Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.74 KB, 15 trang )

rong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhân loại đang phải đối mặt với
một hiện trạng vô cùng khó xử. Một mặt, cần tăng tối đa nhịp điệu
phát triển kinh tế để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của loài người đang
ngày càng đông lên. Mặt khác, sự chạy đua vũ trang của các nước giàu và
quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước nghèo đã
gây ra nhiều tác động xấu đối với môi trường, đặc biệt đối với hệ sinh
thái – hệ nuôi dưỡng sự sống trên Trái Đất. Thập niên 1980 trở lại đây đã
chứng kiến sự bùng phát các thảm họa môi trường như: hạn hán, lũ lụt, ô
nhiễm không khí và mưa axit, các sự cố hạt nhân và rò rỉ hóa chất độc
hại, sự suy thoái quỹ đất trồng trọt, lan tràn hóa chất bảo vệ thực vật và ô
nhiễm các nguồn nước, thủng tầng ozon, hiệu ứng nhà kính… Sự song
hành của việc bùng nổ dân số với đại dịch AIDS và sự trở lại của các
bệnh dịch thời trung cổ đã một thời được kiểm soát và tiêu diệt như lao,
thương hàn, dịch hạch… Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng môi
trường này là bắt nguồn từ mô hình phát triển lấy tăng trưởng kinh tế làm
trọng tâm, khuyến khích một xã hội tiêu thụ, dựa trên nền tảng những
phát minh công nghệ tiêu tốn năng lượng, tài nguyên và gây ô nhiễm, sự
trốn tránh trách nhiệm đối với thế hệ tương lai thông qua việc không nội
bộ hóa các chi phí môi trường và lạm dụng quá mức tài nguyên thiên
nhiên. Thực tiễn này đòi hỏi cần phải có biện pháp đúng đắn để đưa nhân
loại thoát ra khỏi tình cảnh khó xử đó – chính là định hướng chiến lược
phát triển bền vững. Môi trường được xác định là một trong ba trụ cột của
phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường).
T


I. Nhận thức chung về môi trường
1. Môi trường là gì ?
Luật bảo vệ Môi trường Việt Nam công bố ngày 12/12/2005 đã nêu:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát


triển của con người và sinh vật.”
“Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường
trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi
trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục
hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học.”
“Thành phần môi trường là các yếu tố vật chất tạo thành môi
trường như: đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh
thái và các hình thái vật chất khác.”
2. Các chức năng cơ bản của môi trường
1
Môi trường có 3 chức năng cơ bản:
a. Tạo không gian sống
Qua nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới cho tới
nay đã xác nhận rằng, trong hệ mặt trời sự sống hầu như chỉ tồn tại ở trái
đất, và duy nhất chỉ có trái đất trong điều kiện bình thường mới có khả
năng duy trì được sự sống của con người.
Lịch sử của loài người đã cho thấy là: trong khi trái đất gần như không
thay đổi về độ lớn, nhưng dân số trên thế giới lại không ngừng gia tăng.
Vì vậy, diện tích đất tự nhiên bình quân đầu người ngày càng giảm sút
nhanh chóng. Ngoài ra, sự phân bố không đều dân số trên thế giới càng
làm gay gắt hơn về không gian sống ở những nơi mật độ dân số tập trung
cao, đặc biệt là ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung của
nhiều quốc gia. Không gian sống bị thu hẹp tất yếu sẽ kéo theo sự suy
giảm chất lượng môi trường sống do không đảm bảo những điều kiện tối
thiểu không gian sống cho phép.
Để đảm bảo cho sự sống có thể tồn tại và phát triển bình thường,
không gian sống có chất lượng cao trước hết phải trong lành, sạch đẹp:
các thành phần môi trường được con người sử dụng không chứa hoặc ít
chứa các chất độc hại đối với sức khỏe của con người; đảm bảo sạch sẽ,

đẹp đẽ, hài hòa đối với con người, tạo sự thoải mái và thư giãn trong cuộc
sống. Không gian sống có chất lượng cao còn phải đảm bảo sự hài hòa
ngay giữa các yếu tố, các bộ phận của môi trường; hạn chế, loại bỏ những
biến động cực đoan ảnh hưởng xấu đến sự sống của trái đất, trong đó con
người phải lệ thuộc vào.
b. Cung cấp tài nguyên thiên nhiên
Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho
sự sống và hoạt động sản xuất của con người. Từ xa xưa cho tới ngày
nay, các nguồn tài nguyên do thiên nhiên ban tặng cho con người với
chủng loại hết sức phong phú và trữ lượng dồi dào. Nhờ vậy cuộc sóng
của con người mới có thể tồn tại và không ngừng phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu.
Tuy nguồn tài nguyên thiên nhiên chứa trong môi trường rất đa dạng
và giàu có, nhưng không phải vô tận. Sự khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên để phục vụ sản xuất và đời sống của con người đã làm
cho các nguồn này ở nhiều nơi bị cạn kiệt. Việc tăng cường thăm dò,
khảo sát, phát hiện thêm nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, cùng với
việc tăng cường mở mang các vùng đất mới, hoặc việc áp dụng các công
nghệ tiên tiến thay thế nguyên, nhiên, vật liệu… chính là những biện pháp
tình thế của con người hiện nay nhằm bù đắp vào sự suy giảm chức năng
của môi trường, mà nguyên nhân chính là do con người gây ra.
c. Nơi chứa đựng, hấp thụ, trung hòa các chất thải độc hại
2
Trong sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất – xã hội, con người không
ngừng thải các loại chất khác nhau vào môi trường. Đồng thời với quá
trình này là quá trình môi trường không ngừng phân hủy, hấp thụ và trung
hòa các chất thải độc hại trở thành vô hại hoặc ít độc nhờ các lực tự nhiên
(vật lí, hóa học, sinh học). Chức năng hấp thụ, trung hòa các chất độc hại
cũng được coi là chức năng tạo sự cân bằng tự nhiên của môi trường
trong hệ sinh thái nuôi dưỡng. Bản thân mỗi yếu tố môi trường đều có

khả năng tự điều chỉnh trong một giới hạn nhất định xoay quanh trạng
thái cân bằng động.
Tuy nhiên, quá trình đó chỉ có thể được đảm bảo khi lượng chất thải
vào môi trường không lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường. Còn
trong điều kiện lượng chất thải độc hại lớn hơn khả năng chứa đựng và
hấp thụ của môi trường, hoặc có chất thải không thể phân hủy tự nhiên
hay là có tính độc cao thì chức năng này của môi trường sẽ không được
đảm bảo. Tức là khi đó môi trường không có khả năng trung hòa các chất
độc hại và sẽ bị ô nhiễm, đe dọa đến sự sống trái đất.
3. Kết luận chung về môi trường
Môi trường có tính hệ thống. Đó là một hệ thống có con người, nên về
bản chất, môi trường là một hệ thống sinh thái nhân văn. IUCN (1996) đã
mô tả hệ thống môi trường bằng mô hình quả trứng: lòng trắng tượng
trưng cho phân hệ nuôi dưỡng sự sống (hệ tự nhiên), lòng đỏ tượng trưng
cho phân hệ xã hội – nhân văn, còn lớp vỏ mong manh của quả trứng
phản ánh tính nhạy cảm, dễ bị tổn thương của hệ thống môi trường.
Đặc trưng của hệ thống môi trường là một hệ thống mở, thường xuyên
biến động, thường xuyên bị đe dọa bởi các quá trình suy thoái, ô nhiễm,
tai biến, khiến cho con người và xã hội luôn phải đối đầu với các vấn đề
về an ninh môi trường. Nghèo đói và áp lực bùng nổ dân số là những sức
ép nội tại, là quá trình tai biến tự thân của hệ thống môi trường. Các quá
trình tai biến nhân sinh đó được tiếp sức khuếch đại nhờ mô hình kinh tế
không bền vững, sự bất bình đẳng và thiếu hợp tác.
Ô nhiễm và suy thoái môi trường đang diễn biến nghiêm trọng trên thế
giới và ở Việt Nam.
II. Nhận thức chung phát triển bền vững
1. Khái niệm
Phát triển (development) hay nói đầy đủ hơn là phát triển kinh tế - xã
hội (socio-economic development) của con người là quá trình nâng cao
về đời sống vật chất tinh thần bằng phát triển sản xuất, tăng cường chất

lượng các hoạt động văn hóa, xã hội. Phát triển là quy luật chung của mọi
thời đại, là mục tiêu trung tâm của các chính phủ và trách nhiệm của các
quốc gia.
3
Hàng năm Liên hợp quốc thường đưa ra các đánh giá tình hình phát
triển ở các quốc gia thông qua các chỉ tiêu cơ bản: Chỉ số phát triển con
người (HDI), Chỉ số về sự tự do của con người (HFI), Chỉ số phát triển
liên quan giới (GDI), Chỉ tiêu đo lường nâng cao vai trò phụ nữ (GEM).
Nhưng thường được quan tâm hơn cả là chỉ tiêu phát triển kinh tế. Phát
triển kinh tế được hiểu là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về qui mô
sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế còn
xem xét đến cả tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu và tính bền
vững.
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm “ Chiến lược bảo tồn Thế giới” (công bố bởi IUCN) với
nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú
trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu
của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh học”.
Trong báo cáo của Ủy ban thế giới về Môi trường và Phát triển của
Liên hợp quốc năm 1987 đã đưa ra khái niệm: “Phát triển bền vững là sự
phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lí nguồn
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, nhằm đáp ứng nhu cầu hiện
tại, nhưng không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ
mai sau”.
2. Nội dung của phát triển bền vững
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững tổ
chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) đã xác định phát triển bền
vững “là quá trình có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí và hài hòa giữa ba mặt
của sự phát triển, đó là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi

trường”.
Phát triển bền vững về mặt kinh tế đòi hỏi phải có cơ cấu kinh tế hợp
lý, phải sử dụng tối ưu các nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế
lâu dài, ổn định. Phát triển bền vững về kinh tế trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế còn được thể hiện ở năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
nói chung cũng như từng doanh nghiệp từng loại sản phẩm nói riêng. Mỗi
quốc gia, một mặt phải biết tận dụng cơ hội do hội nhập quốc tế đem lại,
mặt khác phải có chiến lược phát triển kinh tế phù hợp để hạn chế những
thách thức, những tác động tiêu cực trong quá trình mở cửa nền kinh tế,
như thu hút đầu tư nước ngoài, trong các hoạt động kinh doanh, liên kết
với các công ty nước ngoài, trong xuất nhập khẩu…
Phát triển bền vững về mặt xã hội đòi hỏi phát triển kinh tế đi đôi với
phát triển xã hội: chống đói nghèo, thất nghiệp và bất công xã hội cũng
như cải thiện sâu rộng mọi khía cạnh của cuộc sống cho tất cả mọi người;
đảm bảo sự cân bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, đảm bảo duy trì
4
và phát triển những giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại.
Phát triển bền vững về xã hội phải đảm bảo cho mọi người có cơ hội lựa
chọn, có năng lực lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển và cùng
được hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Phát triển bền vững về mặt môi trường đòi hỏi trong bất kì chiến lược
phát triển nào theo hướng bền vững cũng phải tính toán kĩ tác động qua
lại giữa con người và thiên nhiên sao cho sự phát triển kinh tế - xã hội
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người trong khuôn khổ đảm bảo
cân bằng các hệ sinh thái. Cần phải thực hiện tốt công tác xử lí, khắc
phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống
cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lí và sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên
Các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường của phát triển bền vững
phải được tổng hòa, kết hợp, lồng ghép vào nhau khi có thể một cách có

hiệu quả trong các chính sách, cơ chế, công cụ và quá trình thực hiện
chính sách.
3. Các nguyên tắc phát triển bền vững
- Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng
- Cải thiện chất lượng cuộc sống con người
- Bảo vệ sự sống và tính đa dạng của trái đất
- Hạn chế tới mức thấp nhất việc làm suy giảm nguồn tài nguyên
không tái tạo
- Giữ vững khả năng chịu đựng của trái đất
- Thay đổi thái độ và thói quen của mỗi người
- Cho phép các cộng đồng tự quản lí lấy môi trường của mình
- Tạo ra một cơ cấu quốc gia thống nhất cho việc phát triển và bảo vệ
- Kiến tạo một cơ cấu liên minh toàn cầu
Có thể thấy bảo vệ môi trường chính là điều kiện cần cho sự phát triển
bền vững.
III. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển
1. Các tác động của phát triển đến môi trường
a. Khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Quá trình sản xuất và hoạt động đời sống của con người chính là quá
trình liên tục khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên
thiên nhiên khác nhau. Nhìn chung, quá trình này ngày càng có qui mô
rộng lớn và với nhiều hình thức phong phú và đa dạng hơn. Nếu mức khai
thác nhỏ hơn khả năng phục hồi nguồn tài nguyên, hoặc quá trình khai
thác, sử dụng nguồn tài nguyên hợp lí thì môi trường được cải thiện.
Ngược lại, nếu mức khai thác lớn hơn khả năng phục hồi, hoặc khai thác,
5
sử dụng nguồn tài nguyên có tính chất hủy hoại thì môi trường sẽ không
được cải thiện, mà thường bị suy thoái.
Thảm họa biển Aral là một bài học đắt giá cho thế giới về việc khai
thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cụ thể là nguồn nước.

Biển Aral là một vùng bồn địa trũng gồm một vài hồ nước mặn nằm ở
Trung Á với diện tích bề mặt nước khoảng 68.000 km
2
. Biển được cung
cấp nước bởi hai con sông Amu Darya và Syr Darya. Từ năm 1918, chính
quyền Liên Xô đã quyết định lấy nước từ 2 con sông này để phục vụ tưới
tiêu sa mạc trong vùng, biến vùng đất khô cằn quanh biển Aral thành
những đồng lúa, dưa, ngũ cốc và bông. Những sản phẩm nông sản này đã
mang lại lợi ích kinh tế to lớn, đưa Liên Xô trở thành một trong các quốc
gia xuất khẩu bông hàng đầu thế giới. Cho đến năm 1960, một lượng
nước từ 20 đến 50 tỉ m
3
hàng năm được dẫn đến các cánh đồng thay vì
chảy vào biển Aral. Mất một lượng nước bổ sung lớn, biển Aral bắt đầu
co rút từ thập niên 1960. Tính đến hiện nay, biển Aral đã mất 60% diện
tích mặt nước và 80% lượng nước. Biển đang “chết dần” và không có khả
năng khôi phục lại. Hệ sinh thái của biển Aral và những châu thổ sông đổ
nước vào nó gần như bị hủy diệt, không chỉ bởi nồng độ muối quá cao.
Biển rút đi để lại những vùng đất mênh mông bị phủ bởi muối và các hóa
chất độc, những chất này được gió đưa đi quanh vùng dưới dạng bụi. Đất
đai quanh biển Aral đã bị ô nhiễm nặng nề và người dân sống trong vùng
thiếu nước sạch, mắc phải một số căn bệnh nguy hiểm như ung thư, bệnh
về phổi. Mùa màng bị tàn phá bởi muối xâm nhập vào đất. Thảm họa của
biển Aral để lại bài học đắt giá cho chính phủ các nước về khai thác, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên.
6

×