng tự PR cho bản thân. Đó là việc thể hiện cho
mọi người biết mình là người thế nào, tự tin trước đám đông, trước cộng đồng và tự
khẳng định mình đang tồn tại, tạo dựng hình ảnh cho bản thân như một tiêu điểm sống.
PR bản thân nên đi đôi với việc bạn dám sống thật với mình, dám nghĩ dám làm, dám
đứng lên bộc lộ bản thân, trở thành tâm điểm của mọi cái nhìn.
Họ luôn hành động một cách quyết đoán, luôn thích sự thử thách. Họ được gia
đình, xã hội kì vọng và đặt lên vai những trách nhiệm lớn lao nên họ luôn phải chịu
những áp lực lớn về công việc, cuộc sống
Họ mang một phong cách riêng biệt trong ăn mặc và ứng xử. Bởi vậy 8X thường
có lối ăn mặc và cư xử màu mè, rộn ràng để thu hút sự chú ý của mọi người. Internet,
email, blog và những trào lưu văn hóa mới như: Unisex, Harajuku, Tomboy… cùng với

sự tối tân của điện thoại di động là công cụ giúp 8X được tiếp cận nhiều thông tin hơn
hẳn cha mẹ cho dù chưa chắc những thông tin đó đã được ghi nhớ sâu sắc trong suy nghĩ.
Những cái tên như “thế hệ thực dụng”, “thế hệ sành điệu”, “thế hệ mới” nhan
nhản chỉ điểm cho những người trẻ. Rất nhiều mặt trái đằng sau sự năng động hiện đại
3
của những người 8X như: thực dụng, vô trách nhiệm, quen tận hưởng, ích kỷ, thùng rỗng
kêu to cái tôi riêng lẻ bắt đầu hình thành. Ngoài ra, thế hệ trẻ tạo nên một sự mất quân
bình trong con người giữa tinh thần và thể xác, nên họ thường mang bệnh trạng về tâm lý
và tâm thần mà tự mình không biết, có những người luôn bị trầm cảm "stress" vì làm việc
quá độ, có khi chán nản cả ngay cuộc sống hiện thời.
Với những một số điểm về lối sống của người trẻ hiện giờ, có thể thấy họ đã thay
đổi rất nhiều. Cùng với những thay đổi tích cực trong cách nghĩ, cách làm thì thế hệ trẻ
cũng phái chịu không ít những thử thách, những áp lực mà thế giới hiện đại đã buộc họ
phải lao vào và chấp nhận.
1.1.2 Những áp lực mà thế hệ trẻ đang gặp phải
• Những áp lực từ phía gia đình:
* Cảm giác cô đơn lâu ngày khi sống giữa gia đình: Cuộc sống hối hả, mưu cầu
vật chất ngày càng cao, bố mẹ quá bận bịu với công việc, thường xuyên công tác xa nhà,
thiếu quan tâm đến con cái dần dần đã hình thành trong tâm trí trẻ cảm giác thiếu hụt,
buồn chán, cô độc, lẻ loi. Họ cảm thấy mình không còn được yêu thương như trước đây,
không còn được bố mẹ chỉ bảo, ân cần hỏi thăm hay động viên học tập nữa. Vật chất đầy
đủ nhưng cuộc sống tinh thần không được đảm bảo, thiếu những vòng tay nâng niu, vỗ về
của cha mẹ, thiếu những lời nói quan tâm sâu sắc, thậm chí thiếu cả những dạy bảo tận
tình, liệu rằng trẻ có phát triển được bình thường cả về tâm hồn lẫn thể xác không???
Tình trạng này kéo dài dẫn đến trạng thái chán nản, hụt hẫng. Một số bạn trẻ khác lại
thường xuyên so sánh cuộc sống của gia đình mình với bạn bè, rồi thầm ghen tỵ, có lúc
lại thấy căm giận cả chính cha mẹ mình. Suy nghĩ tiêu cực về gia đình, bố mẹ, một số
bạn trẻ bỏ bê công việc học hành, lao vào những cuộc vui chơi vô độ hay sống xa lánh,
tách biệt thế giới bên ngoài, vùi mình vào thế giới ảo. Vô hình thay, chính họ đang ngày
càng làm tổn thương bản thân mình, họ không dám chấp nhận sự thật và không đủ mạnh

mẽ tìm cách giải quyết, chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, phù hợp.
4
* Không khí gia đình quá căng thẳng, ngột ngạt: Thường xuyên chứng kiến cảnh
bố mẹ to tiếng, đánh chửi nhau, rồi gia đình tan vỡ, bố mẹ li dị khiến nhiều bạn trẻ không
tìm được hơi ấm từ phía gia đình. Hết chiến tranh nóng rồi chiến tranh lạnh, thậm chí, có
gia đình, bố mẹ còn quay sang nói xấu nhau với con cái. Trước những tình trạng đó,
không phải bạn trẻ nào cũng có thể vượt qua được, có thể chia sẻ với bạn bè, người thân,
có thể tập trung học tập, làm việc được. Phần lớn các bạn trẻ rơi vào trạng thái u uất một
thời gian dài, không biết tìm niềm vui ở đâu, không biết phải giải quyết vấn đề ra sao. Có
những bạn trẻ còn bị ảnh hưởng bởi chính nạn bạo lực gia đình này, suy nghĩ, hành động
cục cằn, thô lỗ, thường xuyên thích khiêu khích đánh nhau, rồi lấy rượu chè làm trò vui,
giải khuây, hành động ngông cuồng, thiếu suy nghĩ. Một số khác, lại sống thu mình trước
thế giới bên ngoài, ích kỷ với chính bản thân mình bằng cách tự nghĩ, tự hành động,
không chịu tâm sự với bất kỳ ai, sống một cuộc sống khép kín, vô nghĩa khi không được
bao bọc đầy đủ tình thương từ phía cha và mẹ.
* Chịu nhiều áp lực từ những kỳ vọng của bố mẹ về chuyện học hành, việc làm,
các mối quan hệ xã hội: Đã qua rồi cái thời cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, giới trẻ ngày
nay độc lập trong cách suy nghĩ và hành động. Họ có thể học những gì mình thích, tự
chọn cho mình một hành trang riêng để bước vào đời. Song, dù đất nước có phát triển đến
đâu, hình thái gia đình có thay đổi như thế nào thì những nếp nghĩ, những truyền thống
gia đình vẫn khó thay đổi được. Bố mẹ luôn luôn kỳ vọng rất nhiều vào con cái, do đó
khó tránh khỏi những áp đặt, những mục tiêu mà họ đặt ra cho con cái mình. Không nghe
theo ý kiến của người lớn thì bị coi là bất hiếu, là đứa con hư hỏng, không dạy dỗ được.
Để chứng tỏ mình là một đứa con hiếu thảo, chẳng ai có thể làm ngơ trước những kỳ
vọng này được. Vì vậy, con đường duy nhất mà một bộ phận rất đông các bạn trẻ chọn là
nỗ lực phấn đấu, nỗ lực cố gắng, trước hết là cho bản thân mình, sau là cho gia đình,
dòng họ được mở mày mở mặt. Thế nhưng, đâu phải nỗ lực nào cũng được đền bù xứng
đáng, thất bại – suy sụp – bị chỉ trích – thấy mình vô dụng tất cả những yếu tố đó đều
có thể trở thành nguyên nhân khiến giới trẻ sa ngã, trầm uất.
5

• Những áp lực từ phía xã hội:
* Yếu tố thế hệ: Thế hệ 8X, 9X được sinh ra khi đất nước đang chuyển mình, khi
nền văn hóa phương Tây cùng cuộc sống đa dạng của thế giới mở ùa vào, họ là những
người đón nhận và chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Giữa một bên là cái cũ, cổ xưa, một
bên là cuộc sống mới, hiện đại, hối hả nhưng đầy tính lạnh lùng và cạnh tranh đã khiến
giới trẻ khó điều chỉnh và dung hòa được. Họ luôn băn khoăn, trăn trở với câu hỏi: Làm
thế nào để bắt kịp nhịp sống đương đại mà vẫn giữ được cốt lõi, giá trị văn hóa? Sống
đâu chỉ còn là cho mình nữa, họ gánh vác cả sứ mệnh gia đình, xã hội trên đôi vai quá
nhỏ bé. Gồng mình lên để gánh vác, gồng mình lên để chạy đua nước rút, để không bị coi
là lạc hậu với bạn bè cùng trang lứa và với bạn bè quốc tế, nhiệm vụ của họ thật lớn lao.
Vậy tránh sao khỏi những lúc họ cảm thấy mỏi mệt, muốn buông xuôi tất cả, muốn mình
được trống rỗng? Có những người nhanh chóng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng,
tìm lại cách cân bằng cho bản thân, nhưng cũng có những bạn lại thấy bế tắc, dẫn đến
những suy nghĩ lệch lạc, dại dột, tiêu cực, làm hỏng cả cuộc đời hãy còn tươi trẻ và căng
tràn sức sống
* Xã hội ngày càng phát triển kéo theo vô vàn những áp lực từ phía công việc và
các mối quan hệ xã hội. Những thách thức trong công việc, những mục tiêu cá nhân quá
cao, khiến họ chỉ biết dồn toàn bộ thời gian vào công việc mà quên đi là mình cần phải
nghỉ ngơi, phải thư giãn, phải tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Hậu quả tất yếu của
việc này là họ trở nên khô cứng, lạnh lùng, chai sạn với mọi cảm xúc, tính tình khó chịu,
hay cáu gắt, tình trạng mất ngủ triền miên xảy ra, sức khỏe giảm sút rõ rệt, tinh thần mệt
mỏi, và cuối cùng rơi vào trạng thái stress nghiêm trọng. Bên cạnh đó, những rắc rối
trong các mối quan hệ xã hội cũng là một nguyên nhân khiến người trẻ thường xuyên
phải lo lắng, suy nghĩ. Gia đình, bạn mới, bạn cũ, mối quan hệ với đồng nghiệp, với sếp,
rồi những mối quan hệ cá nhân khác, rồi dư luận làm sao để giải quyết ổn thỏa, làm vừa
lòng mọi người, đó cũng đâu phải là chuyện đơn giản? 1 xích mích nhỏ, hay 1 sự hiểu
lầm cũng đủ làm họ vỡ òa, đau đầu, stress
6
* Cùng với sự phát triển quá gấp gáp của xã hội là sự ra đời của những trò giải trí
công nghệ cao thu hút sự quan tâm của đông đảo bạn trẻ. Họ có thể ngồi hàng giờ trước

máy vi tính, đắm chìm trong cuộc sống của cư dân mạng, thỏa sức lướt web, chơi game
Tác hại của việc này là việc có không ít giới trẻ ngày nay lười vận động, lười suy nghĩ,
ngại tiếp xúc, giao lưu với thế giới bên ngoài, với xã hội đồng thời xuất hiện trạng thái
thường xuyên mệt mỏi, đau nhức khắp người, sức khỏe suy giảm. Trước cuộc sống đó,
nhiều bạn trẻ khi gặp vấp váp trong đời thực, dù là rất nhỏ, không biết xử lý ra sao, lại
ngày càng sống thu mình, khép kín hơn trước, có khi vùi đầu ngủ cả ngày, rồi sau đó sợ
luôn cả âm thanh ồn ào, sợ cả tiếng cười đùa
• Những áp lực từ chính bản thân của người trẻ:
* Giới trẻ hiện nay có cái tôi quá lớn, họ có cá tính và cuộc sống nội tâm phong
phú, đặc biệt một số có những tư tưởng nổi loạn, những suy nghĩ nông nổi khi không
dung hòa được cuộc sống, khi không dám chấp nhận, đối mặt với những hiện thực không
mấy hay ho về gia đình, bản thân, không dám đối mặt với những thất bại trong học hành,
sự nghiệp, các mối quan hệ xã hội. Họ không tìm ra được lối thoát để cuối cùng mãi luẩn
quẩn trong vòng xoáy của cuộc sống.
* Họ sớm có những suy nghĩ và những trải nghiệm tiêu cực ăn sâu vào tận trái
tim. Họ luôn tự nghĩ rằng mọi lỗi lầm là do mình gây ra, mình phải có trách nhiệm tự
giải quyết những lỗi lầm ấy mà không chia sẻ cùng ai, không cho ai giải quyết cùng. Lâu
dần trong họ luôn thấy nặng nề, cảm xúc trong lòng bị dồn nén, lúc nào cũng thấy bản
thân mình không làm được việc gì, luôn làm ảnh hưởng đến người khác , từ đó họ sinh
ra tính không thích ai giúp đỡ mình, không thích bộc lộ con người thật vì sợ làm mất lòng
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Chính suy nghĩ tiêu cực đó khiến họ luôn trong trạng thái
u uất, chán nản, không hài lòng về mình.
* Một bộ phận giới trẻ hiện nay không xác định được mục tiêu cho cuộc sống,
không có ước mơ, mất phương hướng và rơi vào trạng thái “chán”, buông xuôi. Một bộ
7
phận khác lại tự gây áp lực với chính mình, tự đặt cho mình những mục tiêu quá cao, tự
cô lập mình trong 1 cuộc sống không có sẻ chia.
• Những yếu tố khác:
* Thất bại trong tình trường khiến họ mất niềm tin, lâm vào con đường chán
chường, buồn bã, tuyệt vọng, không lối thoát, chỉ biết tối ngày làm bạn với rượu chè, với

những cuộc chơi không có điểm dừng, thậm chí một số bạn còn tìm đến cái chết như một
sự minh chứng cho tình cảm của mình, làm cho người kia phải ân hận cả đời.
* Có những bạn trẻ vì phải chịu những cú sốc quá lớn, những tổn thương về tinh
thần không thể chịu đựng được nên luôn sống trong sự sự hãi, u uất, căng thẳng. Đó là
những trường hợp do bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng bức. Nỗi đau của họ dai dẳng, họ
coi đấy như là nỗi nhục nhã, ô uế lớn nhất của đời mình. Nó ám ảnh, hành hạ họ về tinh
thần thật khủng khiếp. Họ từ chối tiếp xúc với những người lạ mặt, hoảng loạn, khép
mình vào một thế giới riêng đầy nước mắt, cay đắng, tủi nhục
Từ những áp lực đó đã dẫn đến những hệ lụy thật đáng tiếc. Đó là những cơn
stress triền miên, những căng thẳng, mệt mỏi kéo dài và cuối cùng họ bị rơi vào trạng thái
trầm cảm.
1.2 Những vấn để liên quan đến căn bệnh trầm cảm
1.2.1 Trầm cảm là gì?
Xã hội đang phát triển không ngừng, sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt, cuộc
sống cũng vì thế mà có nhiều thử thách hơn và phát sinh nhiều điều không vừa ý, do đó,
mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy áp lực ngày càng tăng. Từ đó dẫn đến những tâm
trạng bất ổn, tinh thần giảm sút, không thể tập trung chú ý, trí nhớ kém, hay căng thẳng,
sợ hãi,…Đó là những dấu hiệu của chứng trầm cảm.
Hội chứng trầm cảm là loại rối loạn khí sắc thường gặp trong tâm thần học. Đó là
một bệnh lí của não bộ chứ hoàn toàn không phải là một vấn đề tư tưởng, một cảm giác
buồn bã hay chán nản, thất vọng thông thường thoáng chốc mà ai cũng có thể trải qua
8
trong cuộc sống. Trầm cảm là một bệnh lí nghiêm trọng, ảnh hưởng đến suy nghĩ, cảm
xúc, thái độ cư xử và sức khỏe bệnh nhân; chứ không phải là một sự yếu đuối. Nó có thể
xảy ra với bất kì ai, ở bất kì độ tuổi nào; ở mỗi đối tượng khác nhau có những biểu hiện
khác nhau. Hình thức biểu hiện của nó làm thay đổi các phương diện tình cảm, tư duy và
hành vi. Khi bị chứng trầm cảm, tất cả những hội chứng này sẽ kéo dài trong thời gian
bệnh vài tuần, vài tháng, gây trở ngại nghiêm trọng đến công việc, học tập và cuộc sống
của bệnh nhân.
1.2.2 Nguyên nhân gây ra bệnh trầm cảm

Hiện nay người ta vẫn chưa hiểu rõ được nguyên nhân chính xác gây ra đa số các
chứng rối loạn tâm thần. Thông thường, các chứng rối loạn tâm thần phát sinh từ các yếu
tố di truyền kết hợp với các yếu tố sinh học khác, và các yếu tố nuôi dưỡng cũng như các
yếu tố môi trường khác. Sự ảnh hưởng giữa sinh học và môi trường là rất phức tạp. Bộ
não ảnh hưởng tới hành vi, và kinh nghiệm ảnh hưởng tới sự phát triển của bộ não.
Bệnh trầm cảm di truyền trong gia đình, qua đó cho thấy khả năng dễ mắc bệnh
về mặt sinh học có thể là do di truyền. Trầm cảm cũng có thể bị gây ra khi lượng
neurotransmitters thấp hơn bình thường (đây là hóa chất điều tiết các dấu hiệu thông qua
hệ thống thần kinh) trong não, nó sẽ hạn chế khả năng cảm giác của con người.
Tiêu tan lý tưởng hay hy vọng: mỗi người đều có hy vọng và lý tưởng, cho dù có
nhận thức được rõ ràng hay không. Nếu chỗ dựa vững chắc về tâm lý sụp đổ thì rất dễ
sinh ra phản ứng trầm cảm
Các sự kiện của cuộc sống làm giảm đi tính tự tôn: tâm lý tự tôn là chức năng
phòng vệ tâm lý đầu tiên của con người. Tự tôn là một cơ chế bảo vệ tâm lý cái “tôi” tôn
nghiêm của con người. Trong cuộc sống, có rất nhiều sự việc có quan hệ mật thiết đến
tâm lý tự tôn và giá trị cái tôi của con người. Sự thất bại của sự nghiệp, thăng chức hay
thất bại, phạm lỗi hay bị xử phạt, bị phê bình, kiểm tra, sự hiểu lầm đều có thể hạ thấp
tâm lý tự tôn và khả năng phòng vệ tâm lý cái tôi của con nguời.
9
Các yếu tố khác, có thể là tâm trạng căng thẳng ở nhà, trường học hoặc sở làm, và
các biến cố căng thẳng trong cuộc sống như chấn thương, mất mát, ly dị, chuyển tới nơi ở
mới hay thậm chí chia tay với bạn trai (bạn gái) hoặc bệnh mãn tính cũng là các yếu tố
chính gây trầm cảm.
1.2.3 Những biểu hiện của bệnh trầm cảm
Trầm cảm là một trạng thái rối loạn cảm xúc, giảm khí sắc với các triệu chứng
điển hình sau:
- Mất ngủ: Là triệu chứng hay gặp nhất. Bệnh nhân có thể mất ngủ đầu giấc (khó
vào giấc ngủ), giữa giấc (đang ngủ tỉnh dậy, sau đó rất khó ngủ lại) và cuối giấc (thức
giấc sớm, không ngủ lại được).
Nếu bệnh nhân thức giấc sớm hơn thường lệ trên hai giờ thì coi là mất ngủ. Chẳng hạn

bình thường bệnh nhân thức dậy lúc 5 giờ sáng, bây giờ bệnh nhân thức giấc lúc 2 giờ
sáng mà không sao ngủ lại được. Nếu nặng sẽ gây ra mất ngủ toàn bộ.
- Mệt mỏi: Bệnh nhân thường cảm thấy rất mệt mỏi, uể oải, đặc biệt là về buổi
sáng. Buổi chiều cảm giác mệt mỏi có giảm đi nhưng vẫn còn rất rõ rệt. Chính mệt mỏi là
nguyên nhân gây giảm sút khả năng học tập ở bệnh nhân.
- Chán ăn: Ăn mất ngon, vì vậy bệnh nhân ăn ít, từ đó dẫn đến gầy sút, bệnh nhân
không muốn ăn, không có cảm giác thèm ăn. Thông thường bệnh nhân có thể sút một vài
kg mỗi tháng, có những bệnh nhân khi đến khám bác sĩ tâm thần thì đã sút hơn 10 kg.
- Mất mọi quan tâm, thích thú trong sinh hoạt, công việc hoặc giải trí: Các sở
thích trước đây của bệnh nhân đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chẳng hạn trước đây
bệnh nhân thích bóng đá thì giờ chẳng quan tâm đến bóng đá nữa.
- Ngại giao tiếp với người khác, trở nên ít nói bất thường, lười vận động
- Bi quan lo lắng về tương lai cho bản thân và gia đình, sợ điều xấu xảy ra cho
bản thân và gia đình
10
- Nghĩ rằng mình không xứng đáng với bản thân và xung quanh. Cho rằng mình
phạm nhiều khuyết điểm, tội lỗi, không muốn tiếp xúc với ai
- Nghĩ rằng mình không xứng đáng được ăn, không xứng đáng được sống, cho
rằng mình là gánh nặng cho mọi người
- Có tâm trạng tức giận, cáu gắt, thù hận hoặc các hành vi nguy hiểm nghiêm
trọng hơn. Bật khóc, la hét, kêu la hoặc cáu giận mà không rõ nguyên nhân
- Cảm giác buồn rầu, hoặc bực bội, khó chịu: Nét mặt bệnh nhân luôn rầu rĩ. Bệnh
nhân luôn có cảm giác buồn bã với tất cả mọi việc mà không có cách nào làm bệnh nhân
vui lên được. Bệnh nhân luôn cáu gắt với mọi người vì những lý do không đâu.
- Ý nghĩ chán nản, buông xuôi: Bệnh nhân chán mọi thứ, cho mình là vô dụng, vì
vậy muốn buông xuôi mọi việc. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập của
bệnh nhân. Nhiều gia đình than phiền rằng bệnh nhân chán nản, muốn bỏ học không lý
do, mặc dù trước đó bệnh nhân là một sinh viên rất chăm chỉ, học giỏi.
- Khó khăn khi tập trung vào một việc gì đó: như đọc sách, nghe giảng, xem ti-
vi Bệnh nhân không thể tập trung chú ý vào một việc cụ thể, do đó không thể ghi nhớ

được, có bệnh nhân nói rằng đang đọc một đoạn sách mà không sao tập trung chú ý được.
Do đó không thể nhớ được mình vừa đọc cái gì. Vì vậy kết quả học tập giảm sút rõ rệt, có
những bệnh nhân thi trượt tất cả các môn mặc dù học kỳ trước còn là học sinh giỏi.
- Cảm giác bứt rứt, buồn nôn, lo lắng vô cớ: Bệnh nhân khó có thể ngồi yên một
chỗ được một lúc. Họ luôn trong tâm trạng lo lắng vô cớ với những lý do không đâu.
- Thường xuyên có các rối loạn: như đau đầu, đau bụng, đau ngực, đánh trống
ngực, đau cơ, ra nhiều mồ hôi, táo bón, sợ lạnh…
- Bệnh nhân từng có ý định muốn chết hoặc có hành vi tự sát: Chính do các triệu
chứng kể trên, bệnh nhân bi quan, chán nản, muốn chết đi cho nhẹ gánh. Khi bệnh nhân
có ý nghĩ tiêu cực thì việc tự sát hay không quyết định bởi năng lực tự khống chế của
bệnh nhân, mức độ nghiêm trọng của bệnh tình, sự chăm sóc của người thân xung quanh
11
và bệnh nhân có nhận được điều trị hay không. Chúng ta không được coi thường triệu
chứng này vì bệnh nhân có thể chết do tự tử.
Các triệu chứng trầm cảm ở nơi làm việc:
- Giảm năng suất (không hoàn thành đúng hạn, làm chậm hơn bình thường, hay
xin lỗi vì không hoàn thành công việc, giảm sút khả năng ra quyết định đúng ).
- Xuống tinh thần (không thích thú, mất động cơ làm việc ).
- Giảm khả năng giao tiếp, hợp tác (tự tách mình khỏi đồng nghiệp, không tham
gia hội, họp ).
- Tai nạn lao động (thường do giảm khả năng tập trung chú ý).
- Thường than vãn lúc nào cũng mệt.
- Đau nhức nhiều chỗ mà không có nguyên nhân rõ ràng (đau đầu, đau lưng, đau
vai, rối loạn tiêu hóa ).
- Lạm dụng rượu hay ma túy.
Với những biểu hiện đó, trầm cảm đã gây ra những tác hại lớn về mặt thể chất và
cuộc sống của người bệnh. Nó không chi gây tổn hại cho người bệnh mà còn liên quan
đến cả xã hội
1.3 Thực trạng của bệnh trầm cảm trong xã hội hiện nay
1.3.1 Một vài con số liên quan

- Theo Tổ chức Y tế Thế giới, toàn cầu hiện có khoảng 100 triệu người bị trầm cảm, 7%
những người đi làm đã phải đối mặt với chứng trầm cảm trong năm qua (năm 2006)
- Trong 100 người thì có 4 – 5 người mắc bệnh trầm cảm
- Thanh niên và người già là hai nhóm người mắc bệnh cao nhất
- Tỷ lệ tự sát của người bệnh trầm cảm cao gấp 30 lần so với người bình thường
12
- Trầm cảm là nguyên nhân của hơn 50% những trường hợp tự sát
- Có 65 – 80% người mắc bệnh trầm cảm xuất hiện ý nghĩ tự sát; 45 – 50% người bệnh
xuất hiện hành vi tự sát; 15% chết vì tự sát thành công
- Ý đồ tự sát nhiều hơn gấp 10-12 lần so với hành vi tự sát.
- Bệnh trầm cảm cướp đi mỗi năm trung bình 850.000 mạng người, đến năm 2020 trầm
cảm là căn bệnh xếp hạng 2 trong số những căng bệnh phổ biến toàn cầu với 121 triệu
người mắc bệnh nhưng chỉ khoảng 25% trong số đó được điều trị kịp thời và đúng
phương pháp
- Ở những bệnh nhân từ 55 tuổi trở lên, tỷ lệ tử vong trong vòng 15 tháng sau khi mắc
bệnh gấp 4 lần so với người cùng tuổi khỏe mạnh
- Trầm cảm thường xảy ra nhiều ở lứa tuổi từ 18 đến 45, phụ nữ dễ bị trầm cảm cao hơn
đàn ông ( tỷ lệ giới tính: nam/nữ = ½), người trẻ cũng dễ bị suy sụp tâm lý hơn so với
người già
- Riêng ở Mỹ, khoảng 17 triệu người trong nhiều độ tuổi khác nhau bị trầm cảm, cứ 33
trẻ em thì có một em mắc chứng trầm cảm
- 20% nhân viên làm việc tại công sở bị trầm cảm. Khoảng 1/3 số nhân viên bị trầm cảm
sử dụng rượu hoặc thuốc an thần để tự an ủi
- Mỗi năm, cả thế giới tiêu tốn khoảng 240 tỷ USD cho trầm cảm và các rối loạn liên
quan. Các chuyên gia cho biết chứng trầm cảm gây tổn thất 30 đến 44 tỷ USD do giảm
năng suất lao động hằng năm.
* Riêng đối với Việt Nam, theo GS.Trần Viết Nghị, Viện trưởng Viện sức khoẻ tâm thần
(BV Bạch Mai) cho biết khoảng 5% dân số Việt Nam bị bệnh trầm cảm tức là khoảng
hơn 4 triệu người. Còn theo thống kê từ Bệnh viện Tâm thần TW, năm 2005, trong tổng
số gần 5.000 người có biểu hiện “bất bình thường” đến khám, tư vấn, thì 30% là HS, SV.

13
Theo điều tra của Bệnh viện Nhi TW tại một số trường học thì cũng có tới 20% HS lo
lắng, có biểu hiện của bệnh rối loạn tâm trí hay còn gọi là bệnh trầm cảm.
1.3.2 Cuộc sống của những người trẻ bị trầm cảm
Ở Việt Nam, bệnh nhân trầm cảm chiếm 3-6% dân số, xuất hiện ở mọi lứa tuổi, trong đó
1/5 luôn có tư tưởng tự sát. Đây là bệnh gây mất sức lao động đứng thứ hai trên thế giới
và là nguyên nhân của 2/3 trường hợp tự tử. Điều nguy hiểm là do sự mặc cảm hoặc thiếu
hiểu biết về căn bệnh này, có đến 60% người mắc trầm cảm không được phát hiện và
điều trị.
Những người trẻ mắc bệnh trầm cảm luôn co mình trong cái vỏ ốc cô độc mà họ
tự tạo ra, không giao tiếp, không sẻ chia. Một tâm trí phẳng và khép kín. Họ giống như
một cánh cửa khóa chặt, nếu muốn mở nó ra đón ánh mặt trời, những người thân của họ
phải có lòng kiên trì đặc biệt mới kéo họ ra khỏi thế giới “người buồn”.
• Thế giới “người buồn”:
Những người mặt buồn loay hoay trong cuộc sống không có la bàn, chán nản và
bất lực với chính mình. Rồi căng thẳng hay thất bại trong công việc; lo âu, những điều
không may mắn trong cuộc sống, tình yêu; những ức chế dồn dập, strees liên tục, một
sang chấn nào đó về mặt tinh thần, bị ám ảnh bởi sex… dễ dàng khiến người trẻ lâm vào
một căn bệnh tâm lý mà y học gọi là chứng rối loạn lo âu. Đây là căn bệnh tâm ký cực kỳ
phổ biến trong xã hội ngày nay, nó khiến cho người mắc phải luôn cảm thấy bất an, buồn
bã, suy sụp về tinh thần, chán nản, lười vận động, không muốn gượng dậy.
Câu chuyện của Hưng – 24 tuổi, đang làm việc trong một Công ty Du lịch là ví dụ
về nhịp sống của một bộ phận giới trẻ ngày nay: “ Tôi bị khủng hoảng kéo dài từ khi bắt
đầu học Đại học. Khi học phổ thông thì phấn đấu hết sức mình cho mơ ước vào Đại học,
nhưng khi vào Đại học rồi lại không biết mơ ước một cái gì nữa, chán nản vì không biết
mình sẽ phấn đấu vì cái gì. Chương trình học không căng, lại không nhiều hứng thú nên
tôi đâm ra chán học. Ban đầu tôi ngồi quán chơi game, rồi đi chơi suốt ngày với bạn. Dần
14
dà những thứ đó cũng khiến tôi chán ngấy. Một mặt tôi muốn mình năng động, giỏi
giang, thành đạt như các bạn khác nhưng mặt khác tôi lại trở nên ỳ, không biết phải làm

gì để được như thế.
Tôi chán chính mình. Lúc nào tôi cũng cảm thấy bứt rứt, mệt mỏi, không còn
muốn vận động, có khi tôi ngủ vùi cả ngày. Rồi sau đó tôi sợ luôn cả âm thanh ồn ào, sợ
tiếng cười đùa. Kết quả học không cao, tình yêu thì tan vỡ càng khiến tôi bị căng thẳng
và buồn chán. Lúc nào đầu óc tôi cũng lùng bà lùng bùng, mụ mị, không nghĩ được cái gì
nữa. Đó thực sự là thời gian khủng khiếp mà tôi không biết mình sẽ ra sao nếu không
được cô bạn thân phát hiện rồi bắt ép đến chuyên gia tâm lý”.
Những người mắc chứng rối loạn lo âu như Hùng này thường bị suy giảm trầm
trọng về khả năng tư duy cũng như khả năng vận động. Và nếu không được chữa trị tận
gốc, không nhanh chóng thoát khỏi tâm lý này, đây sẽ là môi trường thuận lợi để đẩy
những người trẻ tuổi rơi vào một cái hố, cái đáy của xúc cảm con người: chứng trầm cảm.
Hay nói cách khác, trầm cảm là hậu quả của vô vàn những căn bệnh tâm lý khác.
• Hành xác:
Những người trẻ bị trầm cảm tự làm đau mình để tìm đến sự thư thái về tinh thần,
các bác sĩ điều trị đơn giản gọi đó là chứng tự hành xác. Có nhiều người phải nhập viện
trong tình trạng chân tay đầy vết cắt máu chảy ròng ròng, thậm chí có người còn tự cứa
cổ mình để tự tử. Hay nhiều người đã nhập viện để điều trị nhưng vẫn lén người nhà và
bác sĩ cầm lưỡi dao lam rạch lên tay mình rồi ngắm máu chảy.
Kể về những câu chuyện thương cảm của các bệnh nhân này, bác sĩ Trịnh Ngọc
Tuân (Viện Sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội) không khỏi xúc động: Mắc
chứng trầm cảm từ khi còn ngồi trên giảng đường đại học do một cú sốc về chuyện tình
cảm cộng với tâm trạng u uất từ trước, tính đến thời điểm này Linh đã 4 lần tự tử. Trong
đó 3 lần đều là chuẩn bị cưới chồng… Chú rể khi nghe phong thanh tin Linh đã từng phải
vào viện tâm thần, phải chữa trị đã kiên quyết chia tay. Và sau mỗi lần như vậy, căn bệnh
15
của Linh lại tái phát, lần sau lại nặng hơn lần trước và lần nào cô cũng tìm đến cái chết.
Đến bây giờ thì hầu như mọi mơ ước về hạnh phúc tương lai của Linh đều đã đóng lại,
nhờ uống thuốc và trị liệu tâm lý.
Sau khi được điều trị, Linh đã vượt qua được hố sâu cảm xúc của mình nhưng tâm
trạng cô không bao giờ còn được vui vẻ như ngày trước nữa

Những người trầm cảm – họ trẻ và tương lai họ còn phía trước, nhiều người thậm
chí rất giỏi giang, thành tích học tập xuất sắc, nhưng thay vì “bơi ra biển lớn”, họ lại lặng
lẽ đi vào thế giới của “người buồn”. Họ, với gương mặt vô hồn, nằm trên giường với ánh
mắt u sầu hay đang đòi tự tử
1.3.3 Nhận thức của xã hội về bệnh trầm cảm
- Rất nhiều người không biết những biểu hiện của bệnh trầm cảm. Thậm chí khi bị trầm
cảm, họ cũng không biết được rằng mình đang bị bệnh đó. Có đến 80% bệnh nhân không
biết mình đang mắc bệnh
- Họ xem nhẹ những tác hại của bệnh trầm cảm. Chỉ coi đấy là vấn đề về tâm lý trong
nhất thời và sẽ dễ dàng vượt qua mà không có nguy hiểm gì.
- Đàn ông không chấp nhận được là họ bị trầm cảm, nên họ thường hay thu mình vào sự
im lặng khốn khổ, và giấu trầm cảm dưới trạng thái tức giận, cáu gắt, nghiện ngập rượu
chè. Trầm cảm ở đàn ông là yếu tố nguy cơ chính dẫn đến tự sát, và báo cáo cho hay, tỷ
lệ đàn ông dự định tự tử cao gấp 4 lần so với phụ nữ
- Đa số mọi người coi những bệnh liên quan đến tâm thần thuộc trạng thái cảm xúc yếu
kém hoặc cá nhân- hơn là những vấn đề sức khoẻ thực sự- so với khi họ đánh giá các
bệnh tật khác
- Nhiều người tỏ ra không thoải mái khi tiếp xúc với những người mắc bệnh tâm thần,
thậm chí là xa lánh
2. Công chúng mục tiêu
16
Dự án này sẽ tập trung vào đối tượng là những người trẻ tuổi vì những nguyên
nhân sau:
- Đây là những đối tượng chịu rất áp lực từ nhiều phía, vì thế họ có nguy cơ mắc bệnh
trầm cảm là rất cao
- Họ là những người tiếp nhận thông tin một cách nhạy bén, dễ thay đổi hành vi
Dự án xác định nhóm công chúng mục tiêu bao gồm những đối tượng từ 16 đến
30 tuổi, sinh sống ở những thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải
Phòng, Cần Thơ,… và được chia ra làm những nhóm nhỏ sau:
- Học sinh cấp 3: nằm trong độ tuổi từ 16 – 18

- Sinh viên: nằm trong độ tuổi 18 – 23
- Người đi làm: nằm trong độ tuổi từ 23 – 28
* Đặc điểm của nhóm công chúng mục tiêu
2.1 Đặc điểm tâm lý của nhóm công chúng mục tiêu
Những suy nghĩ của người trẻ chịu tác động rất lớn của cuộc sống xung quanh và
nó khác xa với những thế hệ đi trước.
- Người trẻ luôn có mong muốn thích sự thay đổi. Họ thích sự vận động, dễ dàng
tiếp cận và chấp nhận những cái mới
- Quan niệm về chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể đã thay đổi. Theo truyền
thống của Việt Nam, mỗi cá nhân phải nằm trong tập thể, nhưng hiện nay giới trẻ muốn
được đặt bên cạnh cộng đồng, chứ không phải trong cộng đồng nữa. Trong tâm lý truyền
thống, người Việt Nam luôn đặt vị trí mình vào vị trí của người khác, trong khi hiện nay
giới trẻ lại muốn đặt mình vào đúng vị trí của mình
- Tâm lý muốn thể hiện mình, muốn được người khác công nhận. Giới trẻ ngày
nay tìm mọi cách để thể hiện cá tính, để trở thành người nổi bật. Họ mặc những bộ quần
17
áo nổi bật, làm tốt thật nhiều công việc,…tất cả những thứ đó đều với mục đích để PR
cho bản thân, để thể hiện cái tôi của họ.
- Họ có nhu cầu giao tiếp, trao đổi rất cao. Họ luôn muốn được chia sẻ, được kết
bạn với mọi người. Các hình thức về công nghệ như blog, chat, truyền hình,… đã giúp họ
thực hiện điều đó
2.2 Lối sống của người trẻ
Trước bối cảnh "toàn cầu hoá" về mọi mặt trong đời sống quốc tế đang diễn ra
nhanh chóng, khẩn trương và sôi động, trong tiến trình mở cửa và hội nhập của đất nước
học sinh, sinh viên có nhiều cơ hội để tiếp xúc với nhiều nền văn hoá trên thế giới. Kéo
theo đấy là những thay đổi trong nhận thức, trong cách sống của những người trẻ tuổi. Có
thể kể ra đấy một số những lối sống hiện nay mà giới trẻ đang làm
- Lối sống thực dụng: người trẻ hiện nay có xu thế yêu thực dụng, học thực dụng,
sống thực dụng. Họ coi trọng vật chất và coi đó là thước đo cho sự thành công của mình.
Các mối quan hệ của họ chủ yếu mang tính chất xã giao, vì công việc là chính. Họ suy

nghĩ quá nhiều về chuyện họ sẽ được gì trước khi quyết định có làm bạn với người này,
có yêu người kia,
- Lối sống hưởng thụ: Lớp trẻ ngày nay suy nghĩ quá nhiều về lợi ích cho bản
thân, tiền bạc, danh vọng…Kéo theo đấy là những trào lưu dùng hàng hiệu, cảm thấy
thỏa mãn bởi những món đồ xa xỉ. Điều đó cũng giúp họ chứng tỏ mình là người biết
thưởng thức và hợp thời
- Chủ nghĩa cá nhân: người trẻ luôn đặt cái tôi của mình lên hàng đầu. Họ muốn
thể hiện cá tính nổi bật của mình trước người khác, muốn thể hiện giá trị cá nhân của họ
trước xã hội. Vì thế, họ đã kéo mình vào trong những áp lực của công việc, của những
mối quan hệ… để thể hiện họ là ai trong xã hội
2.3 Hoạt động giải trí
18
Cùng với sự phát triển của công nghệ, một xã hội hiện đại đã mang đến cho người
trẻ những phương tiện giải trí phong phú hơn.
- Báo chí: hàng loạt những tạp chí phục vụ giới trẻ ra đời, đáp ứng những nhu cầu
về thông tin cho họ. Với những học sinh cấp 3 thì đã có Hoa học trò, Mực tím, VTM,
Học đường,…; với những sinh viên, những người đã đi làm thì là Tạp chí Mỹ phẩm, Thời
trang trẻ, Sinh viên, tạp chí Tiêu dùng…
- Truyền hình: thế hệ trẻ có thể dành hàng giờ ngồi trước máy thu hình để xem
các bộ phim, các chương trình thể thao, giải trí,…Họ sẵn sàng đánh đổi một cuộc đi chơi
với bạn bè để không bị mất một bộ phim mà họ đang theo dõi. Với việc phát triển của
công nghệ thông tin, thế hệ trẻ không chỉ xem những kênh truyền hình trong nước mà
thông qua truyền hình cáp, kĩ thuật số, họ còn được tiếp cận với các chương trình truyền
hình nước ngoài. Các kênh truyền hình mà giới trẻ hay tiếp cận: VTV3, VTV6 – kênh
truyền hình dành riêng cho giới trẻ, HTV7, HBO, Star Movie, Sport, Walt Disney,…
- Internet: đây là hình thức quá phổ biển với thế hệ trẻ. Phần lớn họ đều biết đến
phương tiện này và coi đó là một công cụ hữu ích để giao tiếp với thế giới xung quanh.
Thông qua Interner, họ có thể biết được tất cả những thông tin diễn ra xung quanh họ, có
thể giao tiếp, gặp gỡ với bạn bè thông qua thể giới ảo, có thể tranh luận về một vấn đề
nào đó, có thể bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình, bộc lộ tính cách bản thân,…Với

những ưu việt của Internet, họ có thể vùi đầu vào công cụ này đến hàng giờ, thậm chí
hàng ngày. Họ không quan tâm đến thế giới thực xung quanh mà họ chỉ sống trong thế
giới ảo mà họ đang tạo ra. Những công cụ của internet người trẻ hay khai thác đó là: blog
(nhật ký cá nhân), các forum, các trang web về âm nhạc, giải trí, kết bạn,…như
yeuamnhac.com, thehe8x.net, hoahoctro.vn, ttvnol.com.vn, …
3. Xây dựng chương trình ngăn ngừa bệnh trầm cảm trong thế hệ trẻ
3.1 Mục tiêu của chương trình
19
- Tăng cường nhận thức của giới trẻ về căn bệnh trầm cảm, về nguyên nhân gây ra
trầm cảm
- Giúp giới trẻ phát hiện sớm những biểu hiện của căn bệnh trầm cảm để có những
biện pháp điều trị kịp thời
- Điều chỉnh về hành vi sống để chống chọi lại với những áp lực của cuộc sống
- Tuyên truyền cho giới trẻ về một lối sống lành mạnh nhằm tránh nguy cơ mắc
bệnh trầm cảm
- Xây dựng một môi trường sống có ích dành cho giới trẻ
3.2 Hành vi mong muốn
Chương trình mong muốn đối tượng mục tiêu – giới trẻ:
- Tiếp thu những thông tin mà chương trình mang đến
- Chấp nhận và điều chỉnh sự thay đổi trong suy nghĩ, trong lối sống
- Tạo lập những kỹ năng sống cần thiết
- Khuyến khích, tuyên truyền những người xung quanh thực hiện một nếp sống an
toàn, lành mạnh
3.3 Các rào cản
- Cái tôi cá nhân
- Không muốn có sự thay đổi trong lối sống
- Bị bạn bè, những người xung quanh ngăn cản
- Không nghĩ sự thay đổi trong lối sống, trong tư duy là cần thiết
3.4 Động cơ cho hành động
- Thấy được tầm quan trọng của sức khỏe, tinh thần đến công việc, học tập, cuộc

sống
20
- Sự thay đổi giúp cho đối tượng mục tiêu hạnh phúc hơn
3.5 Marketing xã hội hỗn hợp
3.5.1 Sản phẩm
Trong dự án này, chúng tôi cung cấp cho đối tượng công chúng mục tiêu của
chúng tôi là những thế hệ trẻ trong độ tuổi từ 16 – 30 và đang sinh sống ở các thành phố
lớn những sản phẩm sau:
- Cung cấp những kỹ năng sống cần thiết để họ có thể vượt qua những khó khăn,
trở ngại trong cuộc sống, ngăn ngừa rơi vào trạng thái mất cân bằng tâm lý, từ đó có thể
dẫn đến các hành vi tiêu cực
- Cung cấp những biện pháp nhằm chống chọi với những áp lực, stress mà công
chúng mục tiêu đang gặp phải. Ở đây, chúng tôi đưa ra các chỉ dẫn nhằm giúp những
người trẻ thoát khỏi những căng thẳng trong cuộc sống
- Phổ cập tri thức y học, tăng cường việc tuyên truyền chống trầm cảm
- Thực hiện những trắc nghiệm để phát hiện ra những ai bị mắc bệnh trầm cảm để
có những biện pháp chữa trị kịp thời
- Xây dựng câu lạc bộ, trung tâm tư vấn tâm lý, website để giải đáp, gỡ rối các
vấn đề về tâm lý cho công chúng mục tiêu
3.5.1.1 Các kỹ năng sống
- Học cách nhận biết những thời khắc khiến bạn bị tổn thương, chẳng hạn như khi
phải kết thúc một mối quan hệ tình cảm hay khi trời chuyển đông u ám
- Xác lập những mục tiêu sống: xây dựng cho mình những kế hoạch, những mục
tiêu trong cuộc sống và thực hiện từng bước một. Tự thưởng cho mình mỗi khi hoàn
thành một bước nào đó
- Tạo ra những thay đổi trong cuộc sống như sơn lại bức tường trong nhà, vẽ, viết
truyện; tự tạo ra niềm vui cho bản thân mình
21
- Liệt kê những việc khiến bạn lo lắng, sau đó bắt tay vào giải quyết chúng. Nếu
mỗi tuần có thể tìm cách giải tỏa được một nỗi lo, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy dễ chịu

- Chấp nhận chính bản thân mình
- Nói không khi cần thiết: bạn không bắt buộc phải hoàn thành mọi điều được yêu
cầu. Nên tạo ra một khoảng không gian riêng dành cho mình
- Lựa chọn bạn bè: nếu bạn không cảm thấy thoải mái khi kết bạn với ai đó, hẫy
chấm dứt ngay, đừng để tình trạng này kéo dài
- Tinh thần lạc quan:
+ Không coi bước đi lùi lại là một thất bại
+ Coi sự việc không may là một dịp để thử thách chính mình
+ Luôn đặt câu hỏi: “ Qua việc này mình có thể làm gì tốt hơn”
+ Coi bước khó khăn là dịp nghỉ ngơi, dưỡng sức trước khi bước vào trận giao
tranh mới
+ Không khuất phục trước người khác và chính bản thân mình
- Biết ghi nhận lời phê bình
- Suy nghĩ tích cực
3.5.1.2 Các biện pháp nhằm chống chọi lại với những căng thẳng, stress
- Giảm áp lực tinh thần
+ Tâm sự: khi có chuyện không vui nên tâm sự với bạn bè, người thân. Học sẽ
giúp bạn giải quyết vấn đề của mình
+ Ca hát: luôn là biện pháp hữu hiệu để giải tỏa những căng thẳng và tâm trạng
tức giận
22
+ Hòa nhịp với thiên nhiên: khi tinh thần không tốt, bạn có thể đi dã ngoại, câu
cá, chăm sóc cây cảnh. Khi bạn hòa mình với thiên nhiên rộng lớn, bạn sẽ cảm thấy tinh
thần được thư thái hơn, giải tỏa được những áp lực trong cuộc sống
+ Đương dây nóng: xin ý kiến các chuyên gia tâm lý để có thể đưa ra các cách
giải quyết khó khăn một cách phù hợp
+ Net: lên mạng nói chuyện phiếm cũng có thể giải tỏa áp lực tinh thần
- Khẩn trương quá độ: tự điều tiết sinh hoạt của mình cho phù hợp. Làm việc, học
tập căng thẳng thì có thể căn cứ vào sở thích và hoàn cảnh khách quan của bản thân, có
thể học vẽ,thư pháp. Làm việc và nghỉ ngơi phải kết hợp với nhau khiến cho tâm trạng

nhẹ nhàng thoải mái, tiêu trừ đi lo nghĩ phiền muộn mà công việc và ọc tập căng thẳng
đem lại
- Ngăn chặn những căng thẳng trong gia đình
+ Tạo điều kiện để mọi người trong gia đình có dịp nói chuyện với nhau, tiếp
xúc và gần gũi
+ Giữ những thói quen, tục lệ và các cuộc họp mặt trong gia đinh. Trong những
cuộc gặp gỡ này nên để ra những công việc chung, những dự kiến cho tương lai
+ Góp ý cho các thành viên mỗi khi cần có dự thay đổi quan trọng như khi mất
việc làm, cần thay đổi chỗ làm, khi gặp biến cố
+ Phải tin vào khả năng và chú ý tới quyền lợi của từng thành viên. Mỗi thành
viên, dù là nhỏ tuổi cũng đều được tự do và quyền quyết định trong một phạm vi nào đó
- Giảm tác động của stress
+ Vận động, tập thể dục
+ Tập yoga, ngồi thiền
+ Tắm bằng nước ấm
23
+ Ngủ sớm và đủ giờ
+ Ăn uống đủ 3 bữa và đầy đủ
+ Chia sẻ khó khăn đối với người thân, bạn bè
3.5.1.3 Kiểm tra chứng trầm cảm
Để thực hiện điều tra nhằm phát hiện ra những người mắc bệnh trầm cảm, sử
dụng bảng đánh giá trầm cảm Liu Diao Yong (CES - D). Bảng CES – D gồm 20 vấn đề,
đơn giản và dễ đánh giá. Chỉ cần lấy tình trạng hay suy nghĩ mà bạn đã có qua hay cảm
nhận được, qua một tuần ban tiến hành đánh giá cho điểm cảm giác thực tế của mình.
Tiêu chuẩn đánh giá là: đối với những vấn đề đánh giá cho điểm, dựa vào tình trạng cụ
thể chia làm 4 cấp:
- 0 là điểm không có hoặc hầu như không có
- 1 điểm là ngẫu nhiên có
- 2 điểm là thường có
- 3 điểm là luôn có

Thang điểm đánh giá như sau
- 15 điểm trở xuống: không có triệu chứng trầm cảm
- 16 – 19 khả năng có triệu chứng trầm cảm
- 20 điểm: khẳng định có triệu chứng trầm cảm
Nội dung cụ thể của 20 vấn đề:
(1) Tôi vì một vài việc nhỏ mà buồn phiền
(2) Tôi không muốn ăn uống, ăn vào không thấy ngon miệng
(3) Mặc dù có sự giúp đỡ của người nhà và bạn bè, tôi vẫn không thể nào thoát
khỏi những đau khổ trong lòng
24
(4) Tôi cảm thấy mình không bằng người bình thường
(5) Khi tôi làm việc, tôi không thể nào tập trung chú ý
(6) Tôi cảm thấy suy sụp tinh thần
(7) Tôi cảm thấy làm việc gì đều rất mệt
(8) Tôi cảm thấy tiền đồ của tôi không có hy vọng
(9) Tôi cảm thấy cuộc sống của mình thất bại
(10) Tôi cảm thấy lo sợ
(11) Tình trạng ngủ của tôi không tốt
(12) Tôi cảm thấy không cao hứng
(13) Tôi ít nói được hơn bình thường
(14) Tôi cảm thấy cô đơn
(15) Tôi cảm thấy mọi người không phải là bạn tốt đối với tôi
(16) Tôi cảm thấy cuộc sống không có ý nghĩa
(17) Tôi đã từng khóc một mình
(18) Tôi cảm thấy buồn rầu
(19) Tôi cảm thấy mọi người không thích tôi
(20) Tôi cảm thấy không thể nào tiếp tục làm việc của mình
3.5.2 Chi phí
Để chấp nhận các sản phẩm trên, công chúng mục tiêu cần phải mất đi một số thứ.
Đó không chỉ là tiền bạc mà còn là thời gian, công sức, mối quan hệ. Nhưng đổi lại, cái

được vẫn nhiều hơn cái mất. Những cái “được” và “ mất” gồm:
25

×