MỞ ĐẦU
Việt Nam là quốc gia có bờ biển trải dài hơn 3260 km cùng với các hệ thống
sông ngòi trong nội địa rộng lớn, đã tạo nên nguồn lợi thủy sản vô cùng đa dạng và
phong phú. Đây chính là các yếu tố tạo nên tầm quan trọng của việc phát triển
ngành thuỷ sản. Nhờ công cuộc đổi mới và các cải cách về thị trường, ngành thuỷ
sản trong những năm gần đây đều đạt tốc độ tăng trưởng hằng năm từ 5 – 12% về
sản lượng, chính vì thế, đã góp phần cải thiện tình hình kinh tế - xã hội, xoá đói
giảm nghèo, thúc đẩy sinh kế bền vững và tạo việc làm cho cư dân các khu vực
nông thôn. Thuỷ sản thực sự là một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển
của Việt Nam. Nếu so sánh với canh tác lúa thông thường, các sản phẩm từ hoạt
động sản xuất thuỷ hải sản đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho các hộ gia đình
nông thôn đồng thời cũng làm phong phú chế độ dinh dưỡng của các gia đình [7].
Theo ước tính, có rất nhiều người đã và đang sống nhờ phần lớn vào các hoạt
động đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản ở hệ thống đầm phá. Tuy nhiên, chính
những hoạt động này lại đang tạo ra một sức ép đáng kể lên hệ thống sinh thái môi
trường đầm phá và các nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn liền với nó.
Đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An tỉnh Phú Yên, một tỉnh duyên hải Nam
Trung Bộ với diện tích tự nhiên khoảng 1570 ha, nổi tiếng với nguồn lợi thủy sản
như tôm, cá, sò huyết, cua ghẹ, hàu, Từ những năm 1990 khi phong trào nuôi tôm
phát triển mạnh đã có trên 360 ha ao đìa nuôi tôm, đã tạo ra lượng sản phẩm thủy
sản lớn cho xã hội, tạo thêm việc làm góp phần tăng thêm thu nhập cho một số bộ
phận ngư dân. Tuy nhiên, các ao đìa nuôi tôm hầu hết được xây dựng tự phát nên đã
gây tác động ảnh hưởng xấu đến cảnh quan môi trường và hệ sinh thái đầm [13].
Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An, những
năm gần đây, đã có hai lần xảy ra ô nhiễm nghiêm trọng làm cho môi trường đầm bị
xuống cấp, cá chết hàng loạt. Lần thứ nhất vào tháng 5 năm 1998, lần thứ 2 vào
tháng 5 năm 2010, sau mỗi lần như vậy nguồn lợi thủy sản ở đây bị suy giảm đáng
kể, người làm nghề khai thác thì không có thu nhập, người nuôi trồng thủy sản thì
gặp nhiều bất lợi do môi trường nuôi không đảm bảo, dịch bệnh đối với thủy sản
diễn biến phức tạp. Nhiều người cho biết trước đây thu nhập của họ do nghề đánh
bắt, nuôi trồng thủy sản trên đầm mang lại rất cao nhưng hiện nay thu nhập đã bị
giảm sút đi [2; 13].
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tế trên tôi chọn đề tài: “Khảo sát hiện
trạng sử dụng nguồn lợi đầm Ô Loan và đề xuất một số giải pháp quản lý bền
vững ” nhằm đánh giá thực trạng khai thác và sử dụng nguồn lợi, tìm ra các nguyên
nhân gây suy thoái đầm và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả góp
phần khôi phục lại nguồn lợi thủy sản.
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm và vai trò của đầm phá
1.1.1. Khái niệm của đầm phá
Đầm phá là một dạng thủy vực của đới biển ven bờ, được tách khỏi biển nhờ
kiểu tích tụ bờ cát chắn phía ngoài, ôm lấy một vực nước nông phía trong. Các phá
nhận nước ngọt từ sông, suối trước khi ra biển và quan hệ trực tiếp với biển bằng
cửa riêng của mình cũng được thừa nhận như các cửa sông điển hình [12].
1.1.2. Vai trò của đầm phá
Đầm phá là một vùng có vị trí phân bố rất đặc trưng, nó phân bố tại các lưu
vực sông, các vùng cửa sông ven biển, môi trường sinh thái của hệ đầm phá thực
chất cũng chính là những giá trị không tính toán, định lượng được. Tuy vậy, giá trị
của nó có thể cao hơn, quan trọng hơn nhiều các giá trị tài nguyên cụ thể được xác
định và khai thác trực tiếp. Chính vì vậy, nó có vai trò rất lớn trong tự nhiên và đời
sống con người.
1.1.2.1. Vai trò của đầm phá với tự nhiên
a. Cân bằng tự nhiên và sinh thái ven bờ
Xét về tổng thể, vùng đầm phá là một hệ đệm giữa biển và lục địa, có vai trò
cực kỳ quan trọng đối với cân bằng tự nhiên và sinh thái ven bờ. Sự tồn tại của
vùng đất ngập nước ảnh hưởng và tác động đến vi khí hậu khu vực, chế độ thủy
động lực, phân bố và bồi lắng trầm tích ven bờ, lưu giữ và cung cấp dinh dưỡng,
nguồn giống ra biển, tạo nơi cư trú, sinh đẻ cho các thủy sinh trên biển, cho một số
loài sinh vật và chim trú đông di cư theo mùa trên quy mô rộng lớn.
Diện tích lãnh thổ có quan hệ mật thiết với sinh thái và môi trường đầm phá.
Đó là những mối quan hệ về giao thông, thủy lợi, nghề cá, nông nghiệp, lâm nghiệp,
… Sự biến đổi về khí hậu và thiên tai: nguồn nước ngầm, ngập lụt, nhiễm mặn, vi
khí hậu, nơi sinh sống và định cư của số đông dân cư ven biển, là nơi cần đầu tư lớn
về xây dựng cơ sở hạ tầng [6].
Đầm phá có chức năng cực kỳ quan trọng về môi trường, liên quan đến cuộc
sống dân sinh, kinh tế của cả một cộng đồng dân cư rộng lớn. Đầm phá là một hồ
điều hòa khổng lồ nằm giữa vùng đồng bằng lãnh thổ có khí hậu khắc nghiệt, có tác
dụng điều tiết vi khí hậu khu vực theo hướng thuận lợi cho cuộc sống. Nhờ có nó,
đã hạn chế rất nhiều khả năng gây ngập lụt khu vực và những tác hại của nước
dâng. Khi có bão, thường có mưa lớn dồn nước ở thượng nguồn về, đồng thời nước
2
dâng từ thủy triều biển cũng tràn vào. Đầm phá là vùng chứa cả nước lũ thượng
nguồn, cả nước dâng từ biển, làm giảm rất nhiều khả năng ngập lụt cho đồng bằng.
Vùng đầm phá có tác dụng lớn đến duy trì lượng nước ngầm vùng đồng bằng
ven rìa, có tác dụng tốt với hệ sinh thái đồng ruộng và duy trì nguồn nước ngầm
sinh hoạt cho nhân dân.
Đối với vùng biển ven bờ, vùng đầm phá có chức năng làm sạch môi trường.
Bùn cát hoặc các chất gây ô nhiễm từ lục địa phần lớn rơi lắng và được lưu giữ
trong đầm phá trước khi đưa ra biển. Đây là nơi tích tụ chôn vùi các vật chất thải, dễ
bị nhạy cảm, tổn hại do ô nhiễm từ lục địa, nhưng chính nhờ đó mà bảo vệ cho môi
trường biển phía ngoài được trong sạch [6; 7].
b. Thủy văn
Vùng đầm phá chịu tác động chủ yếu chế độ thủy văn từ biển, nhưng hàng
năm phải chịu tác động lớn từ nguồn nước ngọt nội địa đổ ra đặc biệt là mùa mưa
lụt. Mức độ ảnh hưởng lớn được thể hiện trong việc bồi lắng tích tụ phù sa, sự xâm
thực do dòng chảy, triều cường. Đầm phá còn có những tác dụng đáng kể trong việc
phân tán bớt năng lượng của sóng, gió, thủy triều [7].
1.1.2.2. Vai trò của đầm phá với con người
a. Phát triển kinh tế xã hội
Trong các vai trò cân bằng tự nhiên và sinh thái ven bờ và vai trò bảo vệ thì
đầm phá có vai trò cực kỳ to lớn đối với phát triển dân sinh, kinh tế khu vực. Một
bức tranh dân sinh, kinh tế sẽ hoàn toàn khác nếu không còn tồn tại vùng đất ngập
nước của đầm phá. Cư dân đầm phá có nhiều nét riêng, độc đáo về tập quán sinh
hoạt, phương thức và ngư cụ đánh bắt thủy sản, lễ hội, Cũng từ vựng đầm phá này
đã hình thành kinh tế đầm phá trực tiếp liên quan đến cuộc sống của hàng vạn người
dân, có quan hệ với lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, giao
thông,… của cả một khu vực [6; 7].
b. Đảm bảo môi trường sống
Vùng đầm phá là một kho dinh dưỡng giàu có ở một vùng ven bờ. Dinh
dưỡng vô cơ trong nước và nền đáy giàu hơn phía ngoài biển hàng chục, hàng trăm
lần. Đó là sự tích lũy, lưu giữ dinh dưỡng từ lục địa qua các con sông chuyển ra.
Nhờ tồn tại như một hệ sinh thái độc lập ven bờ, gồm nhiều phụ hệ, vùng đầm phá
lưu giữ và tạo một chu trình vật chất khép kín, làm giàu và xuất khẩu dinh dưỡng ra
vùng biển ven bờ.
Môi trường nước mặn lợ thay đổi theo mùa và sự có mặt đa dạng môi trường
sống là điều kiện thuận lợi cho quá trình cư trú, sinh sản theo mùa của nhiều đối
tượng tôm, cá và chim nước. Sự phong phú của môi trường sống như cửa sông, đầm
3
lầy, thảm cỏ biển, vùng đáy bùn, đáy cát, đã tạo nên đa dạng sinh học cao và bảo
vệ sinh vật trước những biến đổi bất lợi của tự nhiên và sự khai thác quá mức của
con người [6; 10].
c. Sản xuất và cung cấp
Với tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, đầm phá cung cấp cho con
người nhiều loại sản vật, tạo điều kiện phát triển thủy sản, nông nghiệp, giao thông,
du lịch và hình thành kinh tế đầm phá với những tính chất đặc thù, cơ cấu liên
ngành và tính hoàn chỉnh của mình [4].
d. Bảo vệ
Vùng ven biển Việt Nam thường xuất hiện nhiều thiên tai như bão, lụt, nước
dâng trong bão. Nhờ có vai trò điều hòa, vùng đất ướt đầm phá có chức năng bảo vệ
cộng đồng dân cư xung quanh, hạn chế rất đáng kể những thiệt hại về người và tài
sản do thiên tai gây ra.
Đầm phá là màng đệm giữa biển và đồng bằng, ngăn mặn xâm nhập sâu vào
lục địa. Nhờ có nó, nước biển và nước ngọt được pha trộn, trao đổi thành nước nhạt
hơn trước khi theo áp lực triều lấn theo đáy các lòng sông ngược về phía lục địa.
Cũng do là một vực nước kín, có cửa thông ra biển, mỗi khi có bão hay
giông tố làm biển động, đầm phá là nơi neo đậu, tránh trú an toàn cho hàng trăm
thậm chí hàng ngàn tàu thuyền lớn nhỏ, nhờ đó tránh được nhiều thiệt hại về tài sản
cũng như tính mạng cho con người [10; 11].
e. Đảm bảo an ninh quốc phòng
Ngoài các vai trò trên thì vùng đầm phá còn có vai trò về an ninh quốc
phòng. Đây là một vị trí phòng thủ trọng yếu ven biển, là nơi diễn ra nhiều cuộc đổ
quân, giao tranh trong lịch sử, là những căn cứ thủy quân trong các thời kỳ kháng
chiến cũng như phòng thủ trong thời bình [10].
1.2. Tình hình khai thác và sử dụng đầm phá trên Thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình khai thác và sử dụng đầm phá trên thế giới
Hệ thống đầm phá phân bố chủ yếu ở các cửa sông, ven biển nó đóng vai trị
rất quan trọng trong việc tạo ra hệ sinh thái, bảo vệ cộng đồng và cung cấp một
lượng thủy sản dồi dào, giải quyết và tạo việc làm cho phần lớn lao động tại đây.
Tại khu nghỉ mát Palmetto Dunes Oceanfront, vào những năm 1970, ba dặm
dài bãi biển ở đây gần như bị biến mất khi thủy triều lên. Nhưng ngày nay, tại đây
đã có nhiều dịch vụ phục vụ cho du lịch sinh thái, nhờ vào sự nghiên cứu của các
nhà khoa học trên thế giới chuyển đổi bằng cách nạo vét lượng lớn cát sau đó vận
4
chuyển cát đổ ra các bãi biển phía ngoài, để tạo ra hệ thống đầm phá đầm nước
mặn. Mặc dù chuyển một khu nghỉ mát nhưng vẫn bảo tồn được hệ sinh thái, luôn
được kiểm soát thủy triều để giữ cho nước sạch và vẻ hoang sơ vốn có của nó [14].
Tại Cameroon, các đầm phá ven biển Complex Douala là vùng đất thấp phía
nam của cộng hòa Cameroon. Ở đây còn là nơi có một hệ đa dạng sinh học cao với
nguồn lợi thuỷ sản nước lợ và nước mặn. Thời gian gần đây do chính quyền đã
chuyển đổi cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp tại đây, đã làm tăng xả nước thải
ra đầm. Mặt khác vùng biển này là nơi chịu ảnh hưởng của cường độ triều cường
gia tăng. Hậu quả đã biến khu vực này phải chịu một thảm họa, vì thường xuyên
xảy ra xói mòn [16].
Tại Hilton Head Island, hệ thống đầm phá tại đây đã được phát triển bằng
cách nạo vét cát từ bên trong và đặt nó trên bãi biển tạo ra các cồn cát. Nó đã tạo ra
một khuôn viên đẹp, cũng như cung cấp một loạt các tiện nghi nghỉ dưỡng cho dân
cư trong khu phố của Palmetto Dunes. Mô hình hệ thống đầm phá trong Palmetto
Dunes là mô hình duy nhất trên thế giới đã thành công khi kết hợp mô hình du lịch
và bảo vệ hệ sinh thái đầm phá. Nó được tạo thành từ mười một dặm của đầm phá
nổi và đường thủy. Vì được nối dài như vậy nên khi tham quan và nghỉ dưỡng tại
đầm phá này ta sẽ nhận thấy được tại đây có nhiều tôm, cua, cá và nhiều loại chim,
… Tại đây, cửa thủy triều đã được cài đặt một cách có hệ thống ở hai địa điểm để
kiểm soát triều cường và xả nước từ đầm phá để giữ cho nước sạch [15].
Tại Ấn Độ, Các cửa sông nối liền với nhau bởi các hệ thống sông Banana
của Không Motor Zone, sông Ấn Độ và đầm phá Mosquito tạo nên sự phong phú
của động vật hoang dã và các loại cá từ các nơi đến đây rất đa dạng. Khu vực này
nổi tiếng nhất với cá cảnh Redfish có kích thước khổng lồ. Tại đây, mùa xuân nhiệt
độ mát mẻ, thích hợp cho việc câu cá. Ngoài ra, ở đây còn cung cấp lượng lớn nước
sạch cho khu vực này. Chính nhờ làm được như vậy mà nơi đây đó thu hút được
một lượng lớn du khách tham quan du lịch, đồng thời còn giải quyết được một
lượng lớn lao động tại đây bằng các dịch vụ phục vụ cho du khách [14].
1.2.2. Tình hình khai thác và sử dụng đầm phá tại khu vực Nam duyên hải
miền Trung
Cũng như trên Thế giới thì tại Việt Nam hệ thống đầm phá đóng vai trị rất
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, ngày
nay do tác động của thiên tai và nhu cầu ngày càng cao của con người mà những
năm gần đây cảnh quan, môi trường sinh thái đầm phá ở Việt Nam đã và đang bị
suy giảm trầm trọng. Đầm phá bị tác động mạnh do sức ép gia tăng dân số, do nhu
cầu thưởng thức thủy sản tươi sống ngày càng gia tăng, phát triển nuôi trồng thủy
5
sản một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch và sự buông lỏng quản lý của các cấp chính
quyền địa phương,… Cụ thể tình hình đầm phá ở khu vực này như sau:
1.2.2.1. Tỉnh Thừa Thiên Huế
Tỉnh Thừa Thiên Huế có hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với diện
tích 22000 ha. Đây là vùng nước lợ tiêu biểu cho cả quốc gia và khu vực Đông Nam
Á, có giá trị cao về đa dạng sinh học với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm và là
nơi thuận lợi cho việc tổ chức nhiều loại hình du lịch khác nhau. Ngoài ra, tại đây
còn có tần suất đa dạng sinh học rất cao, vì khu vực này là nơi giao thoa giữa 2
vùng khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới giữa bán đảo Sơn Trà và điểm mút nhô ra của
đèo Hải Vân, đa dạng sinh học đứng thứ 3 trên toàn quốc. Hệ sinh vật biển ở khu
vực này có 1013 loài thuộc 410 giống, bao gồm 245 loài thực vật phù du, 74 loài
động vật phù du, 103 loài rong biển, 4 loài cỏ biển, 12 loài thực vật ngập mặn, 144
loài san hô, 161 loài động vật đáy và 270 loài cá biển trong đó có 132 loài cỏ rạn
san hô. Các rạn san hô ở đây phân bố chủ yếu ở ven đảo Sơn Trà và ven bờ bắc
mũi Hải Vân, bao gồm các loài san hô tạo rạn Ahermatypic, san hô sừng
Gorgonacea và san hô mềm Alcyonacea [8; 11].
Những năm gần đây trước sức ép của con người môi trường của hệ đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai bắt đầu bị ô nhiễm nghiêm trọng và mức độ ô nhiễm đang
ngày càng gia tăng, nhất là ô nhiễm do các chất thải, ô nhiễm dầu, bên cạnh đó là sự
thay đổi lớn về diện tích mặt nước, làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy hải
sản [11].
1.2.2.2. Tỉnh Quảng Ngãi
a. Đầm Nước Mặ
Thuộc địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng
150ha. Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thông ra biển tại cửa Sa Huỳnh.
Nước đầm luôn có độ mặn khá cao cả về mùa khô và mùa mưa, vì vậy có tên là
đầm Nước Mặn. Với đầm này chỉ có thể nuôi trồng thủy sản nước mặn và làm
muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một phần diện tích của đầm để làm
muối [3]
b. Đầm An Kh
Thuộc địa phận xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học
điều tra nhiễm mặn vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng thủy văn
Trung Trung Bộ thực hiện năm 1998 cho thấy đầm có độ mặn thấp. Vào mùa mưa
6
nước trong đầm có độ mặn không đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ,
độ mặn từ 0,3- 10‰ [3]
7
c. Đầm Lâm Bìn
Thuộc địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp, thường
dao động từ 0,2- 0,3‰ về mùa khô, những tháng nắng hạn nhất đầm bị cạn nước
hoàn toàn [3]
1.2.2.3. Tỉnh Bình Định
Có đầm Trà , đ m Thị Nại là hai đầm nước lợ của tỉnh Bình Định được Quỹ
Môi trường Toàn cầu (GEF) đã thực hiện chương trình “Bảo tồn và phát triển đa
dạng sinh học vùng đầm phá ven biể ” để xây dựng các mô hình quản lý, sử dụng
một cách có hiệu quả vùng đất ngập nước này. Dự án này nhằm mục đích bảo vệ
môi trường, duy trì phát triển nguồn lợi đầm phá phục vụ tốt hơn cho đời sống con
người. Hai đầm này mang tính đặc trưng của hệ thống đầm phá ven biển miền
Trung ViệtNam . Nơi đây có nhiều giống loài thủy sản nước lợ rất có giá trị, không
phải nơi nào cũng có được.
a. Đầm Trà
Có diện tích 1200 ha, thông với biển qua một đoạn sông ngắn. Nơi đây có
cửa Hà Ra là hệ thống ngăn mặn. Cửa có nhiệm vụ ngăn nước mặn vào đầm trong
mùa khô để khỏi ảnh hưởng đến đất nông nghiệp, chỉ mở cửa vào mùa mưa, mùa
này các loài thủy sản mới giao lưu được giữa hai môi trường trong đầm và ngoài
biển. Trong đầm hệ thực vật phù du rất phong phú như: tảo, rong, nhiều loài ấu
tùng, … tạo nguồn thức ăn ban đầu rất phong phú cho các loài thủy sản sống trong
đầm, cũng từ đó nguồn lợi thủy sản phát triển khá đa dạng, đáng chú ý là các loài
tôm, cua, cá chình,… Vào mùa lũ thường có cỏ hanh, cá hồng, cácẽm,. . . đặc biệt là
cá chình, cá mun rất quý hiếm có trong sách đỏ thế
iới.
Có chừng 650 hộ dân của 4 xã ven đầm chuyên sống bằng nghề khai thác
đánh bắt trên đầm. Mỗi năm khai thác được khoảng 1000 đến 1200 tấn tôm, 780
đến 1100 tấn cá các loại, thời gian khai thác quanh năm nhưng nhiều nhất là vào
đầu mùa mưa. Nhưng hiện nay đáng báo động là tình trạng khai thác hủy diệt như:
khai thác khu vực bãi đẻ; khai thác bằng lưới mắt nhỏ (đáy, đăng, mành); khai thác
bằng xung điện,… làm nguồn lợi ở đây suy giảm nghiêm trọng. Đáng chú ý là loài
chình mun có nguy cơ tuyệt chủng. Ngành thủy sản đã đưa ra một con số đáng báo
động là: sản lượng khai thác năm 2006 so năm 2000 đối với cá chình giảm 90%, cá
giảm 50%, tôm giảm
8
%,
Do nghề khai thác thủy sản tự phát, thiếu quy hoạch, không có sự quản lý
chặt chẽ từ chính quyền nên dễ dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Nhiều
nhà nghiên cứu đã đề ra giải pháp bảo vệ bằng cách thành lập nhóm hạt nhân bảo vệ
nguồn lợi ở cả 4 xã nói trên, mỗi xã một đội, xây dựng mô hình đồng quả lý, . có
quy chế quản lý, hàng năm thả bổ sung giống cá, tôm để góp phần tái tạo phát triển
nguồn lợi,… Đầm Trà Ổ là một trong 45 khu bảo tồn được quy hoạch là hệ thống
các khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020 củNama Việ
[1].
b. Đầm
ị Nại
Diện tích trên 5060 ha. Nơi đây không chỉ có nhiều loài chim trú ngụ: cũ,
diệc,le le,. mà còn có sự phong phú của các loài thủy sản như: tụm, cua, á, hàu,.
Trước năm 1975 có khoảng 1000 ha rừng ngập mặn, thời gian qua do phong trào
nuôi tôm phát triển, rừng ngập mặn bị tàn phá, cho nên hiện nay rừng chỉ còn rải
rác. Rừng ngập mặn không còn, nên các loài chim, thủy sản trú ngụ ở đây cũng
giảm dần. Bên cạnh đó, nhân dân ven đầm nhất là vùng Phước Thuận, Phước Sơn
(Tuy Phước), Nhơn Bình (Quy Nhơn) dựng phương tiện đánh bắt hủy diệt: lưới mắt
nhỏ, lưới gió cào, xung điện, iếc
áy,.
Quanh đầm Thị Nại hiện nay có cảng biển, cầu qua đầm, khu kinh tế Nhơn
Hội mới mở, dân cư quanh đầm ngày càng đông đúc, nước thải từ thành phố khu,
cụm công nghiệp chưa xử lý triệt để đổ ra đầm gây ảnh hưởng rất lớn về môi
trường, làm cho đầm ngày càng bị ô nhiễm nước thải, chất thải s
h hoạt.
Do vậy, nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, một số loài có nguy cơ t
ệt chủng.
Trước thực trạng trên, tỉnh Bình Định đã triển khai dự án “Khai thác sử dụng
hợp lý vùng Cồn Chim (đầm Thị Nại)”. Sau khi khảo sát nghiên cứu đã quy hoạch
thành nhiều khu chức năng như: trồng rừng ngập mặn, nuôi thủy sản, thảm cỏ biển,
sân chim, khu vực nuôi động vật thân mềm. Đã trồng 80 ha rừng ngập mặn tập
trung, trồng phân tán ở xung quanh 500-600 ha các ao tôm. Trên diện tích 20 ha
rừng ngập mặn trong khu vực, Ban quản lý Cồn Chim, một năm thu mười một tấn
cua, một tấn tôm. Dự án còn xây dựng quy chế bảo vệ vùng này đồng thời xây dựng
nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản, hướng nhân dân ở đây chuyển sang nghề nuôi
trồng hợp lý, kai thác hợp
9
[1; 6 ].
1.2.2.4. T
h Phú Yên
a.
m Cù Mông
Đầm Cù Mông là tên một vũng biển nhỏ ở thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên,
còn có tên khác à vũng Mồi . Nằm ở phía nam nơi Cù Mông, là địa phận ba thôn
Tùy Luật, Hội Phú và Vĩnh Cửu. Có diện tích khoảng 26,55km², dài nhưng hẹp,
được bao bọc phía ngoài bởi khối nơi Cù Mông chạy dài hơn 15 km ra biển tạo nên
bán đảo Cù Mông với nhiều phong cảnh đẹp mắt. Đầm còn là nơi trú ngụ của nhiều
loài hải sản quý hiếm như cá ngựa, sò đá, tôm hùm giống. Khí hậu tại đầm Cù
Mông mát mẻ, là vùng nuôi tôm hùm thương phẩm lớn nhất của tỉnh Phú Yên.
Ngoài ra, đầm Cù Mông còn có nhiều loại h
sản khác [5]
b. Đầm Ô Loan
Đầm Ô Loan là một đầm nước lợ nằm vía Đông ve
quốc lộ , dưới c
đèo Quán Cau
. Đầm nằm về phía Nam thị tChí Th, huyện
Tuy An
, tỉnh Phú Yên. Đây là một danh lam thắng cấp quốia của
Việt Nam Đầrộng hơn 15.7
km²
với độ sâu trung bình 1,2 đến 1,4 một, mùa mưa có thể sâu tới 3 một. Sông
Cái và một số sông nhỏ cấp nước ngọt cho đầm. Một lạch nhỏ nối đầm với biển,
bao bọc quanh đầm là nơi Đồng Cháy, nơi Cẩm và cồn An Hải. Trong đầm có
nhioại hsảý như
cá
, sò huyết
10
,
ghẹ
, nhưng hiện nay đầm Ô Loan đã bị xâm hại nghiêm trọng bởi việc đắp hồ
koanh v
g để nuôi thủy [ 4; 5].
1.2.3. Tình hình khai thác và sử dụng
ầm phá tại huyện Tuy An
Tuy An là một huyện có đặc điểm địa lí tự nhiên khá đặc biệt. Nơi và biển
nối tiếp nhau và bị chia cắt bởi hệ thống sông suối. Bờ biển Tuy An nói riêng và
Phú Yên nói chung thuộc vùng bãi ngang, vùng cửa sông, chịu ảnh hưởng bồi lấp
rất lớn bởi các dải cát ven bờ. Vì vậy, đã tạo ra hệ thống đầm phá khá phức tạp, nhất
là cửa đầm thường hẹp và không ổn định. Tuy nhiên, hệ thống đầm phá này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các loài thủy sản phát triển nhanh,
a dạng về giống và loài.
Từ rất lâu, nguồn lợi thủy sản trong đầm là nguồn mưu sinh cho một bộ phận
lớn người dân 5 xã sống quanh đầm. Theo số liệu thống kê năm 2010, dân số của 5
xã ven đầm có 4028 người sống bám vào đầm, trong đó số người hoạt độngkhi
ác là 1351 người [ 10 ].
Đầm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế và xã hội của toàn vùng, nơi
đây được xem là nơi cung cấp nguồn lợi thủy sản cho cư dân khu vực và các vùng
lân cận. Ngoài ra, nó còn góp phần giải quy
lượng lớn lao động ở đây.
Ngày nay, với nhu cầu được dinh dưỡng ngày càng cao trong các bữa ăn.
Nhất là các mặt hàng đặc sản, trong khi đầm là nơi cung cấp nhiều món đặc sản tươi
sống quý cho thị trường. Do vậy, đã diễn ra tình trạng khai thác quá mức, khai thác
mang tính tận diệt. Mặt khác, cùng với sự gia tăng dân số và các tiến bộ về lĩnh vực
khoa học công nghệ trong đó có lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy, phong
trào nuôi trồng thủy sản ở đầm Ô Loan diễn ra một cách ồ ạt và thiếu qui hoạch làm
gia tăng nhanh chóng về việc mất cân bằng sinh thái và gây
sự cố ô nhiễm môi trường.
Qua việc phân tích tổng thể các chỉ tiêu diện tích, nuôi trồng, năng suất, sản
lượng trong đầm Ô Loan cho thấy: Ở thời gian đầu, từ 1995 đến 1998 diện tích ao
nuôi tôm tăng nhanh nhưng sản lượng thu hoạch không tương thích. Nguyên nhân
chủ yếu do môi trường vùng nuôi bị xuống cấp, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng kéo
11
dài suốt vụ nuôi. Năng suất, sản lượng không ổn định, nhiều ao nuôi từ năm 1997
đến nay bị dịch bệnh nên mất trắng hoặc sản lượng thu hoạch ít. Năm 1998, diện
tích mất trắng hai vụ là 160 ha, năm 1999 là 195 ha, năm 2002 gần 120 ha, tỉ lệ mất
trắng chiếm 34,57% tổng diện tícuô
trồng trong khu vực [ 9 ].
Theo báo cáo của của Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện
Tuy An, trạm Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Tuy An, việc khai thác nguồn lợi thủy sản
tại đây diễn ra phức tạp, bất hợp lí. Khả năng tái tạo nguồn lợi thủy sản trong đầm
không đáp ứng được nhu cầu khai thác, vì lượng nghề khai thác từ nhiều năm nay
đã phát triển với số lượng lớn khó kiểm soát, ngư dân vẫn sử dụng những phương
tiện khai thác mang tính hủy diệt, phá hoại môi trường như: xung điện (lưới điện,
xiếc điện, bộ kích điện); lưới kéo (lưới rùng, lưới ba màn dựng quây kéo); soi điện,
… Những nghề này khai thác không có chọn lọc và thường làm xáo trộn nền đáy,
gây tổn hại trực tiếp đến môi trường và nguồn lợi thủy sản nhất là những cá thể nhỏ.
Do vậy, nguồn lợi thủy sản tại đây bị suy giảm nhanh chóng về số lượng và chủng
loại. Theo những ngư dân lớn tuổi ở đây cho biết có nhiều loài đặc sản trước đây rất
phong phú nhưng ngày nay rất hiếm gặp hoặc có năm xuất hiện, có năm không như:
sò huyết, ngao dầu, ốc lông, vẹm xanh mực nag,
đối, cá đuối [2 ; 9; 10 ].
1.
Tổng quan về huyện Tuy A
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Tuy An là một huyện ven biển khu vực Nam Trung Bộ, Phía Bắc giáp thị
trấn Sông Cầu, Phía Nam giáp với thành phố Tuy Hòa, phía Đông giáp với biển
Đông, phía Tây giáp
i huyện Đồng Xuân,
v
Sơn Hòa.
Diện tích 448,8 km 2 , dân số năm 2010 là 1215 n
ườ
i, ậ
độ dân số 293 ngư
/km 2 [9] .
1.3.1.1. Địa hình
Tuy An nằm phía Đông dãy núi Trường Sơn, địa hình phức tạp, có nhánh
tách ra kéo về hướng Đông theo sát biển tạo thành những đèo tương đối cao và
12
nguy hiểm, đồng thời chia cắt Tuy An thành những đồng bằng hẹp. Nhìn khái quát
Tuy An thấp từ Tây sang Đông, điểm cao nhất là Hòn Chương, nơi Ông La có độ
cao 500 một so với mặt nước biển. Địa hình T
An chia thành hai khu vực lớn:
Vùng núi bao gồm các xã: An Thọ, An Lĩnh, An Xuân. Vùng này núi non
trùng điệp, song không cao lắm, địa hình phức
ạp, độ cao chênh lệch nhau nhiều.
Vùng đồng bằng ven biển: là vùng còn lại của các xã và thị trấn, có xu hướng
nghiêng từ Tây sang Đông. Ở đây, có những cánh đồng chuyên canh cây lúa tập
trung như ở các xã: An Thạch, An Ninh Tây, An Ninh Đông, Am Mỹ, An Cư, An
Dân,… và có thế mạnh phát triển thủy sản như các xã: An Ninh Đông, An Ninh Tâ,
An Hòa, A
n,… [9; 10].
Hình 1.1. Vị
rí huyện Tuy An chụp trên vệ
nh
13
1.3.1.2. Khí tượng – thủy văn
Tuy An thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Do ảnh hưởng của khí
hậu đại dương nên khí hậu tương đối ôn hòa. Nhiệt độ chênh lệch gi
a
hai mùa trong
năm trung bình 6,7 0 C. Nh
ệt
độ trung bình nhiều năm là 26,5 0 C
(n
hiệt độ trung bình
cao nhất 29,5 0 C,
nh
iệt độ r
g bình thấp nhất 2
5 0 C) [10] .
1.3.1.3. Sông ngòi
Hệ thống sông ngòi Tuy An gồm có một sông chính là sông Kì Lộ dài 75
km, bắt nguồn từ đỉnh Kong-Kboong cao 1209 một ở phía tây tỉnh Bình Định, chảy
qua huyện Đồng Xuân về Tuy An, qua cầu Ngân Sơn rồi đổ ra biển. Đoạn qua Tuy
An có ch
ề
dài 20 km với lưu vực trên 1900
km
2 , lưu lượng trung bình 30 – 40 m 3 /s.
Do độ dốc lớn nên dễ gây lũ lụ
mùa mưa và khô cạn vào
a hè [9] .
1.3.1.4. Biển và bờ biển
Do ảnh hưởng và tác dụng bào mòn của Sông, biển nên bờ biển Tuy An rất
quanh co, khúc khủy, tính theo mép nước đất liền có chiều dài 42,5 km. Bờ biển đẹp
có nhiều danh lam thắng cảnh, là nơi nghỉ mát, du lịch rất tốt n
đầm Ô Loan, Bãi Xép, gành Đá Đĩa,…
Dọc th
bờ biển có hai loại biển điển hình.
- Bãi cửa sông: nằm dọc theo cửa biển là đầm Ô Loan, đầm có chu vi rộng,
nồng độ muối thấp. Đây là vùng có thế mạnh phát triển nuôi tr
g thủy sản nước lợ nhất là tôm, cá,…
- Bãi biển bờ đá: là bãi ngang v
vũng bờ đá, đáy biển có độ dốc cao.
Biển Tuy An thuộc hệ thống ven bờ, có độ sâu gấp, thềm lục địa hẹp, đáy
biển gồ ghề, độ dốc đổ dồn từ bờ ra khơi. Chịu
nh hưởng của hai dòng hải lưu chính:
- Mùa đông: do tác động của gió mùa Đông Bắc một dòng hải lưu chính do
sự xáo trộn giữa hai dòng nước nóng và lạnh từ ngoài khơi phía Bắc biển Đông
chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam suốt từ
háng 9 năm trước đến tháng 4 năm sau.
14
- Mùa hè: do tác dụng của gió Tây nam, một dòng hải lưu chính từ phía Nam
biển Đông, sau khi chạm bờ biển Nam bộ chia thành hai nhánh chính: 1 nhánh men
theo bờ biển Trung Bộ đi lên phía Bắc, 1 nhánh về phía Đông, hoàn thành 1 dòng
hải lưu khép kín theo chiều ki đ
g hồ suốt từ tháng 5 đến tháng 9 [
].
1.3.2. Điều k
n kinh tế - xã hội
1.3.2.1. Về kinh tế
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, nền
kinh tế của huyện Tuy An đã dần dần đi vào ổn đinh, từng bước tăng trưởng và hòa
nhập vào nền kinh tế thị trường, đã tạo điều kiện để phát triển một nền kinh tế nhiều
thành phần, khuyến khích mọi thành phần,
ọi cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh.
Những năm qua nền kinh tế của huyện được phát triển bền vững với tốc độ
tăng trưởng cao (bình quân 10.1% năm). Giá trị tổng sản phẩm thu nhập trên địa
bàn huyện (năm 2010): 1006,5 tỉ đồng ; thu
hập bình quân 7,36 triệu đồng/người/năm.
Huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng như: hệ
thống lưới điện, giao thông nông thôn kiên cố hoá các hệ thống thuỷ lợi, trường
học, quy hoạch xây dựng các khu tái định cư,… góp phần làm
o diện mạo huyện nhà ngày càng khởi sắc.
Trong cơ cấu nền kinh tế huyện Tuy An (năm 2010), khối Nông Lâm Thủy
Sản chiếm tỷ trọng tương đối thấp (32,73%) so với khối ngành Công nghiệp, Xây
dựng và Thương mại, Dịch vụ, với giá trị sản xuất là 329,415 triệ đồng, đạt 73,3%
so chỉ tiêu Ngh q
15
t v à tăng 17,5% so với năm 2005 [10 ].
Bảng 1.1.
Chỉ tiêu Giá trị sản xuất
(1994) triệu đồng
Tỷ trọng cơ cấu theo
giá trị(%)
Tốc độ tăng bình
quân hằng năm (%)
Tổng giá trị
sản xuất
1.006.500 100 10,1
Nông Lâm
Thủy Sản
329,415 32,73 3,3
Công nghiệp,
Xây dựng
364,000 36,16 13,8
Thương mại,
Dịch vụ
313,085 31,11 14,5
ấu nền kinh tế huyện Tuy An (năm 20
)
( Nguồn: Phòng Thống kê huyện Tuy An)
Tốc độ tăng tưởng bình quân hàng năm của khối ngành Nông Lâm Thủy Sản
là 3,3% năm. Khối ngành Thương mại, Dịch vụ có tốc độ tăng trưởng bình quân cao
nhất với 14,5%. Điều này chứng tỏ cơ cấu nền kinh tế huyện Tuy An đang có sự
chuyển dịch đúng đắn, tăng dần tỷ trọng khối ngành thương mại dịch vụ, giảm dần
trọng các ngành k
i nông lâm thủy sản.
1.3.2.2. Về xã hội
Tôn giáo: có 4 tôn giáo chính (Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Cao
Đài), với
649 người (chiếm 3,4% dân số toàn
yện).
Dân sinh:
lệ hộ nghèo là 13,9%.
1.3.2.3. Giáo dục
Thực hiện phương châm xóa nạn mù chữ trong cả nước huyện Tuy An đã
hoàn thành việc phổ cập giáo dục trình độ tiểu
ọc và trung học cơ sở trên địa bàn toàn huyện.
Hệ thống trường học: đáp ứng nhu cầu thực tế (trường tiểu học và trung học
cơ cở ó
16
trường, trung
ọc phổ thông 3 trường) [10] .
1.3.2.4. Y tế
Cơ sở hạ tầng phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân rộng khắp,
được đầu tư từ tuyền huyện thị đến làng xã. Đội ngũ y bác sĩ lành
hề, có trình độ học vấn và tâm huyết với nghề.
Có bệnh viện đa khoa huyện: 02 phòng khám đa khoa khu vực, 16 trạm y tế
xã, thị trấn (có 08/1
17
đạt chuẩn), 01 trun
tâm y tế dự phòng [10] .
1.3.2.5. Giao thông
Mạng lưới giao thông huyện tương đối phát triển. Có đường quốc lộ 1A và
đường sắt Bắc – Nam chạy dọc qua huyện theo hướng Bắc – Nam; có trục Đông -
Tây, nhờ tỉnh lộ ĐT641, ĐT643 về các xã miền núi; có hệ thống giao thông thông
suốt từ trung tâm huyện về các xã, đường liên xã; có đường cơ động (đường quốc
phòng) chạy dọc tuyn b
từ phía Bắc huyện đến thành
ố Tuy Hồ [10 ].
1.4. Tổng q
n về đầm Ô Loan
1.4.1. Vị trí địa lí đầm Ô Loan
Đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An là vực nước ven bờ biển, do lưu vực vùng
cửa sông tạo nên. Hình dạng kéo dài song song với bờ biển và ngăn cách với bờ
biển bởi một dải cát, tiếp nhận nước từ các sông Phượng Lụa, sông
với biển qua cửa Tân Quy xã An Hải.
Hình 1.2. Đầm Ô Loan chụp trên vệ tinh
Đ
m
Ô Loan loại đầm kín nằm ở
ị
trí toạ
ộ
13 o 13' - 13 o 19' vĩ độ Bắc, 109 o
14'- 109 o 17' kinh Đông. Cách thị trấn Chí Thạnh huyện Tuy An 6 km về phía
18
Đông Nam, nằm gần đường quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc – Nam; diện tích
1570 ha, trải dài theo hướng Bắc - Nam, nơi rộng nhất 2,5 km, nơi dài nhất 8 km,
chu vi tiếp giáp bởi ăm xã của huyện đó là các xã n Cư,A Ni
Đơn g, An Hải, An Hiệp và An Hồ [ 10; 1 1 ].
1.4.2. Đi
kiện khí hậu, thời tiết, khí tượng, thuỷ văn
Đầm Ô Loan nằm trong đới khí hậu Nam Trung Bộ, có điều kiện thuận lợi
về khí hậu. Nằm sâu trong khu vực nội chí tuyến, có lượng bức xạ mặt trời phong
phú. Hằng năm mặt đầm Ô Loan thu được nguồn năng lượng mặt trờ
từ 140 đến 150 Kcal/cm với trên 2400 giờ nắng.
N iệt độ không khí đầm Ô Loan trung bình n m 26,5 C cao nhất vào tháng
6, tháng 7 (trên 35 C)
thấp nhất vào tháng 11, tháng 12 (trên 20 C).
Nhiệt độ nước trong đầm tương đối cao và ổn định, biến thiên đồng bộ với
nhiệt độ không khí. Nhiệt độ nước o được trung bình nhiề năm vào tháng 6 là
30,9 C, vào tháng 4 là 30,1 C, điều này phù hợp với xu thế nhiệt độ chung trong
toàn vùng miền Tr ung. Nhiệt độ nước thấp nhất vào tháng 1 là 23,7 Nhiệt độ
nước của đầm Ô Loan nằm trong giới hạn sinh thái hù
ợp cho việc nuôi trồ
các loại hải sản [10 ].
1.4.3. Hệ thống điện
Hiện tại các xã quanh đầm đều có điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, hệ thống
cung cấp điện hiện tại chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, chưa có hệ thống phục vụ
nuôi trồng thủy sản. Do đó, cần phải xây dựng đường điện cao áp và lưới điện hạ
thế đến từng điểm. Hướng phát triển tiếp theo là xây dựng lưới điện cao thế (15KV
và hạ thế 0,4 KV) đến các vùng nuôi tôm chuyên canh và các vùng tập trung nhằm
khép kín mạng lưới đin cho sinh hoạt, phục vụch
sản xuất và du lị ch, bảo vệ mụt tr
ng [9 ].
1.4.4. Hệ thống giao thông quanh đầm
Trước đây, giao thông trong đầm có 2 tuyến đò phục vụ đi lại và tiêu thụ sản
phẩm cho người dân: tuyến từ thôn Phú Tân xã An Cư đi thôn Phú Sơn xã An Ninh
Đông và tuyến từ thôn Phú Tân xã An Cư đi thôn Tân Quy xã An Hải. Những năm
2005, hệ thống giao thông quanh đầm rất khó khăn đặc biệt đối với những người
làm nghề nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, nhờ dự án “đầu tư chỉnh trang vùng nuôi
19
trồng thủy sản đầm Ô Loan - giai đoạn 1”, đã đầu tư 5 tuyến đường ven đầm với
chiều dài trên 15 km nên các vùng nuôi cơ bản đến nay ã
đường giao thông tới tận các ao hồ [9; 10
.
1.5. Giá trị về môi trư
g của đầm Ô Loan
1.5.1. Môi trường sinh thái
Đầm Ô Loan với đặc thù riêng là một đầm kín, diện tích 1570 ha, là một đầm
có diện tích cỡ trung bình ở khu vực miền Trung, nhưng nổi tiếng nhờ cảnh quan
đẹp, môi trường sinh thái khá thuận lợi. Chính vì vậy, ở đây nguồn lợi hải sản khá
đa dạng và phong phú, trong
ó có nhiều hải sản quý, đặc biệt là Namsò huyết.
Về địa hình đầm có độ dốc từ Bắc và dồn về giữa đầm, từ Tây sang Đông
hướng ra biển. Độ sâuNam trung bình từ 0,8 đến 1 một, nơi cạn nhất phía đầm, nơi
sâu nhất vùng giữa đầm và cửa đầm. Vùng cửa đầm tương đối hẹp và trải dài, đặc
biệt cửa không ổn định do vùng ven biển là vùng bãi ngang. Do vậy, đã ảnh hưởng
lớn đến việc trao đổi nước giữa đầ
và biển, dẫn đến môi trường đầm không ổn định.
Ngoài ra ngày nay rất nhiều tác động do con người gây nên: từ hoạt động
nuôi trồng thủy sản (đào đắp ao hồ mất diện tích tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến
nơi cư trú của các loài thủy sản ở giai đoạn nhỏ; thuốc, hóa chất, chất xả thải chưa
qua xử lí trong quá trình nuôi,…); từ rác thải trong sinh hoạt; từ sự bồi lắng tíh tụ tự
nhiên do l l
;… ản hưởng lớn đến môi tr
ng sinh thái [11 ].
1.5.2 . Điều kiện thổ nhưỡng
ChNamất đáy chủ yếu là bùn cát (ở phía giữa đầm về phía và phía Tây); cát
bùn (ở phía Bắc và Đông Bắc). Thuận lợi cho giáp xác và nhiều loài cá sống đáy
(tụm,cua, ghẹ, cá bống, cá mú, cá đuố,
traivà các lo àih
ễn thể: sị, điệp, hầu) [9 ].
1.5.3 . Độ mặn (S ‰ )
20
Độ mặn của đầm biến đổ
i
theo mùa
rất rõ rệt. Vào mùa khô nồng
đ
là 29.91 ‰
– 38.98 ‰ , vào mùa mưa là 1.07-2.78 ‰ . . Biên độ giao động rất lớn giữa các
tháng trong năm, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ sinh vật trong đầm.
Từ năm 1997 đến nay do cửa đầm cạn, hẹp di chuyển xa về phía đông bắc, các đìa
nuôi tôm xây dựng không có định hướng quy hoạch gây cản trở dòng chảy làm hạn
chế việc trao đổi nước giữa đầm và biển nên độ mặn vào mùa khôtại
mộtsố
ùng nư vũng Lân, vũng
tăng cao trên 4 0 ‰ [10 ].
1.5.4 . Độ ôxy hòa tan
Độ ôxy hòa tan thay đổi theo các tháng trong năm và theo năm phụ thuộc
vào đặc điểm sinh thái của đầm. Vài năm gần đây do sự ô nhiễm hữu cơ của đầm Ô
Loan đã làm biến động rất lớn đến ôxy hòa tan. Số liệu đo thực địa ngày 20/6/1998,
chỉ số đo buổi sáng là 1.2ml/ lớt, nhưng vào buổ t
a lớnhơn 10 m
lớt, đã gây chết cá hàng loạt [10 ].
1.5.5 . Độ pH
Biên độ dao động của pH nước từ 6.6-10.6, chính sự dao động lớn này làm
ảnh hưởng đến sinh thái đầm Ô Loan: giảm sự phân hủy chất hữu cơ, làm giảm
thành phần loài, làm tăng hoạt tính của nấm, dễ phát sinh dịch bệnh và có thể làm
tôm cá chết. Vì vậy, các biện pháp điều chỉnh độ pH
ong nôi trồng thủy sản
o phù hợp là rất cần thiết.
1.5.6 . Muối dinh dưỡng
Hàm lượng muối phốt phát dao động trong năm từ 0.5 – 5.67 mg P/l. Hàm
lượng nitrat từ 1.89 – 2.27 mg N/l. Hàm lượng muối dinh dưỡng trong đầm thấ
sự hấp
ụ của thực vật phù du trong đầm gây
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠN
21
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiện trạng vệ sinh môi trường, hoạt độ
sử dụng nguồn lợi, hình thức quản lý tại đầm Ô Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: đầm Ô Loan thuộc 5 xã An Cư, An Hải, A
Ninh Đông, An Hiệp, An Hòa huyện Tuy An, Tỉnh Phú Yên
- Thời
n nghiên cứu: từ 21 thán
2 đến 30 tháng 4 năm 2011
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiể
các hoạt động phụ t
ộc vào nguồn lợi của
m Ô Loan.
+ Đánh bắt thủy sản
Nuôi trồng thủy sản
+ Thu nhập của ngư dân q
nh đầm
- Những h
t động sống của ngườ
dân tại đây.
+ Vấn đề
c thải
+ Vấn đề nhà vệ sinh
+ Vấn đề nước s
h hoạt
- Tình hình
uản lý nguồn tài nguy
22
ại đây.
+ Hình thức tổ chứ
+ Phương thức quản lý
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hồi cứu số liệu: thu thập số liệu sơ cấp
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Phương pháp phỏng vấn nhanh: có sự tham gia của cộng đồng
ong đó có sử dụng các công cụ như: bảng hỏi, bản đồ,…
- Quan sá
trực tiếp kết hợp với thu thập hình ảnh bằng máy
23
h.
- Ph
ng pháp xử lý số liệu bằng phần
excel.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BIỆN LUẬN
.1. Tiềm năng đa dạng sinh học àcác loài
ộng vật th ủy sản có giá trị kinh tế
ại đ ầ m Ô Loan
3.1.1. Nguồn lợi sinh vật vùng triều
Thủy sinh vật dinh dưỡng là một khâu rất quan trọng trong chu kì sống của
tôm, cá. Số lượng thức ăn giàu nghèo là một trong nhiều yếu tố quyết định sự phân
bố của giống loài và trữ lượng của chúng. Trong đó thực vật
hù du và động vật đáy có tầm quan trọ
bậc nhất [2].
3.1.2. Thực vật nổi - thực vật phù du
Thực vật nổi là những loài vi tảo có đời sống trôi nổi, là thức ăn giàu dinh
dưỡng của ấu trùng, nhiều loài hải
ản, là mắt xích đầu tiên trong chuỗi thức ăn tự nhiên.
Thực vật phù du phát triển mạnh, có hơn 100 loài đã được tìm thấy trong
đầm. Trong năm có hai lần thực vật phù du phát triển cao nhất, một vào tháng 6,
tháng 7 và một vào tháng 12. Trong đầm nuôi, do điều kiện sống nên khu hệ tảo có
nhiều nhóm ưu thế t
y nhau phát triển và ít sai khác với
vùng sông [2; 13].
3.1.3. Động vật nổi - động vật phù du
Động vật phù du là một trong những khâu quan trọng trong mắt xích thức ăn
của các loài tôm, cá trong thủy vực. Động vật phù du trong đầm Ô Loan có tới 82
loài, phần lớn có nguồn gốc từ bi
n
Lượng động vật phù du rất cao, trung bình đạt
đến 2064 con/m 3 , cao hơn 4 – 5 lần các đầm khác trong nước. Đây là lượng
24
ức ăn đáng kể cho c
loài thủy sản trong đầm, nhất là tôm con.
3.1.4. Động vật đáy
Động vật đáy vùng triều chủ yếu gồm các loài ăn lọc, ăn cặn vẩn và ăn tạp
tạo nên một nhóm tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong chuỗi xích thức ăn phế liệucủa
vùng tiều. Mộ số loài củ yếu thường ặp có giu nhiều tơ ( Polychaeta ), ốc
( Gastropoda ), cua cũng ( Brachyura ), thân mền, giáp xác, daai, sò huyết, khối
lượng d
o
đ
g trong khoảng 0,82
17,97 g/m 2 , với mật độ 20 – 50 con/m 2 .
3.1.5. Các loài cỏ
Có 72 loài cỏ thuộc 51 giống và 39 họ, trong đó có 24 loài ở biển, 48 loài
sống ở biển - cửa sông, 5 loài cho sản lượng cao là cá Đối, cá Căng, cá Mối, cá Dìa
và cá Bống. Sản lượng cá cho phép khai thác hàng năm trên 100 tấn. Các loài cỏ đ
trưng cho vùng nướ
lợ ở đây có cỏ Vược, cá Đối Mắt Đỏ, cá Bống Bớp [2].
3.1.6. Các loài tôm
Tôm có trên 10 loài chủ yếu thuc họ tôm he. Có hai loài chiếm ưu thếtrong
vùng l tôm rảo ất ( Metapenaeius ) sản lượng hai thác 200-250 tấ/năm , tôm vàg
( M.joynri ), sau đó là tôm lớt bạc thẻ ( Penaeus mergueensis ) và tôm sú ( P.
monodon ). T
lớt và tôm sú chiếm t
lệ không nhiều trong quần đàn đặc bệt là tôm sú [13].
3.1.7. Các loài giáp xác
Cua, ghẹ những năm trước đây có thể khai tác 10-20 tấn/ăm
Ở đây loài cua lớn nhất có
iá trị kinh tế cao là loài cua xanh ( Seylla senata ).
3.1.8. Các loài nhuyễn thể
Cũng rất đa dạng, theo số liệu điều tra năm 1978 thì thành phần nhuyễn thể ở
đầm Ô Loan bao gồm: Sò huyết, ngao dầu, xút, hàu, điệp, vẹm vỏ xanh, Ở một số
vùng nhuyễn thế nhiều đến mức nhân dân trong vùng gọi
à: Bãi Ngao ở An Hiệp, bãi Sò ở An Ninh Đông, Sò huyết là đặc sản của
đầm Ô Loan.
Những năm trước đây Sò huyết phân b
25