Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN DẠY HỌC THƠ CỔ VIỆT NAM THUỘC THỂ ĐƯỜNG LUẬT TRONG TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.25 KB, 19 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU:
Văn thơ cổ Việt Nam – Văn học Việt Nam, từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX là những tinh hoa quý giá của văn hóa dân tộc. Nó là vốn quý góp phần bồi
dưỡng niềm tự hào dân tộc, làm giàu nhân cách con người Việt Nam trong mọi
thời đại.
Văn thơ cổ là tên gọi chung cho các tác phẩm văn chương được sáng tác
trong 10 thế kỷ của văn học dân tộc từ thế kỷ X – XIX, kể cả một số tác phẩm
xuất hiện vào đầu thế kỷ XX nhưng được sáng tác theo quan điểm thẩm mĩ,
theo đặc điểm đề tài, đặc điểm ngôn ngữ của các nhà thơ xưa như những bài thơ
của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… sau này.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC THƠ CỔ VIỆT NAM
THUỘC THỂ ĐƯỜNG LUẬT TRONG TRƯỜNG THPT HIỆN NAY.
1. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi cùng đồng nghiệp cũng như tìm hiểu
thực tế học sinh tôi nhận thấy: Cả thầy và trò ít nhiều gặp khó khăn khi tiếp
nhận một bài thơ cổ thuộc thể Đường luật.
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
Chính vì vậy, một vấn đề đặt ra la: Làm thế nào để nâng cao chất lượng
dạy học văn thơ cổ? Làm thế nào để những em HS lớp 10 có thể cảm nhận được
những nội dung tinh túy trong các tác phẩm thơ cổ thuộc thể Đường luật? Đó là
câu hỏi đặt ra không chỉ cho bản thân tôi mà có lẽ cho tất cả những giáo viên
dạy văn có tâm huyết.
1
Do đó, sau một số năm trực tiếp giảng dạy, nhất là sau ba năm dạy
chương trình lớp10 , tôi muốn đưa ra một vài kinh nghiệm để cùng trao đổi với
các bạn đồng nghiệp. Ở để tài này tôi chỉ tập trung vào việc trao đổi nội dung.
Làm thế nào để dạy tốt một bài thơ cổ Việt Nam thuộc thể Đường luật
trong chương trình Ngữ văn lớp 10.
Phần nội dung đề tài gồm:
I. Cơ sở lý luận


II. Một số khó khăn với người dạy và học những bài thơ cổ Việt Nam
thuộc thể Đường Luật.
III. Một vài kinh nghiệm để có thể dạy tốt một bài thơ cổ Việt Nam thuộc
thể thơ Đường Luật.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc nghiên cứu SGK, SGV, tìm tài liệu tham khảo khác
- Trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp
- Tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu điều tra qua các tiết dạy trên lớp
* Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Chương trình Ngữ văn 10 (phần thơ cổ Việt Nam thuộc thể thơ Đường
luật)
- Đối tượng: Học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Thị Lợi
2
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Cơ sở lý luận:
Văn thơ Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là một bộ phận quan
trọng trong lịch sử văn học dân tộc gồm những tác phẩm ưu tú của các nhà văn,
nhà thơ lớn của dân tộc, đã vượt qua những biến cố của lịch sử qua thử thách
của thời gian đến với chúng ta và hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Với nội dung nhân đạo và giá trị hiện thượng sâu sắc văn thơ cổ cho học
sinh, hình dung được đất nước, xã hội, con người Việt Nam trong những thời đại
đã qua, phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân để bảo vệ nền độc lập của tổ
quốc, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc trong văn học. Tác phẩm văn chương cổ thật sự
là nguồn cảm hứng vô tận mà người giáo viên dạy văn phải khai thác để bồi
dưỡng tâm hồn thế hệ trẻ. Đặc biệt những bài thơ Đường Luật này lại được sáng
tác với những ngôn từ mới mẻ, mang ý ngoài lời. Ví như: Bài “Thuật hoài” của
phạm Ngũ Lão một bài thơ Đường luật tứ tuyệt viết bằng chữ Hán là một minh
chứng tiêu biểu cho quy luật sống còn của văn chương nghệ thuật: “Quý hồ tinh,
bất quý hồ đa”(Quý tinh tuý, không cốt nhiều).Bài thơ thể hiện vẻ đẹp con người

và vẻ đẹp thời đạt. Con người với sức mạnh lí tưởng lớn lao cao cả, với cái tâm
sáng ngời nhân cách ;thời đại và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của hào khí
Đông A (Hào khí đời Trần). Thuật Hoài là một tia hào quang của thời Trần, thời
kỳ phục hưng của dân tộc, thời kỳ có nhiều người con anh hùng khí phách,và
tâm hồn rộng mở. Hay trong bài “Bảo kính cảnh giới – Bài số 43” của Nguyễn
Trãi viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật đã khiến người đọc vài nét
phác họa trong bài “Bảo kính cảnh giới – Bài số 43” về cảnh cảm nhận được vẻ
đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi với tình yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống, nặng lòng với nhân dân, đất nước. Và vẻ đep trong
thơ Nôm Nguyễn Trãi: bình dị, tự nhiên, mới mẻ, đan xen câu sáu tiếng (lục
3
ngôn) trong bài thơ thất ngôn (bảy tiếng) .Ý tại ngôn ngoại, đó chính là sự khó
khăn không chỉ đối với người học mà cả với người dạy là vì lẽ đó.
2. Một số khó khăn với người với người dạy và người học những bài
thơ cổ Việt Nam thuộc thể Đường luật.
Không chỉ riêng đối với HS mà đối với một số giáo viên văn THPT hiện
nay khi tiếp cận với cá bải thơ cổ gặp rất nhiều khó khăn về khoảng cách lớn
giữa các thế hệ. Dù có là những áng thơ cổ nổi tiếng cũng vẫn là những tiếng nói
và cách nói tương đối xa lạ. Đó là tiếng nói, cách nói của những người từng
sống cách ta hàng mấy trăm năm, họ có cách cảm, cách nghĩ, cách sinh hoạt,
quan điểm thẩm mĩ, cách trình bày, diễn đạt khác hẳn chúng ta ngày nay.
Khó khăn thứ hai mà người dạy mà người học gặp phải khi tiếp cận một
bài thơ Đường Luật là “ Hàng rào ngôn ngữ”. Ngôn ngữ trong các tác phẩm thơ
cổ có nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng, các dùng điển tích, từ ngữ Hán Việt,
thuật ngữ xưa nếu không được hướng dẫn giải thích thì các em sẽ rất khó trong
việc nắm bắt nội dung tác phẩm. Bởi vậy, để dạy tốt một bài thơ cổ Việt Nam
thể Đường Luật, giáo viên cần nắm vững những đặc trưng thẩm mĩ của thể thơ
Đường luật. Đặc trưng thẩm mĩ và tu duy nghệ thuật của thời xưa có những tiêu
chuẩn đánh giá được quy định rõ ràng.
Thiên nhiên là đối tượng quen thuộc là đề tài phổ biến: Trời, mây, sông,

nước; phong, hoa, tuyết, nguyệt… đã trở thành người bạn tâm tình, là nguồn
cảm hứng của thi sĩ.
Không khí tĩnh tại, tính chất cân đối hài hòa, niêm luật chặt chẽ là yêu cầu
nghiêm ngặt trong quan niệm về cái đẹp của người xưa.
Trong một xã hội luôn lấy quá khứ là khuôn mẫu, người xưa là mẫu mực
thì việc mô phỏng quá khứ tuân theo khuôn mẫu có sẵn là nguyên tắc sáng tạo.
4
Song thực tế vẫn có một số bài thơ cổ Việt Nam được sáng tác một cách
độc đáo, thể hiện được cá tính cách sáng tạo của tác giả.
Với những tính chất trên đã làm cho một số giáo viên ngữ văn và đa số
học sinh lớp 10 cảm thấy lúng túng trong việc tiếp nhận một bài thơ cổ Đường
luật. Qua quá trình học tập ở trường sư phạm và nhất là qua những năm trực tiếp
giảng dạy tôi xin phép đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân để trao đổi
cùng các bạn đồng nghiệp, cùng quan tâm khi dạy những bài thơ Cổ Việt Nam
trong chương trình Ngữ văn lớp 10 (tập 1).
III/ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ CÓ THỂ DẠY TỐT MỘT BÀI THƠ CỔ
VIỆT NAM THUỘC THỂ ĐƯỜNG LUẬT (NGỮ VĂN 10 – TẬP 1)
1. Đọc bài thơ, giải nghĩ từ khó:
Đây là một nguyên tắc chung và là bước đầu tiên phải làm để tìm hiểu
một tác phẩm thơ. Với những bài thơ Đường luật cổ càng phải đọc kỹ nhiều lần
để hiểu rõ chữ và nghĩa. Phải đọc kỹ không chỉ riêng về văn bản mà cả phần chú
thích. Phải đọc nhiều và suy ngẫm không ngại dài, ngại khó không kiên nhẫn
đọc hàng loạt chú thích sẽ không thể hiểu nghĩa của câu, của từ được chú giải
mà cốt hiểu cả câu, cả đoạn trong đó có từ được chú giải, cốt thâu tóm ý của câu
hoặc của đoạn chứa từ đó. Từng bước có thể hiểu được cả bài việc hiểu được
nghĩa toàn bài thì mới có điều kiện để từ chỉnh thể văn bản quay lại từng đơn vị
ngôn từ cấu thành. Khi ấy việc hiểu, cảm mới được sâu sắc.
Thời gian ở lớp có hạn nên đây là phần giáo viên phải chuẩn bị kỹ trước
khi đến lớp. Và với học sinh cũng cần hướng dẫn cho các em thực hiện những
thao tac này khi chuẩn bị bài ở nhà để phần nào nắm được nội dung cơ bản của

bài thơ.
Đến lớp, trước khi phân tích bài thơ vẫn hướng dẫn học sinh đọc. Tùy
từng bài cụ thể, phải hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm đọc cho âm vang bài thơ.
5
Khâu đọc phải được chú ý ngay từ đầu giờ. Trong khi phân tích và cả khi kết
thúc. Đặc điệt, giáo viên phải tập luyện để có giọng đọc khó phai mờ trong lòng
học sinh. Có thể cho một vài học sinh đọc trước sau khi đã hướng dẫn cách đọc
cho em rồi sau đó giáo viên đọc đúng theo ý tưởng mà tác giả gửi gắm trong bài
thơ. Giáo viên cần bố trí linh hoạt giữa đọc và giảng, tránh gò bó. Nếu có điều
kiện nên hướng dẫn các em tập ngâm thơ để tiết sau kiểm tra bài cũ hoặc trong
bài tổng kết, tiết ngoại khó. Chẳng hạn ở tiết 35 văn bản “ Thuật hoài” của
Phạm Ngũ Lão để giúp học sinh cảm nhận được giá trị biểu hiện đặc sắc của bài
thơ trước hết phải gợi để học sinh hình dung được không khí lịch sử hào hùng
của dân tộc ta trong thời đại Lý – Trần. Bài thơ đã thể hiện bản lĩnh khí phách
của dân tộc ta.Vì vậy giáo viên yêu cầu học sinh đọc cả phiên âm, dịch nghĩa,
dịch thơ.Giọng hùng tráng, chậm rãi, ngắt nhịp 4/3
Sau khi cho học sinh đọc bài thơ để các em hiểu rõ chữ và nghĩa cần cho
các em hiểu được những từ khó những điển tích, điển cố (nếu có). Trong tiết 35
bài thơ đều được viết bằng chữ Hán nên ở SGK đã có giải thích rất kỹ về nghĩa
của từng tiếng. Do đó mặc HS đã đọc và chuẩn bị bài ở nhà nhưng đến lớp tùy
từng bài, tùy từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể yêu cầu học sinh đọc
lại toàn bộ nội dung phần giải nghĩa phiên âm tiếng Hán, từ khó hoặc yêu cầu
học sinh trình bày cách hiểu của mình về một trong số những từ khó đó nhằm
kiểm tra việc chuẩn bị bài trước ở nhà của học sinh. Đặc biệt trong văn bản
“Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão cũng đã tồn tai hai cách hiểu câu thơ thứ hai
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Cách hiểu thứ nhất: Ba quân như hổ báo nuốt trôi trâu
Cách hiểu thứ hai: Khí thế ba quân như hổ báo át cả sao Ngưu.
Tuy nhiên cách hiểu đúng là cách thứ nhất với nghệ thuật so sánh trực tiếp vừa
diễn tả được sức mạnh vật chất, vừ nói lên được khí phách, sức mạnh tinh thần

của quân đội thời Trần. Nếu ngưu là sao Ngưu thì trong Hán tự thường là cụm từ
6
ngưu đẩu.Hơn nữa thôn với nghĩa nuốt thì cách biểu hiện nuốt sao ngưu có phần
gượng ép.
Như thế khi học sinh đã rõ được nghĩa các phiên âm chữ Hán, nghiên cứu một
số từ khó có nghĩa các em phần nào nắm được nội dung bài thơ. Đây sẽ là cơ sở
để các em đi vào phân tích bài thơ.
2. Chú ý tới những yếu tố ngoài tác phẩm:
Khi phân tích tác phẩm văn học phải bám vào tác phẩm, xong có những
điều ngoài tác phẩm không thể không biết tới bởi nó sẽ giúp ích cho người tiếp
nhận tác phẩm một cách sâu sắc hơn.
Nội dung của tác phẩm văn chương nói chung và của các bài thơ Đường
luật nói riêng thường gắn liền với nội dung của lịch sử xã hội, mà tác phẩm ra
đời. Vì vậy, khi dạy các bài thơ cổ Việt Nam thuộc thể Đường Luật để học sinh
hiểu thấu đáo được nội dung tư tưởng tác phẩm, giáo viên cần phải làm sống lại,
tái hiện lại hoàn cảnh lịch sử xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tìm
hiểu bài thơ, bởi văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống xã hội hiện thực.
Xã hội mà văn học cổ ra đời khác xã hội chúng ta ngày nay. Điều đó kéo theo cả
sự khác nhau về tư tưởng dẫn đến sự chi phối trong sáng tác của nhà thơ, nhà
văn. Vì vậy, khi phân tích bài thơ Đường luật cổ giáo viên phải gắn việc tìm
hiểu tác phẩm vào điều kiện lịch sử xã hội cụ thể, đã sản sinh ra tác phẩm, nhận
rõ mỗi quan hệ trong tác phẩm với thời đại với cuộc đời và tư tưởng sáng tác của
tác giả.
Trở lại với văn bản “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão học sinh sẽ hiểu
thêm về hoàn cảnh ra đời, cuộc đời và sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão thong qua
phần chú thích cặn kẽ và phần tiểu dẫn trong SGK.Học sinh cần nắm là :Bài
thơ“Thuật hoài” thuộc loại thơ tỏ chí, nhân vật trữ tình bộc lộ nhận thức và tình
cảm của mình về lẽ sống và ý chí noi theo lẽ sống đó.Thời trung đại ở nước ta
loại thơ nay nhiều, ý nghĩa của nó không chỉ thuộc vào nhân cách và cảnh ngộ
7

của nhân vật trữ tình, mà còn phụ thuộc vào đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử xã
hội khi bài thơ được sáng tác.
Hoặc với bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm cần cho học sinh biết
được đôi nét về tác giả và hoàn cảnh sáng tác bài thơ ngoài chú thích
SGK:Trong bài tựa tập thơ chữ Hán Am Bạch Vân,Nguyễn Bỉnh Khiêm viết”Tôi
lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí
thích nhần dật, lấy cảnh núi non song nước làm vui….” Câu văn đã thâu tóm
những chặng đường đời và cốt cách của Tuyết Giang phu tử.Nguyễn Bỉnh
Khiêm sống ngót gần một thế kỷ(1491- 1585). Mãi 44 tuổi ông mới đi thi.Ông
vôn mang hoài bão kinh bang tế thế, muốn “nâng đỡ vân nước lúc ngả nghiêng,
kéo lại giang san đế kinh được vững vàng như cũ”(Cự ngao đới sơn).Tám năm
làm quan triều Mạc tận mắt chứng kiến sự hủ bại của triều chính đương thời,
ông can đảm dâng sớ xin chém mười tám lộng thần trong đó có cả nhạc phụ của
vua.Không được chấp nhận, ông liền từ quan về sống ở quê nhà.Người ta nói
vào chốn quan trường không dễ, thoát ly nó cũng không hề dễ. Tài năng và
phẩm cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến ông làm được hai điều khó khăn
đó.Về ở ẩn chí sĩ vui vơi cảnh điền viên, được làm người ung dung tự tại.Vì vậy
giúp học sinh hiểu được quan niệm sống nhàn và cảm nhận được vẻ đẹp nhân
cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Hay với bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” cần giúp học sinh hiểu một số nét
cơ bản về số phận bất hạnh của người phụ nữ tài sắc Tiểu Thanh qua cái nhìn và
cảm nhận của thiêu tài Nguyễn Du. Cảm hứng bao trùm bài thơ nói riêng và
xuyên suốt các sáng tác của Nguyễn Du nói chung: thương xót cho số phận bất
hạnh của ngưòi phụ nữ tài sắc, sự đau đớn xót xa, tiếc nuối khi phải chúng kiến
những giá trị tinh thần cao đẹp của con người bị vùi dập.
3. Khám phá hình thức nghệ thuật:
Các bài thơ cổ thường dùng những hình ảnh lối nối lệ tượng trưng, ít tả
các chi tiết chân thực có trong đời sống xã hội mà thiên về những cái không
8
hoàn toàn xác thực, nhưng có sức gợi cảm và mang ý nghĩa tượng trưng theo

công thức có sẵn hoặc những hình thức tu từ rất văn chương, hoa mĩ. Đây chính
là đặc trưng nổi bật của “ Văn dĩ tải đạo” (Văn chương chủ yếu tuyên truyền –
giáo huấn về đạo đức nho giáo). Vì vậy, những tác phẩm văn chương đi ngược
lại những nguyên lý đạo đức Nho giáo không được coi là mẫu mực. Những tác
phẩm thơ cổ phải thấm nhuần tính chất quy phạm của quan điểm mĩ học phong
kiến, do đó phải tuân theo những quy định hết sức nghiêm ngặt.
Ở nội dung này tôi sẽ trao đổi về việc tìm hiểu hình thức nghệ thuật qua
văn bản thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật :Văn bản “Nhàn” của Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Chúng ta biết: Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật rất chặt chẽ về kết
cấu và niêm luật. Qua bốn phần: đề - thực – luận – kết, cấu tứ của bài thơ ngày
càng lộ dần theo trình tự lô gíc, có sự mở rộng và nâng cao dần. Giữa “thực ”và
“luận” nhiều khi ranh giới không rõ ràng. Còn giữa “đề” và “kết” lại có quan hệ
hết sức mật thiết từ hình thức đến nội dung. Như vậy có thể dựa vào kết cấu
từng phần để cắt ngang phân tích tác phẩm rồi cuối cùng tổng hợp lại hoặc phân
tích theo mạch cảm xúc của tác giả.
Khi tiến hành phân tích bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bài thơ
thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật chữ Nôm.Có thể đơn thuần phân tích
theo bố cục bốn phần: đề - thực – luận – kết. Nhưng theo các vấn đề chủ yếu
trong văn bản chúng ta thấy rõ không theo kết cấu : đề- thực- luận – kết. Nhưng
theo mạch cảm xúc của tác giả thì chúng ta có thể có thể thể phân tích như sau:
Vẻ đẹp cuộc sống ở Bạch Vân am của Nguyễn Bỉnh Khiêm (trong câu 1
và 2, câu 5 và 6).
Đó là cuộc sống lao động như một lão nông tri điền ở nông thôn, một ông
tiều nơi rừng núi với những công cụ lao động: đào đất, chiếc cuốc để cuốc, xới
9
vườn, chiếc cần câu cá. Điệp số từ một cho thấy tất cả đã sẵn sàng, chu đáo, còn
cho thấy sự ung dung, thanh thản của con người.
Vốn là một quan lớn triều Mạc mà bây giờ về ở nơi rừng núi sống một
cuộc sống đơn giản như: cày ruộng, đào giếng, câu cá….Như thế chẳng bản lĩnh

lắm sao? Đó là một cuộc sống thuần hậu tự cung, tự cấp, đó lại là cái vui thú tự
nhiên
Cuộc sống này gợi nhớ cuộc sống của Nguyễn Trãi ở Côn Sơn. Hai nhà
nho, nhà thơ lớn ở hai thế kỉ nhưng lại có hoàn cảnh một quãng đời gần nhau và
một tấm lòng, một lẽ nhân sinh rất gần.
Đó là một cuộc sống đạm bạc thanh cao. Đạm bạc mà không khắc khổ,
đạm bạc mà thanh nhã, thanh thản. Đó là cuộc sống chan hòa với tự nhiên, với
thiên nhiên.
Hai câu thơ như vẽ bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với các cảnh
sinh hoạt mùa nào thức ấy, có mùi vị, có hương sắc, nhẹ nhàng , trong sáng.
Vẻ đẹo nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua hai câu 3-4, 7-8
Một phẩm chất quan trọng của người trí thức chân chính là luôn có ý thức
sâu sắc về sự sống, ở Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có điều đó. Nhà thơ so sánh lối
sống của mình với lối sống của người đời, và tự nhận mình dại vì không như
thói thường của thế nhân.
Câu thơ mang ý vị mỉa mai. Theo cách nghĩ thông thường thì quả là khôn
ngoan khi từ bỏ cuộc sống phú quý hiển vinh đến với cuộc sống đơn sơ thanh
đạm.
Nhà thơ tìm đến rượu, uống say, để chiêm bao, để nhận ra lẽ sống, nhân
cách trí tuệ. Công danh, phú quý, của cải trên đời chỉ như một giắc mơ dưới gốc
cây hòe thoảng qua, chẳng có ý nghĩa gì. Cái tồn tại mãi, cái vĩnh hằng chính là
thiên nhiên và nhân cách con người.
10
Tấm lòng thanh sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật đối nghịch với hiện
tình đó, ông chỉ biết khinh bỉ tột độ cái xấu, cái ác. Trong hoàn cảnh đương thời
những người trí thức như Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ biết lui về với lẽ sống “độc
thiện kì nhân” lối sống thật đáng trân trọng.
Như vậy, để khám phá sự sáng tạo độc đáo của tác giả trong những bài
thơ Đường luật cổ không đơn giản, nhưng không phải là không thể thực hiện
được. Tuy nhiên để học sinh có thể cảm nhận được một cách sâu sắc, khám phá

được cái hay, cái đẹp của bài thơ thì phải dựa vào từng tác phẩm, cụ thể để khơi
gợi sự tìm tòi của các em. Đây là bước quan trọng để hiểu rõ, hiểu đúng về nội
dung tư tưởng bài thơ.
4. Tiến trình bài dạy trên lớp:
Kết hợp giữa những phương pháp hiệu quả của chương trình SGK cũ và
mới, bản thân tôi đã thực hiện trong các tiết dạy văn bản nói chung, hai tác phẩm
trên nói riêng thương theo trình tự sau trong khi dạy bài mới.
I. Đọc, tìm hiểu chung:
1. Tác giả, tác phẩm:
Hướng dẫn học sinh đọc hoặc theo dõi phần chú thích về tác giả, tác
phẩm. Yêu cầu các em nêu một số nét tiêu biểu về cuộc đời, sự nghiệp tác giả
cũng như những vấn đề có liên quan đến tác phẩm. Sau đó giáo viên cung cấp
thêm cho học sinh những kiến thức về tác giả, tác phẩm mà trong SGK chưa có
để học sinh hiểu thêm về tác giả, tác phẩm dễ hơn trong quá tình phân tích, tìm
hiểu tác phẩm.
2. Đọc, tìm hiểu từ khó:
Đây là bước quan trọng, để tìm hiểu tác phẩm giáo viên phải hướng dẫn
cặn kẽ học sinh về giọng đọc từng câu, (nếu thấy cần thiết), cách ngắt nhịp, giáo
11
viên đọc mẫu hoặc gọi học sinh rồi cho lớp nhận xét. Phần đọc còn được kết hợp
khi phân tích bài thơ hoặc khi củng cố bài.
Tiếp theo hướng dẫn học sinh, tìm hiểu và giải thích từ khó để các em
hiểu nội dung bài thơ.
3. Tìm hiểu thể loại:
Học sinh căn cứ vào số câu trong bài số tiếng trong dòng thơ để xác định
đó là thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật hay thất ngôn bát cú Đường Luật.
Từ đó định hướng cho phần phân tích tác phẩm.
4. Bố cục:
Phần này không bắt buộc, nếu giáo viên thấy cần thiết tìm hiểu bài thơ
Đường luật theo mạch cảm xúc của tác giả; có thể theo học sinh tìm bố cục, nội

dung cơ bản từng phần.
II. phân tích:
Như đã trình bày ở phần trên với bài thơ: Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật
hoặc thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có thể phân tích theo từng câu hoặc theo
mạch cảm xúc bài thơ. Còn với bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật cũng có thể
phân tích theo hai cách: theo bố cục 4 phần (Hai câu đề, hai câu thực, hai câu
luận, hai câu kết); hoặc theo mạch cảm xúc.
Chẳng hạn với bài thơ “Cảnh ngày hè” ta có thể phân tích bài thơ theo hai
nội dung:
Bức tranh thiên nhiên
Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi
Cùng với quá trình phân tích giáo viên cần chủ động sáng tạo khi tiếp
nhận những định hướng giảng dạy trong SGK và các tài liệu tham khảo chuyển
12
hóa vào giáo án của mình và với mỗi đối tượng học sinh cần có những phương
pháp dạy phù hợp. Giáo viên nên gắn hệ thống câu hỏi trong phần đọc, hiểu văn
bản trong quá trình giảng dạy cho phù hợp. Đặc biệt cần có một vài câu hỏi nêu
vấn đề để học sinh tranh luận trình bày ý kiến cá nhân của mình về việc hiểu
một từ, một câu nào đó trong bài thơ để khơi gợi sự tìm tòi của các em. Chẳng
hạn trong bài “Đọc Tiểu Thanh kí” giáo viên có thể đưa : Tại sao Nguyễn Du
cho rằng nỗi hờn kim cổ ấy trời khôn hỏi tức là không thể hỏi trời được? Ba chữ
Trời khôn hỏi cho ta hình dung giọng điệu của câu thơ và thái độ của tác giả như
thế nào? Học sinh đưa ra ý kiến giáo viên chốt lại vấn đề.
“Không thể hỏi trời được” vì đó là một câu hỏi mà từ xưa đến nay chưa có
lời đáp. Hỏi trời vô ích vì trời cũng bất lực không trả lời được. Thực tế nghiệt
ngã ấy vẫn cứ diễn ra.
Giọng oán trách , thể hiện thái độ bất bình của nhà thơ khi ý thức về sự
chà đạp tài năng, nhan sắc đã và đang tồn tại trong xã hội phong kiến.
III. Tổng kết:
Để tổng kết củng cố cần hướng dẫn học sinh thâu tóm lại nội dung tư

tương và những nét nghệ thuật đặc sắc của bài thơ theo định hướng của phần ghi
nhớ.
Gọi hai học sinh đọc phần ghi nhớ.
IV. Luyện tập:
Dành 5 đến 7 phút để học sinh đọc lại bài thơ, thực hiện phần luyện tập
theo yêu cầu SGK.
V. Củng cố dặn dò:
Học thuộc lòng (Đọc diễn cảm) bài thơ, tập ngâm bài thơ.
Học và chuẩn bị bài mới.
13
PHẦN THỨ BA- KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Để thực hiện đề tài này,tôi đã tiến hành khảo sát ở hai lớp của trường qua
bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” (Nguyễn Du) .Trong đó lớp 10A5 với 39 học sinh,
lớp 10A6 với 37 học sinh. Tôi vẫn lên lớp theo trình tự:
I. Đọc, tìm hiểu chung
II. Phân tích
III. Tổng kết
IV. Luyện tập.
Tôi đã thu nhận được kết quả tương đối khác nhau ở hai lớp khác nhau.
Thứ nhất: Ở lớp 10A5 tôi chưa chú ý hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ
trước khi đọc bài thơ mà chỉ hướng dẫn sao cho diễn cảm. Kết quả cả 3 hoc sinh
được gọi đọc đều chưa đạt được theo ý muốn của tôi. Sang lớp 10A6 tôi đã chú
ý hướng dẫn đọc tỉ mỉ cho học sinh từng, từng ý. Trong đó tôi đã có chú ý cho
học sinh về hoàn cảnh ra đời của bài thơ này để các em hiểu được phần nào nỗi
lòng của tác giả. Sau đó tôi gọi một học sinh đọc theo hướng dẫn. Em này đọc
có khá hơn so với 3 học sinh lớp 10A5, nhưng vẫn chưa toát hết được hàm ý của
bài thơ. Tôi đã đọc mẫu một lần và gọi hai học sinh đọc tiếp kết quả các em đọc
rất tốt.
Thứ hai: Khi dạy lớp 10A5 về việc tìm hiểu thể thơ thất ngôn bát cú

Đường Luật trong bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” (Nguyễn Du), tôi gọi một em
đọc phần chú thích (*) trong SGK rồi yêu cầu các em về nhà nghiên cứu. Nhưng
sang tiết học sau tôi hỏi học sinh lớp 10A5: Bài thơ này thuộc thể thơ gì? Chỉ có
21/41 học sinh giơ tay phát biểu còn khi dạy lớp 10A6 ngoài việc yêu cầu học
sinh theo dõi về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo chú thích SGK tôi đã
14
minh họa cụ thể bằng các câu thơ trong bài về vần niên, luật, cách gieo vần,
đối… Kết quả hôm sau khi kiểm tra bài cũ cũng với câu hỏi như lớp 10A6
nhưng cả 37 học sinh đều nhận diện được bài thơ này thuộc thể thơ thất ngôn bát
cú Đường luật.
Thứ ba: Trong quá trình phân tích bài thơ mặc dù lớp 10A6 số học sinh
khá ít hơn lớp 10A5, nhưng các em làm việc rất tích cực, các câu hỏi mà tôi đưa
ra các em trả lời đa số như định hướng. Còn ở lớp 10A5 nhiều câu trả lời còn
lúng túng, tôi phải đưa ra các câu hỏi gợi mở.
Thứ tư: Tôi đã cho học sinh làm bài khảo sát 5 phút với câu hỏi như
sau:Nguyễn Du đã tự xem mình là người cùng hội cùng thuyền với ai. Tại sao
Nguyễn Du lại tự nhận như vậy?. Kết quả là:
- Lớp 10A5 có 39/39 học sinh đạt điểm trung bình trở lên trong đó:
- Điểm 9: có 5 học sinh.
- Điểm 7,8 có 17 học sinh
- Điểm 5,6 có 15 học sinh
- Điểm 4 có 2 học sinh
- Lớp 10A6 có 31/ học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên trong đó:
- Điểm 9 có 2 học sinh
- Điểm 7,8 có 10 học sinh
- Điểm 5,6 có 19 học sinh
- Điểm 3,4 có 6 học sinh.
Như thế bằng một số kinh nghiệm của mình rút ra được trong quá trình
giảng dạy tôi thấy mình đã đạt được kết quả nhất định.
15

II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:
Trước đây, khi mới ra trường được phân dạy lớp 10 cũng với những bài
thơ cổ Việt Nam thuộc thể Đường luật tôi cảm thấy việc truyền thụ nội dung tư
tưởng cũng như khám phá hình thức nghệ thuật ở mỗi tác phẩm, tới học sinh còn
hời hợt. Cả giáo viên và học sinh còn thấy lúng túng trong những giờ học văn
thơ cổ.
Sau một số năm công tác, nhất là từ khi thực hiện chương trình SGK mới.
Bằng kinh nghiệm bản thân và học hỏi đồng nghiệp, tôi đã tự tin tưởng hơn
trong những giờ lên lớp khi dạy những bài thơ cổ Việt Nam, thuộc thể Đường
luật. Tuy là học sinh lớp 10 nhưng các em đã biết đọc thơ khá hơn, tiếp thu bài
thơ nhanh hơn, tỏ ra hào hứng trong khi tiếp thu bài. Học sinh nắm vững nội
dung tư tưởng, cũng như đã khám phá khá tốt về hình thức nghệ thuật của tác
phẩm.
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với đồng nghiệp, tôi thấy rằng: Để có
thể dạy được một giờ Ngữ văn thuộc tiết văn cho thật sự có chất văn thì không
phải là việc làm rõ ràng đối với mọi giáo viên dạy văn. Giảng văn không phải là
giáo viên luôn dùng phương pháp thuyết trình, đưa ra những lời lẻ văn vẻ, càng
không phải là chỉ hỏi, đáp thuần túy mà phải linh hoạt, thu hút và tạo phấn khởi
cho học sinh. Nhất là những bài thơ cổ Việt Nam thuộc thể thơ Đường luật,
người giáo viên càng phải đầu tư suy nghĩ nhiều cho bài giảng của mình đạt hiểu
quả cao. Ở trên tôi đã trình bày “Hàng rào ngôn ngữ” của các bài thơ cổ Việt
Nam thuộc thể thơ Đường luật đã có nhiều ngăn cách khá hơn không chỉ với học
sinh mà với cả giáo viên. Do đó phải đọc đi đọc lại nhiều lần, phải học hỏi nhiều
để nắm được nghĩa của từng từ, từng chữ, từng câu… Có như thế mới chủ động
trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh. Mặt khác, cần tham khảo
nhiều tài liệu có liên quan đến bài dạy, nắm được những thông tin chính xác và
cần thiết về tác giả, tác phẩm về hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm… để vận
dụng vào bài giảng khi cần thiết.
16
Tuy nhiên, sự chuẩn bị bài chu đáo của hoc sinh ở nhà là điều vô cùng

quan trọng. Vì thế giáo viên cần đạt yêu cầu cho (khích lệ, động viên) với học
sinh trong việc chuẩn bị bài ở nhà để đến lớp các em không bị động. Và giáo
viên cũng cần chú ý phân loại đối tượng học sinh để các em đều được tiếp thu
kiến thức.
Trên đây, là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đúc rút được sau một số
năm công tác. Với tuổi đời, tuổi nghề còn trẻ, và vốn kiến thức hạn hẹp tôi
không có tham vọng đưa ra được những vấn đề lớn trong việc giảng dạy những
tác phẩm thơ cổ Việt Nam thuộc thể thơ Đường Luật mà chỉ tìm hiểu một vấn đề
nhỏ.
Đề tài hoàn thành xong, chắc chắn còn nhiều thiếu xót, khiếm khuyết. Vì
vậy, tôi mong có sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để đề tài hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
17
MỤC LỤC
Phần thứ nhất: Đặc vấn đề; Trang 1
I. Lời mở đầu
II. Thực trạng của việc dạy học văn thơ cổ Việt Nam thuộc thể đường luật
trong trường THCS hiện nay
Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề Trang 3
I. Các giải pháp thực hiện
II. Các biện pháp để có thể dạy tốt một bài thơ cổ Việt Nam thuộc thể thơ
đường luật.
Phần thứ ba: Kết luận Trang 14
I. Kết quả nghiên cứu
II. Kiến nghị, đề xuất
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- SGK Ngữ văn10, tập 1 (NXBGD)
- SGV Ngữ văn 10 tập 1 (NXBGD)

- Sách bài tập Ngữ văn 10 tập 1 (NXBGD)
- Phương pháp dạy – học văn – Nguyễn Văn Đồng chủ biên (NXBGD-1994)
- Văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường(NXBGD
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh hóa ngày 5 tháng 6 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nôi dung của người khác.
Người viết
PHAN THỊ MINH


19

×