chơng VII: Chủ thể của tội phạm
1. Khái niệm về chủ thể của tội phạm
Khi có một tội phạm xảy ra, ngời có HV nguy hiểm
cho xã hội, trái pháp luật hình sự bị coi là chủ thể (CT)
của tội phạm
Xuất phát từ nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc cá nhân
chịu TNHS, chủ thể của tội phạm trớc hết là con ngời
cụ thể (1)
Pháp nhân không thể là chủ thể của tội phạm vì HV có
lỗi là hành vi của một ngời nào đó. Hơn nữa, trong
LHS có một số hình phạt không thể áp dụng đợc với
pháp nhân nh: tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
Quan điểm này có thể bị thay đổi.
Động vật cũng không thể là CT của TP vì HV phạm tội là
HV có ý thức và ý chí. Hoạt động của con vật chỉ là những
hoạt động mang tính bản năng hoặc là phản xạ có điều kiện.
HV phạm tội là HV có lỗi nên CT của TP phải có đủ điều
kiện để xác định là có lỗi. Điều kiện ấy là: Ngời thực hiện
HV nguy hiểm cho xã hội là ngời phải có năng lực trách
nhiệm hình sự (NLTNHS).(2)
Ngời có NLTNHS là ngời khi thực hiện HV nguy hiểm
cho xã hội đã nhận thức đợc ý nghĩa xã hội của HV mà
mình thực hiện và điều khiển đợc HV đó.
Hình phạt đợc áp dụng nhằm cải tạo, giáo dục ngời phạm
tội, do vậy nếu ngời có HV nguy hiểm mà không có
NLTNHS thì việc áp dụng hình phạt với họ sẽ trở thành vô
nghĩa
Để có đợc năng lực nhận thức và năng lực điều khiển
HV thì con ngời phải đạt đến một độ tuổi nhất định.
Do vậy độ tuổi là một điều kiện của CT của TP (3)
Do sự non nớt của lứa tuổi nên trẻ em (dới 14 tuổi)
cha có NLTNHS. Do đó, nếu họ thực hiện HV nguy
hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự cũng không phải
chịu TNHS
Từ (1), (2) và (3) có thể kết luận: CT của TP là ngời
đã thực hiện HV phạm tội trong điều kiện ngời ấy có
NLTNHS và đạt đến một độ tuổi nhất định
Hai điều kiện: NLTNHS và tuổi chịu TNHS đợc phản
ánh là 2 dấu hiệu bắt buộc của yếu tố chủ thể nên
chúng có mặt trong tất cả các CTTP cụ thể
2. Năng lực trách nhiệm hình sự
2.1. Khái niệm về NLTNHS
NLTNHS là khả năng nhận thức và khả năng điều
khiển hành vi của chủ thể
Ngời có NLTNHS là ngời khi thực hiện HV nguy
hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đợc tính
chất nguy hiểm cho xã hội của HV của mình và có
khả năng điều khiển đợc HV ấy
Năng lực nêu trên là năng lực vốn có của con ngời,
nhng nó sẽ hoàn thiện dần qua quá trình giáo dục
và tự giáo dục. Đây là lý do của việc quy định độ
tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)
NLTNHS ở một ngời nào đó, dù là ngời đã thành
niên, có thể bị hạn chế hoặc bị mất hẳn nếu hoạt động
của bộ não bị rối loạn do bệnh tật. Trờng hợp này đợc
BLHS quy định tại Điều 13.
Theo LHS thì ngời có NLTNHS là ngời đạt độ tuổi
theo quy định tại Điều 12 và không thuộc trờng hợp
quy định tại Điều 13 BLHS
LHS không quy định trực tiếp thế nào là có NLTNHS
mà chỉ quy đinh tuổi chịu TNHS và tình trạng không có
NLTNHS. Nh vậy là đã mặc nhiên thừa nhận ngời đủ
tuổi chịu TNHS là có NLTNHS.
Nếu nghi ngờ NLTNHS của ngời đủ tuổi chịu TNHS
thì cần trng cầu giám định tâm thần đối với ngời đó.
2.2. Tình trạng không có NLTNHS
Ngời phát triển bình thờng về tâm - sinh lý sẽ có
NLTNHS khi ngời ấy đạt độ tuổi nhất định theo quy định
của LHS
NLTNHS sẽ không có hoặc mất nếu mắc bệnh liên quan
đến hoạt động tâm thần. Đó là tình trạng không có
NLTNHS
Ngời ở trong tình trạng không có NLTNHS là ngời
đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình.
Có 2 dấu hiệu để xác định tình trạng không có NLTNHS,
đó là (i): Dấu hiệu y học và (ii): Dấu hiệu tâm lý
2.2.1. Dấu hiệu y học
Ngời không có NLTNHS là ngời mắc bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác. Các bệnh có thể mắc phải là:
Bệnh tâm thần: Các bệnh rối loạn hoạt động của não bộ
Bệnh rối loạn bẩm sinh: bệnh đao, thiểu năng trí tuệ
Bệnh tâm thần kinh niên: các bệnh dạng tâm thần phân liệt
Bệnh tâm thần nhất thời: động kinh
Các bệnh khác: Các bênh thể chất nhng gây ra rối loạn về
hoạt động của bộ não: viêm màng não, sốt rét ác tính
2.2.2. Dấu hiệu tâm lý
Ngời không có NLTNHS là ngời mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.
Xét về mặt tâm lý thì khả năng nhận thức là khả năng
của lý trí còn khả năng điều khiển là khả năng của ý chí
Thông thờng, nếu một ngời mất khả năng nhận thức
(lý trí) thì cũng mất khả năng điều khiển (ý chí) hành vi
và đó là ngời không có NLTNHS.
Nếu một ngời có khả năng nhận thức nhng mất khả
năng điều khiển hành vi thì cũng bị coi là ngời không
có NLTNHS
Để coi một ngời nào đó là ngời không có NLTNHS thì
cả 2 dấu hiệu: y học và tâm lý phải đợc thoả mãn
Hai dấu hiệu y học và tâm lý có quan hệ nhân quả với
nhau, trong đó dấu hiệu y học là nguyên nhân, dấu hiệu
tâm lý là kết quả
Dấu hiệu y học quyết định dấu hiệu tâm lý nhng không
loại trừ khả năng một ngời mắc bệnh tâm thần nhng khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi vẫn tồn tại
và nh vậy sẽ không loại trừ TNHS đối với ngời đó
Khả năng nhận thức, khả năng điều khiển phụ thuộc vào
loại bệnh, mức độ bệnh tật và tính chất của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thực hiện.
Khi trng cầu giám định tâm thần t pháp cần yêu cầu
giám định viên trả lời các vấn đề sau:
Ngời đợc đa ra giám định có mắc bệnh tâm thần hay
không? Nếu có thì mức độ bệnh nh thế nào?
Tại thời điểm thực hiện HV nguy hiểm cho xã hội thì ng
ời đó có nhận thức đợc, điều khiển đợc HV không?
LHS cũng thừa nhận trờng hợp NLTNHS hạn
chế.
NLTNHS hạn chế là trờng hợp một ngời vì
mắc bệnh mà khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi bị suy giảm nhng không mất
hẳn
Ngời ở trong trờng hợp có NLTNHS hạn chế
vẫn là ngời có lỗi nhng mức đọ lỗi là hạn chế
nên vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình
Tình trạng NLTNHS hạn chế đợc coi là tình tiết
giảm nhẹ TNHS
2.3. Vấn đề NLTNHS của ng0ời trong tình trạng say do
dùng r0ợu hoặc chất kích thích mạnh khác.
Năng lực nhận thức và năng lực điều khiển HV của con
ngời sẽ bị ảnh hởng nếu ngời đó say do dùng rợu
hoặc chất kích thích mạnh khác. Những năng lực ấy có
thể bị hạn chế hoặc thậm chí bị loại trừ trong tình trạng
say.
Điều 14 BLHS99 quy định: Ngời phạm tội trong tình
trạng say do dùng rợu hoặc chất kích thích mạnh khác
thì vẫn phải chịu TNHS
Theo Điều 14, ngời say bị coi là ngời có NLTNHS
mặc dù trên thực tế năng lực đó bị hạn chế thậm chí bị
loại trừ.
Tự đặt mình vào tình trạng say nghĩa là tự tớc
bỏ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển
HV của mình cũng có nghĩa là tự đặt mình vào
tình trạng NLTNHS hạn chế hoặc bị loại trừ
Ngời say có lỗi đối với tình trạng say của mình
và có lỗi trong HV nguy hiểm cho xã hội mà họ
thực hiện khi say.
Không có lỗi đối với tình trạng say của mình sẽ
đợc coi là không có NLTNHS nếu tình trạng
say làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi.
3. Tuổi chịu TNHS
NLTNHS là năng lực tự ý thức và đợc hình thành, phát
triển qua quá trình giáo dục, tự giáo dục. Nh vậy,
NLTNHS hình thành khi con ngời đạt đến một độ tuổi
nhất định, trừ trờng hợp nêu tại Điều 13 BLHS99.
Căn cứ vào tâm lý lứa tuổi, chính sách hình sự của mỗi
Quốc gia, BLHS quy định lứa tuổi bắt đầu có NLTNHS
và lứa tuổi có NLTNHS đầy đủ. Điều này có thể thay
đổi theo thời kỳ.
LHS Việt Nam quy định tuổi bắt đầu chịu TNHS là 14
và tuổi chịu TNHS đầy đủ là 16 (Điều 12 BLHS99).
Ngời dới 14 tuổi thực hiện HV nguy hiểm cho xã hội
đợc coi là không có lỗi vì cha có NLTNHS
4. Chủ thể đặc biệt của tội phạm
Chủ thể đặc biệt (CTĐB) của TP là chủ thể mà ngoài
hai dấu hiệu NLTNHS và tuổi chịu TNHS còn có thêm
dấu hiệu đặc biệt khác và chỉ với dấu hiệu đặc biệt ấy
chủ thể mới có thể thực hiện đợc tội phạm nhất định.
Truy cứu TNHS một ngời không phải bởi họ có đặc
điểm đó mà vì có đặc điểm đó họ mới thực hiện đợc
tội phạm nhất định.
Những đặc điểm đặc biệt có thể là:
Những đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn:
Trong tội tham ô (Điều 278), tội nhận hối lộ (Điều 279)
Các đặc điểm về giới tính: Tội hiếp dâm (Điều 111)
Các đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công
việc: Tội vi phạm các quy định về điều khiển tàu bay (Điều
216)
Các đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện: Tội
trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259), tội không chấp
hành án (Điều 304)
Các đặc điểm về độ tuổi: Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115)
Các đặc điểm về quan hệ gia đình, họ hàng: Tội loạn luân
(Điều 150)
Những đặc điểm này nếu đợc CTTP phản ánh thì trở thành
dấu hiệu bắt buộc và có ý nghĩa trong định tội.
Coi là đồng phạm với CTĐB nếu ngời trực tiếp thực hiện
tội phạm có đặc điểm đó, với những ngời đồng phạm khác
(tổ chức, xúi giục, giúp sức) điều này không đặt ra.
5. VÊn ®Ò nh©n th©n ng0êi ph¹m téi
Con người là một khái niệm vừa có ý nghĩa sinh học
vừa có ý nghĩa xã hội. Nhân thân là khái niệm chỉ bao
hàm những đặc điểm về xã hội, về tâm lý và một số đặc
điểm nhân chủng học có ý nghĩa về mặt xã hội như
tuổi, giới tính
Nhân thân người phạm tội (NTNPT) là tổng hợp
những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý
nghĩa trong việc giải quyết vấn đề TNHS của người
phạm tội
Khái niệm nhân thân người phạm tội và khái niệm CT
của TP không đồng nhất với nhau nhưng có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Những đặc điểm thuộc về nhân thân ngời phạm tội có thể
là: Tuổi, nghề nghiệp, thái đọ lao động, công tác, quan hệ
với mọi ngời, trình độ văn hoá, lối sống, ý thức pháp luật,
tiền án, tiền sự
Cỏc c im TL, XH
NLTNHS
Tui chu TNHS
Ngi PT
Nhõn thõn
ngi
phm ti
Ch th
ca
ti phm
Nhân thân ngời phạm tội có ý nghĩa:
Những đặc điểm nhân thân có khi đợc phản ánh là một
tình tiết định tội hoặc định khung
Việc nghiên cứu những đặc điểm về nhân thân cho thấy
khả năng cải tạo, giáo dục con ngời, đánh giá mức độ
nguy hiểm của hành vi nên NTNPT có ý nghĩa trong
việc quyết định hình phạt.
Thông qua NTNPT có khi làm sáng tỏ một số tình tiết
của vụ án
Nghiên cứu những đặc điểm về nhân thân trong một số
trờng hợp có thể giúp công tác điều tra tiến hành
nhanh chóng, đúng hớng