Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động sáng tạo gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Từ việc tìm ra lửa, chế tạo công cụ bằng đá thô sơ đến việc sử
dụng năng lượng nguyên tử chinh phục vũ trụ đều là kết quả hoạt động sáng
tạo của loài người. Hoạt động sáng tạo của loài người không ngừng được phát
triển cùng với sự phát triển của xã hội. Sáng tạo không thể tách rời khỏi tư
duy, tưởng tượng của con người. Chính quá trình tưởng tượng sáng tạo với
chủ thể là con người đã tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, các thành tựu vĩ
đại về mọi mặt trong cuộc sống và tạo ra nền văn minh nhân loại. Ngày nay,
cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, số lượng các bài toán phức tạp
mà loài người cần phải giải quyết tăng nhanh, trong khi yêu cầu thời gian giải
bài toán cần được rút ngắn. Người ta lại không thể nào tăng mãi phương tiện
và số lượng người tham gia giải bài toán. Vì vậy đòi hái con người phải
không ngừng sáng tạo. Muốn đạt hiệu quả cao trong sáng tạo đòi hỏi phải bồi
dưỡng khả năng tưởng tượng sáng tạo cho con người ngay từ khi còn rất nhỏ.
Mét trong những cách tối ưu là phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo cho
trẻ trước tuổi học (từ 5 - 6 tuổi).
Thực tiễn cho thấy con người có khả năng sáng tạo từ rất sớm: Moza 3
tuổi đã tự mình hoà âm trên đàn, 5 tuổi đã sáng tác nhạc, 8 tuổi đã viết những
bản xônát và giao hưởng đầu tiên. Newton lúc lên 8 tuổi đã biết làm trò chơi
cơ học khiến mọi người phải ngạc nhiên. Êđisơn khi 7 tuổi đã có phát minh
đầu tiên về bóng đèn diện… Nh vậy các nhà giáo dục hoàn toàn có thể tin
tưởng rằng, con người luôn tiềm tàng khả năng sáng tạo từ rất sớm. Điều quan
trọng là phải sớm phát hiện, động viên, khích lệ và có biện pháp giúp các em
phát huy và phát triển khả năng sáng tạo của mình.
1
Trường mầm non là môi trường rất thuận lợi tạo điều kiện cho sự nảy
nở và phát triển những ý tưởng sáng tạo đang còn Êp ủ trong trẻ em. Sự hình
thành và phát triển những khả năng tưởng tượng ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là
một tiền đề quan trọng đặt nền móng cho khả năng sáng tạo trong mọi hoạt
động sau này của đứa trẻ, đồng thời tạo mọi điều kiện quan trọng cho trẻ học
tập thông minh và sáng tạo ở lứa tuổi học đường.
Đối với trẻ mẫu giáo, óc tưởng tượng sáng tạo thể hiện trình độ phát
triển trí tuệ nói chung và tư duy nói riêng. Điều này được cụ thể hoá trong
mục tiêu giáo dục mầm non, Quyết định 55 của Bộ giáo dục và Đào tạo:
Chúng ta cần phải rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng cho trẻ.
Ở trường mầm non trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi được tham gia vào rất nhiều
các dạng hoạt động phong phó, song có thể nói, hoạt động hấp dẫn và thu hút
trẻ nhất là hoạt động tạo hình. Hoạt động tạo hình là sự liên kết của các loại
hình hoạt động phong phú như: vẽ, nặn, dán, xé, lắp ghép. Trong đó hoạt
động có khả năng rèn luyện óc tưởng tượng sáng tạo tốt nhất là hoạt động vẽ.
Vì nã đòi hái trẻ phải huy động một cách tích cực những biểu tượng và vốn
hiểu biết của mình. Tranh vẽ của trẻ mẫu giáo thể hiện vốn kinh nghiệm mà
trẻ có được qua quá trình trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh. Trẻ nhận biết
thế giới như thế nào thì phản ánh vào tranh vẽ như vậy. Sự đa dạng và hợp lý
trong tranh vẽ của trẻ phụ thuộc vào vốn biểu tượng, vốn kinh nghệm và
phương pháp hướng dẫn của người lớn.
Hoạt động vẽ giữ vai trò quan trọng trong đời sống của trẻ, là hoạt động
cơ bản giúp trẻ nhận thức có hiệu quả thế giới xung quanh, là một trong
những yếu tố để hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo. Để tìm hiểu thực
trạng của hoạt động này ở các trường mầm non, trên cơ sở đó đề xuất một số
biện pháp nhằm phát huy trí tưởng tượng sáng tạo cho trẻ qua hoạt động vẽ,
góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục con người, chúng tôi lựa chọn và
2
tiến hàng nghiên cứu đề tài: “Tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi qua hoạt động vẽ ”
3
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu thực trạng khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo
lớn 5-6 tuổi qua tranh vẽ.
- Thử nghiệm một số biện pháp tác động tâm lý nhằm tạo điều kiện cho
khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi được béc lộ và phát
triển qua hoạt động vẽ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu chính gồm 127 trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở 2 trường
của Hà Nội là:
o Trường Mầm non Tuổi Hoa - Cầu Giấy
o Trưòng Mầm non Hoạ Mi - Gia Lâm
- Khách thể nghiên cứu phụ gồm 30 giáo viên của hai trường mầm non
trên.
4. Giả thuyết khoa học
- Tưởng tượng sáng tạo của trẻ được bộc lộ qua hoạt động vẽ, nhưng
mức độ tưởng tượng sáng tạo bộc lộ chưa cao, chủ yếu ở mức trung bình.
- Có sự khác biệt về mức độ tưởng tượng sáng tạo giữa trẻ mẫu giáo 5 -
6 tuổi ở nội thành và ngoại thành Hà Nội, giữa trẻ trai và trẻ gái.
- Khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi sẽ bộc lộ
và phát triển thuận lợi hơn khi có tác động tâm lý phù hợp của nhà giáo dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về tưởng tượng sáng tạo trong
hoạt động vẽ…
5.2. Khảo sát thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi qua hoạt động vẽ.
4
5.3. Đề xuất và thử nghiệm một biện pháp tác động nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua
hoạt động vẽ được bộc lộ và phát triển.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra viết
6.2.2. Phương pháp quan sát
6.2.3. Phương pháp trò chuyện
6.2.4. Phương pháp trắc nghiệm
6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
6.2.6. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
6.3. Phương pháp toán thống kê
7. Đóng góp mới của đề tài
- Chỉ ra được thực trạng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi qua hoạt động vẽ.
- Xây dựng và thử nghiệm được biện pháp tác động tâm lý cụ thể nhằm
nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo của các em qua hoạt động vẽ.
5
Chương 1
tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo
trong tâm lý học
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Từ những năm 80 của thế kỷ XIX tranh vẽ của trẻ em đã trở thành mối
quan tâm của nhiều trường phái khoa học khác nhau. Thông qua tranh vẽ của
trẻ, các nhà khoa học muốn thâm nhập vào thế giới bên trong đầy hấp dẫn của
trẻ, còn các nhà giáo dục học, muốn tìm con đường dạy học tối ưu tạo điều
kiện cho sự phát triển toàn diện của trẻ.
Các nhà tâm lý học hành vi đánh giá cao vai trò của ảnh hưởng bên
ngoài đối với sự phát triển của trẻ song vẫn còn những hạn chế khi xem kết
quả hoạt động tưởng tượng sáng tạo là phản ứng thụ động của trẻ với những
kích thích từ bên ngoài môi trường.
Các nhà tâm lý học cấu trúc có những đánh giá đúng đắn về vài trò của
tri giác nhưng còn hạn chế khi lý giải hoạt động tưởng tượng sáng tạo bằng
quy luật “bừng sáng” của cấu trúc tiền định trong não. Tính tích cực hoạt
động của con người bị đưa vào hàng thứ yếu trong khi tính sinh vật lại được
đưa lên giữ vai trò quyết định.
Từ những năm 40 – 50 các nhà giáo dục học và tâm lý học Xôviết cũng
quan tâm đến hoạt động vẽ của trẻ.
Những nghiên cứu của N.P.Xaculina đã chỉ ra vai trò của quan sát
trong tạo hình và tìm ra phương pháp hướng dẫn quan sát trong mối liên hệ
với hoạt động tạo hình. Theo tác giả này, việc làm giầu kinh nghiệm cho trẻ là
nguồn gốc quan trọng đối với sự phát triển tưởng tượng của trẻ. Tập thể các
tác giả N.P.Xaculina, N.A.Vetlugina, N.X.Kapunxkaia, V.A.Ezkeeva,
6
I.L.Bzergiexki, T.T.Kazakova đã vạch ra chương trình, phương pháp, nội
dung giáo dục nghệ thuật trong các giờ học.
Các tác giả nh A.N.Leonchiev, A.V.Giaporozet, B.M.Chevlov…đã
khẳng định vai trò chủ đạo của chương trình giáo dục, dạy học và ý nghĩa của
hoạt động sư phạm trong sự phát triển khả năng tưởng tượng của trẻ nhỏ.
Ngày nay không chỉ ở Liên Xô mà nhiều tác giả ở nhiều nước khác có các
công trình nghiên cứu đã quan tâm đến sự phát triển khả năng tưởng tượng
cũng như khả năng sáng tạo của trẻ như S.teintanova (Bungari), R.Muller,
G.Resel (Đức), Xuzuki Xezo và Xinxaku Tada (Nhật), R.soka (Pháp),
E.Kramer và B.Jefferson (Mỹ)… các tác giả trên đều có quan điểm chung là
coi trọng vai trò hoạt động tích cực của bản thân trẻ trong quá trình phát triển
nói chung cũng như vai trò của tác động sư phạm trong hoạt động tạo hình nói
riêng (44).
1.1.2. ở Việt Nam
Ở Việt Nam hầu nh chưa có công trình nghiên cứu cấp quy mô về hệ
thống phương pháp, biện pháp phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo cho
trẻ trong hoạt động tạo hình.
Năm 1990, tác giả Đỗ Thuật đã có đề tài nghiên cứu “Hình thành
phương pháp phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu vẽ cho học sinh phổ thông”.
Trong đề tài của mình, Đỗ Thuật chủ yếu đề cập đến phương pháp phát triển
năng khiếu vẽ cho học sinh lứa tuổi tiểu học. Tác giả không đi sâu nghiên cứu
sự phát triển tưởng tượng sáng tạo qua hoạt động vẽ của trẻ ở lứa tuổi này.
Thực tế giáo viên ở một số trường MN thực hiện các chương trình giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục nghệ thuật còn tồn tại những hạn chế, thậm chí có
những kết quả tiêu cực trong việc phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo,
cụ thể là khả năng sáng tạo nói chung và sáng tạo nghệ thuật nói riêng ở trẻ.
Nắm bắt được tình hình này, năm 1996 tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ đã nghiên
cứu đề tài: “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động
7
vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi” nhằm chứng minh vai trò của tri giác đối với sự phát
triển tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ. Còn tác giả Phan Việt
Hoa lại tìm kiếm con đường để nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
mẫu giáo thông qua hoạt động tạo hình.
Nhà tâm lý Nguyễn Ánh Tuyết nhấn mạnh sự cần thiết của việc giáo
dục, hướng dẫn trẻ em trong lĩnh vực tạo hình sao cho trẻ thể hiện được tính
hồn nhiên, thơ ngây, ngộ nghĩnh trong sản phẩm của mình mà vẫn nâng cao
hiểu biết về cách nhìn, cách cảm và kỹ năng thể hiện của trẻ.
Năm 1998, tác giả Trương Thị Bích Hà đã có đề tài nghiên cứu “Tưởng
tượng sáng tạo hành động của sinh viên khoa diễn viên trường đại học Sân
khấu - điện ảnh Việt Nam”. Trong đề tài của mình, tác giả đã đi sâu nghiên
cứu thực trạng tưởng tượng sáng tạo của sinh viên khoa diễn viên trường đại
học Sân khấu - điện ảnh.
Như vậy, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều thấy được vai
trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển của trẻ, đều quan tâm đến việc
tìm kiếm những con đường có hiệu quả nhất để nâng cao khả năng tưởng
tượng cho trẻ, đề cao vai trò hướng dẫn của người lớn trong việc giúp trẻ tiếp
thu các kiến thức và kỹ năng tạo hình. Mặc dù vậy, các tác giả lại chưa đi sâu
nghiên cứu khả năng tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ
mẫu giáo nói chung, trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi nói riêng.
1.2. Tưởng tượng sáng tạo
1.2.1. Khái niệm tưởng tượng sáng tạo
Khái niệm tưởng tượng sáng tạo xuất phát từ khái niệm tưởng tượng.
Các nhà TLH có quan điểm không giống nhau về tưởng tượng. Theo
P.A.Ruđich (nhà TLH Nga) đã khẳng định: “Tưởng tượng là hoạt động nhận
thức mà trong quá trình nhận thức Êy con người sáng tạo ra những biểu
tượng, những tình huống trong tư tưởng, ý nghĩa; đồng thời dựa vào những
8
hình tượng còn giữ lại trong ký ức từng kinh nghiệm của cảm giác trước kia
và có đổi mới, biến đổi các thứ Êy”. [38]
Đứng trên quan điểm của mình, A.V.Giaporozet nhìn nhận “Tưởng
tượng là sáng tạo ra những hình ảnh các sự vật và hiện tượng mới bằng cách
làm sống lại trong óc người những đường liên hệ thần kinh tạm thời đã thành
lập trước đây thành các tổ hợp mới” [9].
Tác giả A.A.liublinxkaia xem xét tưởng tượng là sự phản ánh hiện thực
của con người bằng cách phối hợp những hình ảnh của sự vật đã tri giác trước
đây. Tác giả cho rằng những sự phối hợp đó càng độc đáo, chúng càng có ý
nghĩa to lớn cho hoạt động về sau của con người và mức độ tưởng tượng sáng
tạo của người đó càng cao. Người lớn sử dụng rộng rãi trí tưởng tượng vào
cuộc sống hàng ngày. Để hoàn thành bất cứ công việc gì, điều cần thiết trước
tiên là phải tưởng tượng, tức là phải tưởng tượng ra cái mục đích, cái mà vì nó
con người quyết định hành động đó. Khi đọc sách hay nói chuyện với mọi
người thì người đó phải đặt mình (tức là phải tưởng tượng) vào tâm trạng của
người khác, phải đồng cảm với họ thì mới đảm bảo việc tiếp xúc tốt nhất và
thông cảm với nhau một cách đầy đủ.
Tác giả Đức Minh cho rằng: “Tưởng tượng là sự sáng tạo ra biểu
tượng mới dựa trên cơ sở của những biểu tượng đã có trước kia” [32].
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “Tưởng tượng là một quá trình tâm
lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng
cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có” [46].
Những biểu tượng này lại do cảm giác, tri giác đem lại, được lưu giữ lại trong
trí nhớ, là biểu tượng của trí nhớ. Như vậy, tưởng tượng có quan hệ mật thiết
với trí nhớ. Sản phẩm của tưởng tượng là biểu tượng, còn gọi là biểu tượng
cấp hai. Vì thế người ta gọi biểu tượng của tưởng tượng là biểu tượng của
biểu tượng.
9
Trong đề tài này, chúng tôi thống nhất sử dụng khái niệm tưởng tượng
của tác giả Nguyễn Quang Uẩn.
Nếu tri giác cho ta hình ảnh về cái hiện tại, trí nhớ giữ lại những hình
ảnh của quá khứ thì tưởng tượng không làm hiện lên những hình ảnh quen
thuộc những hình ảnh cũ, tri thức cũ đã nhào nặn mà phối hợp theo kiểu mới
độc đáo thành những hình ảnh mới có mầu sắc riêng biệt. Chính vì vậy mà
Xetrenov đã viết: “Trong đầu óc của người ta suốt cả cuộc đời không có một
tư tưởng nào mà không xây dựng lên từ những tài liệu ghi lại trong trí nhớ,
ngay cả những phát minh khoa học cũng không thoát khỏi quy luật đó” [40].
Điều này chứng tỏ rằng, kết quả của tưởng tượng có mới mẻ độc đáo
đến thế nào đi chăng nữa thì các tài liệu và cơ sở của nó cũng bắt nguồn từ
hiện thực, từ sự tái hiện lại hiện thực.
Tưởng tượng sáng tạo là mức độ cao của tưởng tượng. Nếu tưởng
tượng tái tạo tạo ra hình ảnh mới đối với cá nhân người tưởng tượng dựa trên
sự mô tả của người khác, của sách vở, tài liệu. Chẳng hạn trẻ mẫu giáo khi
nghe một câu chuyện kể nào đó, trẻ tưởng tượng hình dung một cách sinh
động những nhân vật được mô tả và các cuộc phiêu lưu của họ thì tưởng
tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới chưa có trong kinh nghiệm
cá nhân cũng như kinh nghiệm xã hội. Đứa trẻ mẫu giáo sau khi nghe xong
câu chuyện cổ tích “Thạch Sanh” đã hình dung trong đầu cảnh chàng Thạch
Sanh dùng rìu giết chết con sà tinh độc ác. Sau đó kết quả này được thể hiện
qua tranh vẽ của trẻ. Đây chính là tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Vì câu chuyện
Thạch Sanh không có thật, người đời đã tưởng tượng ra câu chuyện này để ca
ngợi sức mạnh của cái thiện. Bằng tưởng tượng của mình đứa trẻ đã sáng tạo ra
một hình ảnh mới độc đáo, không chỉ mới đối với đứa trẻ mà còn mới đối với
mọi người.
1.2.2. Đặc điểm tưởng tượng sáng tạo
10
Tưởng tượng sáng tạo là một hình thức hoạt động tâm lý đặc biệt giúp
con người hình dung trong óc những cái trước kia chưa từng tri giác, sáng tạo
ra những hiện tượng vât thể và hiện tượng trước kia con người chưa hề gặp,
sản sinh ra quan niệm về những cái sẽ sáng tạo. Tưởng tượng sáng tạo là sự
sáng tạo ra cái mới dưới hình thức biểu tượng.
Đặc điểm tiêu biểu nhất của tưởng tượng sáng tạo là tạo ra hình ảnh
mới (biểu tượng mới) một cách độc lập. TÝnh chất mới mẻ độc đáo, là đặc
điểm nổi bật của loại tưởng tượng này. Đây là mặt không thể thiếu được của
mọi hoạt động sáng tạo (trong nghiên cứu khoa học, hoạt động nghệ thuật…)
Tưởng tượng sáng tạo khác với tưởng tượng tái tạo ở chỗ tự mình tạo ra hình
ảnh của các sự vật mới không chỉ với cá nhân người tưởng tượng mà còn mới
với xã hội.
Thứ hai: Tưởng tượng sáng tạo là một loại hoạt động chuyên biệt của
con người, nó được nảy sinh và phát triển trong quá trình lao động, chúng
được hiện thực hoá trong các sản phẩm vật chất độ đáo và có giá trị.
Trước khi làm một việc gì, con người luôn nghĩ mình làm gì và làm
như thế nào? Bàn về vấn đề này, Mác đã viết: “Công việc của con nhện cũng
giống nh việc làm của người thợ dệt, xét kiến trúc của một tổ ong thì việc làm
của một con ong đã khiến cho nhiều người làm nghề kiến trúc phải hổ thẹn.
Nhưng một kiến trúc sư vụng về nhất vẫn hơn hẳn những con ong khéo nhất,
là vì đối với kiến trúc sư thì trước khi định xây tổ ong, tổ ong đã được cấu tạo
trong đầu óc ông ta rồi. Kết quả thu được khi kết thúc quá trình lao động đã
tồn tại trong quan niệm của người lao động ngay từ khi quá trình lao động
mới bắt đầu, nghĩa là kết quả đó tồn tại một cách lý tính”. [30,198]
Tưởng tượng sáng tạo ở con người được phát triển trong quá trình lao
động của họ, lao động không chỉ là mảnh đất sản sinh ra hoạt động tưởng
tượng mà còn là phương tiện thường xuyên để hoàn chỉnh và phát triển nó.
Mác đã viết: “Con người không những nhận thức thế giới mà còn là cải tạo
11
thế giới. Chính lao động đã dạy con người cải tạo thế giới. Lao động đòi hỏi
con người phải thấy trước kết quả hoạt động của mình. Nó dạy con người phải
nhìn về tương lai, phải ước mơ để dệt cho mình mục tiêu xa xôi, cao đẹp…
kết quả mà cuối cùng lao động đạt được, trí tưởng tượng của người lao động
đã quan niệm ra trước rồi” [29,248]
Hoạt động đã hỗ trợ cho sự hình thành và cải tiến những cách thức thay
đổi và biến hoá biểu tượng ở con người trong quá trình tưởng tượng.
Thứ ba: Nguồn gốc của tưởng tượng nói chung, tưởng tượng sáng tạo
nói riêng bao giờ cũng là hiện thực khách quan. Con người có thể nghĩ tới
những gì chưa có trong hiện thực, khi đó tưởng tượng có thể “vượt khỏi” hiện
thực. Con người có thể suy nghĩ về những cái không tồn tại trong thực tế,
thậm chí có thể nghĩ tới những cái không thể thực hiện được. Song cái mới do
con người sáng tạo ra dù thế nào đi nữa nhưng nó nhất thiết bao giờ cũng phải
xuất phát từ những cái đã có trong hiện thực dù đó là đơn sơ nhất.
Nhà khoa học, khi đề ra những giả thuyết táo bạo nhất cũng xuất phát
từ những quy luật khách quan trong hiện thực. Nhà thiết kế và nhà phát minh
đều phải dựa vào những quy luật khách quan của giới tự nhiên. Nhà văn, hoạ
sỹ khi sáng tác cũng đều xuất phát từ những điều quan sát đã có, rót ra được
từ cuộc sống.
Ngay trong các trò chơi của trẻ do chính chúng nghĩ ra, chóng ta thấy
những cái được tái hiện chính là những cái do trẻ “tai nghe mắt thấy” ở xung
quanh. Ngay cả khi sáng tạo ra những hình tượng thuần tuý huyễn tưởng thì
trong đó cũng bao gồm những cái rót ra từ hiện thực khách quan, đều là sự
phản ánh của hiện thực khách quan. Mặc dù hiện tượng nói đến trong các câu
chuyện thần thoại, dân gian… bởi vậy khi kiểm tra các sản phẩm của tưởng
tượng sáng tạo đòi hỏi phải dựa vào hiện thực khách quan.
Mối liên hệ không thể tách rời được giữa tưởng tượng sáng tạo với hiện
thực khách quan đã quyết định sự phụ thuộc của tưởng tượng vào những kích
12
thích về hiện thực. Kích thích dùng để sáng tạo những cái mới càng rộng bao
nhiêu, kinh nghiệm thực tiễn càng phong phó bao nhiêu khả năng sáng tạo ra
cái mới và ứng dụng những cái mới đó vào thực tiễn càng lớn bấy nhiêu. Do
vậy tưởng tượng sáng tạo liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính. Nó sử dụng
những biểu tượng của trí nhớ do nhận thức cảm tính thu lượm và cung cấp.
Tưởng tượng sáng tạo có liên hệ mật thiết với tưởng tượng tái tạo. Một
mặt mọi tưởng tượng sáng tạo đòi hỏi lặp lại hình ảnh của các sự vật và hiện
tượng nào đó đã biết trước đây. Mặt khác trong các quá trình tưởng tượng
sáng tạo thường có yếu tố sáng tạo. Chẳng hạn khi nghe kể chuyện cổ tích, trẻ
tạo lại hiện tượng những nhân vật trong truyện nhưng thường bổ sung những
điều đã nghe trước đây vào tưởng tượng của mình, ghép cho các nhân vật
những nét mới tạo ra các cảnh và sự kiện mới.
Ngoài ra tưởng tượng sáng tạo có một hình thức đặc biệt là ước mơ.
Khác với các loại tưởng tượng khác. Ước mơ bao giờ cũng vẽ ra hình ảnh về
một cái gì mà người ta mong muốn. ước mơ tưởng tượng hướng về tương lai
xa hay tương lai gần nhưng là một tương lai mong muốn.
Ước mơ có thể kích động con người hoạt động, giúp con người hình
dung một cách sinh động những kết quả mong muốn của hoạt động và do đó
thúc đẩy con người vươn tới những kết quả đó một cách mãnh liệt hơn.
Nhưng có những trường hợp mà ước mơ tách rời thực tế và ngăn cách con
người hoạt động. Có người lấy ước mơ thay cho hành động thực tế, tìm trong
ước mơ thực hiện nguyện vọng của mình. Ta gọi những người đó là “những
người mơ mộng hão huyền”.
1.2.3. Vai trò của tưởng tượng sáng tạo trong sự phát triển tâm của
lý trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
Tưởng tượng sáng tạo vô cùng cần thiết trong bất kỳ hoạt động nào của
con người nh: việc học tập, lao động, sáng tạo, trò chơi… chỉ có kết qủa nếu
có tưởng tượng. Sự khác nhau cơ bản giữa lao động của con người và hoạt
13
đông bản năng của con vật chính là ở biểu tượng và kết quả mong đợi do
tưởng tượng tạo nên. Tưởng tượng giúp con người hình dung được kết quả
trung gian và cuối cùng của lao động. Trước khi con người bắt tay vào hoạt
động người ta hình dung các công việc sẽ ra sao, tự tưởng tượng ra những kết
quả có thể về hành động của mình.
Tưởng tượng sáng tạo có vai trò rất lớn trong nhận thức và hành động
của con người nói chung, trẻ em nói riêng.V.I.Lênin viết: “Có người cho rằng
chỉ có nhà thơ mới cần đến tưởng tượng, nh vậy là hoàn toàn không có căn
cứ. Đó là một lối nhìn lệch lạc, ngu xuẩn. Ngay cả toán học cũng cần có
tưởng tượng, không có nó thì không thể tìm ra tích phân và vi phân được”
[23]. Có thể khẳng định trí tưởng tượng phải có và cần thiết cho mọi người.
Thiếu ước mơ, không có dự kiến sáng tạo thì không thể xây dựng được những
con tầu vũ trụ, những trạm thuỷ điện và những máy móc độc đáo khác.
Tưởng tượng tạo nên những hình mẫu tươi sáng, rực rỡ chói lọi hoàn hảo
mà con người mong đợi và vươn tới. Nó nâng con người lên trên hiện thực,
làm nhẹ bớt những nặng nề khó khăn của cuộc sống, hướng con người về phía
tương lai, kích thích con người hành động để đạt được những kết quả lớn lao.
Tóm lại, tưởng tượng phải có và vô cùng cần thiết cho con người. Viện
sỹ K.A.Timiriazep đã chỉ rõ vai trò của tưởng tượng: “Tưởng tượng sáng tạo
luôn là cơ sở của mọi phát minh khoa học vĩ đại. Tất cả những bác học vĩ đại
theo nghĩa riêng của nó đã là những hoạ sỹ vĩ đại. Con người biết suy nghĩ
vẫn có thể thu thập sự kiện nhưng không thể làm nên những phát minh vĩ
đại”.
Đối với trẻ em nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng, tưởng tượng
sáng tạo giúp trẻ đạt hiệu quả trong các hoạt động vui chơi, học tập, lao động.
Trước khi tham gia bất kỳ một hoạt động nào, nếu có tưởng tượng sáng tạo trẻ
không chỉ hình dung trước được kết quả hoạt động của mình mà còn biết cách
14
giải quyết những bài toán, những hoàn cảnh có vấn đề xuất hiện trong quá
trình hoạt động.
Tưởng tượng sáng tạo làm cho nhận thức của trẻ trở nên phong phó,
sinh động. Nhìn một đám mây, nếu chỉ bằng nhận thức cảm tính trẻ chỉ biết,
đó là đám mây đen, trắng hoặc xanh. Nhưng khi có tưởng tượng, đặc biệt là
tưởng tượng sáng tạo, trẻ có thể hình dung đám mây là con ngựa, con trâu, là
máy bay, là tàu vũ trụ… Ngôn ngữ của trẻ cũng nhờ đó mà bay bổng và giàu
hình ảnh hơn. Trong khi chơi, trẻ không chỉ biết vào vai công chúa, hoàng tử
mà còn biết dùng ngôn ngữ phù hợp với vai mà trẻ đóng. Không có gì đáng
ngạc nhiên, khi ta thấy hai trẻ xưng hô với nhau là thần thiếp và bệ hạ, trẻ còn
có những cử chỉ cúi gập người hay quỳ gối xuống đất. Đơn giản vì trẻ đang
đóng vai là vua và hoàng hậu.
Tưởng tượng sáng tạo cũng chính là điều kiện để phát triển khả năng
sáng tạo của con người nói chung và của trẻ nói riêng. Chỉ khi có tưởng tượng
sáng tạo, tư duy của trẻ mới trở nên linh hoạt, nhạy bén. Khi đó trẻ có thể giải
quyết tình huống có vấn đề trong hoàn cảnh không có đủ dữ kiện để tư duy.
Trẻ mẫu giáo đã lấy ghế để làm ngựa, trong tình huống khác chúng còn lấy
ghế để làm đoàn tàu.
Tất cả những điều trên chứng tỏ tưởng tượng nói chung, tưởng
tượng sáng tạo nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con
người, đặc biệt là đối với trẻ mẫu giáo, nó góp phần phát triển nhân cách
toàn diện cho trẻ.
1.2.4. Sự phát triển tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
Tưởng tượng sáng tạo hình thành trong quá trình sống, trong hoạt động
của trẻ dưới ảnh hưởng nhất định của điều kiện sống, giảng dạy và giáo dục.
Do vậy muốn phát triển tưởng tượng sáng tạo cần tích luỹ kinh nghiệm tương
ứng, mở rộng biểu tượng về thực tại xung quanh. Kinh nghiệm được tích luỹ
15
thông qua những quan sát cá nhân của trẻ trong quá trình hoạt động, bên cạnh
đó người lớn truyền đạt tri thức cho trẻ về sự vật và hiện tượng xung quanh.
Hoạt động của trí tưởng tượng rất phức tạp và phụ thuộc vào hàng
loạt những nhân tố khác nhau. Bởi vậy hoạt động tưởng tượng sáng tạo của
trẻ em và người lớn không thể giống nhau. Tất cả những nhân tố Êy mang
trạng thái khác nhau, trong những thời kỳ khác nhau của trẻ. Chính vì vậy
ở mỗi thời kỳ phát triển của trẻ, trí tưởng tượng hoạt động theo một cách
riêng là đặc tính chính của chính trình độ phát triển của đứa trẻ khi đó. Trí
tưởng tượng phụ thuộc vào kinh nghiệm, mà kinh nghiệm của đứa trẻ hình
thành và phát triển dần dần, nó có tính đặc thù sâu sắc khác với kinh
nghiệm của người lớn. Mặt khác, những hứng thú của trẻ em và người lớn
khác nhau cho nên tưởng tượng sáng tạo của trẻ em trong hoạt động khác
với tưởng tượng sáng tạo của người lớn. [46]
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ em ở tuổi mẫu giáo lúc đầu còn hạn chế.
Dưới ảnh hưởng của giáo dục, kinh nghiệm của trẻ được mở rộng, các hứng
thú mới nảy sinh, hoạt động của trẻ phức tạp hơn thì tưởng tượng sáng tạo của
trẻ cũng “giàu có” hơn cả về số lượng và chất lượng. Tính sáng tạo thể hiện ở
chỗ ngay cả khi cô giáo quy định chủ đề trò chơi thì trẻ cũng không lặp lại
một cách máy móc mà phát triển một cách sáng tạo và bổ sung đề tài mà cô
giáo đã ra. Chẳng hạn, sau khi đi chơi công viên về, cô giáo yêu cầu trẻ vẽ
công viên và gợi ý trẻ nên vẽ cây xanh và các con thú. Bên cạnh việc làm theo
lời cô, trẻ còn vẽ thêm cả con người. Khi được hỏi “đây là ai”, trẻ đã trả lời:
đó là các bác bảo vệ, các bác Êy bảo vệ cây xanh và chăm sóc các con thú
như cho chúng ăn, tắm cho chúng… có cháu lại vẽ thêm em nhỏ và bảo đấy là
mình được bố mẹ cho đi chơi công viên ngày cuối tuần…
Hoặc sau khi cho trẻ đi dạo, cô ra chủ đề vẽ hoa cho trẻ mẫu giáo lớn.
Trẻ đã sáng tạo dáng hoa, màu sắc hoa. Trẻ biết bổ sung thêm các chi tiết cho
16
“bức tranh” sinh động hơn: vẽ thêm con ong hút mật hoa, bướm vờn hoa, ông
mặt trời mỉm cười…
Nếu nh tưởng tượng sáng tạo của trẻ trước tuổi mẫu giáo phụ thuộc
nhiều vào vật thể và đồ chơi hiện có trước mặt thì sang tuổi mẫu giáo, tưởng
tượng sáng tạo của trẻ Ýt phụ thuộc vào cái đang tri giác trong thời điểm hiện
tại. Ví dụ: Khi chơi trò chơi đường sắt, trẻ mẫu giáo tưởng tượng ra cái ghế là
toa xe nhưng trong trò chơi cưỡi ngựa thì cái ghế lại trở thành con ngựa.
Tưởng tượng của trẻ mẫu giáo phần nào có tính mục đích, có chủ định
rõ rệt. Nhờ kinh nghiệm của trẻ được mở rộng, hứng thú phát triển, hoạt động
phức tạp hơn nên tưởng tượng của trẻ có tính chất sáng tạo hơn. Chủ đề trò
chơi của trẻ, các bức tranh, các câu chuyện tự kể trở nên phong phú và đa
dạng hơn. Trong quá trình tưởng tượng, trẻ có tính độc lập cao và có sáng
kiến. Trẻ không lặp lại đơn thuần một số đề tài bắt chước ở người lớn hay các
em lớn tuổi bằng một số hình thức. Trẻ biến đổi các đề tài đó một cách sáng
tạo, bổ sung những cái mới, tự tìm ra những phương thức thực hiện những ý
định sáng tạo của mình. Nhưng khi đã phát triển đến mức độ khá cao, tưởng
tượng sáng tạo của trẻ em ở lứa tuổi này chỉ có thể diễn biến có kết quả khi nó
trực tiếp có liên quan đến hoạt động bên ngoài của trẻ. Tưởng tượng sáng tạo
gắn liền với hoạt động bên ngoài của trẻ và trong quá trình phát triển đã
chuyển hoá thành hoạt động tâm lý bên trong tương đối độc lập. Trẻ đã biết
hình dung những tình huống chơi trong óc mà không cần gắn với đồ chơi và
hành động chơi, đã biết xây dựng tình huống mới trong tưởng tượng của
mình. Chẳng hạn khi chơi trò chơi tàu thuỷ, một em đóng vai thuyền trưởng,
tuy chỉ đứng trên ghế mà vẫn tưởng tượng được mình đang vượt đại dương,
chống chọi với sóng gió…
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo gắn chặt với xúc cảm. Quan hệ
giữa tưởng tượng và xúc cảm là quan hệ hai chiều, tưởng tượng sáng tạo phụ
thuộc vào sự phát triển của cảm xúc. Cảm xúc càng sâu sắc thì tưởng tượng
17
sáng tạo càng phù hợp với tình cảm Êy. Tưởng tượng sáng tạo giữ vai trò rất
quan trọng trong việc làm giàu kinh nghiệm xúc cảm của trẻ. Thường các
cháu mẫu giáo rất thích vào vai mẹ trong trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trẻ
cũng làm các “công việc” của một người mẹ là cho con ăn, mặc quần áo cho
con, đưa con đi học, chăm sóc khi con ốm…
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ gắn liền với ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ
mà trẻ hình dung ra những gì trẻ không nhìn thấy được. Nếu ngôn ngữ kém
phát triển thì tưởng tượng cũng kém phát triển. Trong quá trình hoạt động
giáo viên nên tạo điều kiện cho trẻ dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn đạt ý
đồ, mục đích, biện pháp, cách tiến hành. Chính điều đó làm cho trí tưởng
tượng của trẻ ngày càng có mục đích, có chủ định và chủ động sáng tạo theo ý
mình đặt ra.
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ được hình thành và phát triển trong hoạt
động. Nếu hoạt động của trẻ được tổ chức một cách hấp dẫn, thu hút và lôi
cuốn trẻ thì tưởng tượng sáng tạo có điều kiện phát triển hơn. Trẻ không có kỹ
năng hoạt động thì không thể nói đến sự phát triển tưởng tượng. Trẻ không có
kỹ năng vẽ, kỹ năng truyền đạt hiện tượng xung quanh vào bức tranh thì
không thể sáng tạo ra một bức tranh.
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ gắn chặt với tư duy. Hai quá trình này có
quan hệ mật thiết với nhau, nếu không có sự kiểm soát của tư duy thì tưởng
tượng sẽ xa rời thực tế. Tư duy có thể kìm chế sự hoang tưởng và tưởng tượng
sáng tạo vạch ra con đường mới, phương thức mới giúp tư duy có đà đi lên.
Tư duy vạch ra những ý nghĩ sáng tạo cho tưởng tượng một cách có lôgic, có
phương hướng làm cho tưởng tượng bớt hoang tưởng, phi thực tế. Chính vì
vậy, để trẻ phát triển khả năng sáng tạo trong tưởng tượng chúng ta phải phát
triển khả năng tư duy cho trẻ.
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ còn gắn chặt với hứng thú của trẻ. Khi
trẻ có hứng thú với một đối tượng nhất định, như trẻ yêu thích một bài thơ,
18
một bài hát, một câu chuyện trẻ sẽ có thể tưởng tượng về những nhân vật,
vẽ ra những bức tranh cảnh vật trong câu chuyện, bài thơ hay bài hát đó.
Nếu trẻ không có hứng thú thì sẽ không thể tưởng tượng sáng tạo được.
Chúng ta cũng biết rằng, mọi hoạt động của trẻ đều gắn liền với vui chơi -
là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, tức là yếu tố tự nguyện, độc lập
tham gia và chi phối tất cả các hoạt động của trẻ, trong đó có hoạt động
tưởng tượng sáng tạo. Chỉ khi trẻ ham thích, có nhu cầu tưởng tượng về
một đối tượng nào đó thì yếu tố sáng tạo trong tưởng tượng mới được bộc
lộ. Mọi sự gò Ðp, bắt buộc đều hạn chế khả năng tưởng tượng sáng tạo của
trẻ. N h vậy, việc tạo hứng thú cho trẻ trong hoạt động vẽ cũng là một biện
pháp quan trọng phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
nói chung và trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nói riêng.
Sự phát triển tưởng tượng sáng tạo của trẻ lứa tuổi mẫu giáo có ý nghĩa
quan trọng đối với việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông. Tưởng tượng
sáng tạo không tự phát triển mà đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định,
trước hết là đòi hỏi có tổ chức, giáo dục đúng đắn. Bồi dưỡng tưởng tượng
sáng tạo cho trẻ cần phải làm cho tưởng tượng gắn với đời sống của trẻ. Giáo
viên tạo điều kiện cho trẻ tham gia nhiều vào hoạt động, tiếp xúc nhiều với
thiên nhiên để làm giầu vốn sống thì trí tưởng tượng của trẻ mới phong phó.
1.3. Lý luận về hoạt động vẽ
1.3.1. Khái niệm hoạt động vẽ
Hoạt động tạo hình nói chung, hoạt động vẽ nói riêng là một trong
những hoạt động góp phần tích cực cho sự phát triển toàn diện của trẻ mẫu
giáo. Đây là một hoạt động nghệ thuật và là phương tiện quan trọng trong
việc giáo dục thẩm mỹ. Đặc biệt hình thành và phát triển ở trẻ nhiều mầm
mống đầu tiên của sự sáng tạo. Nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện
một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh,
những gì làm cho trẻ rung động mạnh mẽ và gây cho chúng xúc cảm tình cảm
19
tích cực. Hoạt động vẽ có đầy đủ điều kiện đảm bảo sự tác động đồng bộ lên
mọi mặt phát triển của trẻ về đạo đức, trí thức, thẩm mỹ, thể chất và hình
thành các phẩm chất kỹ năng ban đầu của con người như một thành viên trong
xã hội. Qua hoạt động vẽ, trẻ biết lao động tích cực sáng tạo, đồng thời còn
rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, khả năng điều chỉnh hoạt động giữa mắt và tay.
Nh vậy hoạt động vẽ là một dạng hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Còng nh các dạng hoạt động khác, hoạt động vẽ là một hoạt động của
con người nhằm tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Thông qua
hoạt động này các khả năng sáng tạo nghệ thuật của cá nhân bộc lộ ra ngoài,
được phát hiện, bồi dưỡng và phát huy.
Hoạt động vẽ là một dạng hoạt động cơ bản trong hoạt động tạo hình.
Hoạt động vẽ nói riêng, hoạt động tạo hình nói chung là một hoạt động nhận
thức đặc biệt về hiện thực. Trong hoạt động này, con người không chỉ đơn
thuần nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh mà còn tỏ thái độ và cải tạo
thế giới theo quy luật của cái đẹp. Qua hoạt động vẽ, con người phản ánh thế
giới bằng các đường nét, màu sắc hay còn gọi là các hình tượng nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật có tính cụ thể và cảm tính, đó là sự phản ánh cái chung
thông qua cái cá biệt, tức là bằng phương thức điển hình hoá. Khác với tính
chất khách quan của các sản phẩm các công trình nghiên cứu khoa học, các
hình tượng nghệ thuật nói chung, nghệ thuật hội hoạ nói riêng mang đậm cái
nhìn chủ quan với những nét riêng, độc đáo của người hoạ sỹ.
Sự sáng tạo nghệ thuật nói riêng, sáng tạo nói chung là sự kết hợp của
nhiều yếu tố: sự tài hoa, trí tuệ, vốn sống và tâm hồn của tác giả. Trong hoạt
động nghệ thuật, người nghệ sỹ với tư cách là chủ thể sáng tạo đóng vai trò
quan trọng duy nhất trong việc làm nên tác phẩm. Chức năng của hoạ sỹ là
sáng tạo nên những cảm xúc hội hoạ phong phú, đa dạng, phản ánh được trình
độ phát triển của xã hội và của bản thân mình trên cơ sở sáng tạo nên những
hiện tượng hội hoạ điển hình và ngôn ngữ hội hoạ điển hình. Hình tượng hội
20
hoạ điển hình là kết quả sáng tạo của người nghệ sỹ trên cơ sở lựa chọn, khái
quát, nhào nặn những hình ảnh của cuộc sống khách quan. Ngôn ngữ hội hoạ
cũng là thành tựu sáng tạo của người hoạ sỹ trên cơ sở vốn ngôn ngữ hội hoạ
của những người đi trước. Vì vậy, sản phẩm hội hoạ vừa là sản phẩm hội hoạ
vừa là sản phẩm vật chất, vừa là sản phẩm tinh thần.
Giữa sáng tạo nghệ thuật và sáng tạo khoa học có mối liên kết rất chặt
chẽ. Các thành tựu của khoa học kỹ thuật tiến bộ là một trong những yếu tố quan
trọng trong sự phát triển sáng tạo nghệ thuật. Những kiến thức khoa học giúp
người hoạ sỹ nắm được các quy luật, các nguyên tắc nhận thức, từ đó tạo nên các
cơ sở cho những phát hiện mới trong nghệ thuật. Các thành tựu trong giải phẫu
học, kết quả phân tích các chất liệu, thành tựu quang học, các quy luật của sự
cảm nhận màu sắc, ánh sáng, hình dạng…là vốn kinh nghiệm quý báu không thể
thiếu đối với người hoạ sỹ trong việc phản ánh thế giới vừa chính xác, vừa nghệ
thuật. Ngược lại, nghệ thuật lại bổ sung cho các nghiên cứu khoa học những ý
tưởng về vẻ đẹp hài hoà trong sự vận động và phát triển của thế giới.
1.3.2. Bản chất và nguồn gốc hoạt động vẽ của trẻ
Từ lâu hoạt động vẽ của trẻ đã được nhiều nhà nghiên cứu về nghệ
thuật, về tâm lý học, về giáo dục học… quan tâm tới. Với mục đích riêng của
mình, các ngành khoa học nghiên cứu hoạt động vẽ của trẻ ở những khía cạnh
khác nhau, song các công trình nghiên cứu đều quan tâm đến bản chất hoạt
động vẽ của trẻ.
Ngày nay các công trình nghiên cứu TLH đã khẳng định rằng sự phát
triển hoạt động tạo hình là một khía cạnh của sự phát triển tâm lý diễn ra
thông qua sự lĩnh hội của đứa trẻ những phẩm chất năng lực tâm lý đặc trưng
cho con người đã được in dấu trong nền văn hoá vật chất và tinh thần của xã
hội. Có thể khẳng định rằng hoạt động vẽ nói riêng và hoạt động tạo hình nói
chung là một hoạt động có nguồn gốc xã hội. [44]
21
Nhà TLH trẻ em V.X.Mukhina (Nga) chuyên nghiên cứu tranh vẽ của
trẻ em đã xem hoạt động vẽ của trẻ nh một quá trình lĩnh hội các kinh nghiệm
xã hội. [85]
Hoạt động vẽ là một loại hình hoạt động của hoạt động tạo hình, là một
hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Trong quá trình hoạt động, trẻ lĩnh hội nhận
thức hiện thực xung quanh và phản ánh những suy nghĩ, tình cảm của trẻ
thông qua những hình tượng mang tính nghệ thuật. [13]
Bàn về vấn đề này, E.A.Florina viết: “Sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ
được hiểu nh sự phản ánh có ý thức hiện thực xung quanh vào tranh vẽ”. Sự
phản ánh này được tạo nên nhờ tưởng tượng sáng tạo, nhờ quan sát, chọn lọc
những Ên tượng mà trẻ nhận được qua lời nói, qua tranh và những dạng nghệ
thuật khác [14,15]
Nghiên cứu nguồn gốc của sự phát triển hoạt động vẽ, theo
L.X.Vưgôtxki, đối với trẻ em, đặc biệt là trẻ mẫu giáo thì hoạt động vẽ là hoạt
động sáng tạo căn bản. Đây là quá trình các em phản ánh những Ên tượng từ
cuộc sống, những suy nghĩ, tình cảm của mình bằng các phương tiện, chất
liệu nghệ thuật, thông qua hình tượng mang tính nghệ thuật.
Một số nhà TLH nh J.Piaget, L.X.Vưgôtxki… đã khẳng định rằng: cội
nguồn của sự phát triển hoạt động tạo hình chính là sự bắt chước, sự hình
thành và phát triển của các chức năng kí hiệu.
Thật vậy, ở các giai đoạn đầu của quá trình hình thành, phát triển hoạt
động tạo hình, việc hoàn thiện khả năng tạo hình phụ thuộc phần lớn vào các
chỉ dẫn, các nguyên mẫu. Khi đứa trẻ đã có khả năng độc lập quan sát, phân
tích đối tượng miêu tả và khả năng tưởng tượng sáng tạo thì trẻ sẽ giảm sự bắt
chước nguyên mẫu.
Theo nghiên cứu của A.N.Leonchiev thì không phải mọi trò chơi của
trẻ em đều dẫn tới sự phát triển hoạt động sáng tạo nghệ thuật của trẻ mà chủ
yếu là loại trò chơi đóng kịch ở dạng phát triển. Trong loại hình trò chơi này,
22
trẻ không chỉ đơn thuần bắt chước mà ở trẻ còn có sự kiến tạo một cách tự do,
sáng tạo. A.N.Leonchiev gọi hoạt động trò chơi này là trò chơi mang tính chất
giao thời, có khả năng chuyển biến sang hoạt động thực tiễn mang tính chất
thẩm mỹ nhằm tạo ra sản phẩm với động cơ tác động thẩm mỹ lên người
khác. Bởi vì, trong loại trò chơi này, các điều kiện của hoạt động trò chơi tạo
ra sự cần thiết phải nảy sinh tưởng tượng sáng tạo.
Mặt khác, trong nguồn gốc của hoạt động tạo hình không chỉ có trò chơi
mà còn có những yếu tố không mang tính chơi. Đó là quá trình lĩnh hội bằng
cảm giác một cách độc lập các phẩm chất như hình dạng, mầu sắc, âm thanh…
và sự liên kết, thay đổi hình dạng của chúng. Quá trình này cung cấp cho trẻ
nhiều vốn sống, đem lại niềm vui sướng cho trẻ. Chính vì thế, đây cũng là cơ sở
cho sự xuất hiện, hình thành tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ.
Một số nhà TLH quan niệm rằng cơ sở xuất phát của tưởng tượng sáng
tạo ở trẻ em là một hoạt động gắn liền với trò chơi. Rõ ràng là giữa hoạt động
tạo hình và trò chơi trẻ em có nhiều nét tương đồng: cả hai hoạt động đều
nhằm vào sự lĩnh hội tích cực các sự vật, hiện tượng xung quanh. Cả hoạt
động tạo hình và trò chơi đều bắt nguồn từ những nhu cầu cấp bách của bản
thân đứa trẻ và do sự bùng nổ nhanh chóng của những xúc cảm, tình cảm luôn
tràn ngập trong trẻ. Trong cả hai hoạt động trẻ đều tạo ra các mối quan hệ
giữa vật thay thế và vật được thay thế. Tuy nhiên, với tư cách là một hoạt
động mang tính nghệ thuật, hoạt động tạo hình có những nét khác biệt với trò
chơi. Trong trò chơi mối quan hệ thay thế được xác lập chủ yếu do chức năng
mà trẻ gán cho vật thay thế bằng tên gọi của vật được thay thế. Trong hoạt
động tạo hình, mối quan hệ này được tạo nên trước hết do sự giống nhau bên
ngoài giữa chúng. Hơn nữa, động cơ của trò chơi chủ yếu nằm ở quá trình
hoạt động, động cơ của hoạt động tạo hình nằm ở cả quá trình và kết quả của
hoạt động, ở cả việc đánh giá và thưởng thức kết quả sáng tạo.
23
Các công trình nghiên cứu của các tác giả Nga xem xét kết quả của
hoạt động tạo hình của trẻ trên quan điểm giáo dục đã công nhận sự cần thiết
của việc dạy trẻ học vẽ và cho rằng sự bắt chước chỉ là chỗ dựa ban đầu trong
quá trình học vẽ dưới ảnh hưởng của giáo dục. Theo N.Đ Lêvitov, sự bắt
chước có trí tuệ thể hiện sự độc đáo và tính cá nhân của trẻ. Khả năng bắt
chước của trẻ được các nhà giáo dục sử dụng làm cơ sở tâm lý của việc dạy
học ban đầu nhằm cung cấp cho trẻ những kỹ năng, kỹ xảo đầu tiên cần thiết
làm nền tảng cho hoạt động sáng tạo sau này.
Nh vậy hoạt động vẽ của trẻ vừa được coi nh một quá trình lĩnh hội các
kinh nghiệm xã hội, vừa được coi là một hoạt động mang tính sáng tạo nghệ
thuật.
1.3.3. Đặc điểm hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Hoạt động vẽ là một hoạt động quan trọng trong giai đoạn tuổi mẫu
giáo. Vẽ là một dạng hoạt động sáng tạo tạo ra sản phẩm, cùng với trò chơi nó
có vai trò cơ bản trong sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo. Không phải chỉ
đến tuổi mẫu giáo trẻ em mới bắt đầu vẽ. Từ khi cầm được bút trẻ đã có thể
vạch ra được những đường nét xác định ra giấy nhưng chỉ đến tuổi mẫu giáo
hoạt động vẽ mới trở thành hoạt động đáng chú ý so với lứa tuổi trước. Vào
tuổi mẫu giáo, hoạt động vẽ bắt đầu được phát triển đáng kể do nhận thức, kỹ
năng kỹ xảo và kinh nghiệm của trẻ ngày càng phong phú hơn. Trẻ mẫu giáo
vẽ rất nhiều, vì chính quá trình vẽ đã làm trẻ ham thích, đồng thời kết quả của
hoạt động vẽ gây thích thú cho trẻ. Trẻ vẽ tự giác và với niềm say mê thực sự
bởi điều đó làm thoả mãn nhu cầu của trẻ.
Sản phẩm sáng tạo của trẻ mẫu giáo còn rất khác so với của một hoạ sỹ
thực sự. Hoạt động tạo hình nói chung, hoạt động vẽ nói riêng thể hiện rõ đặc
điểm nhân cách của trẻ đang được hình thành. Hoạt động vẽ của các em
không nhằm mục đích tạo nên những sản phẩm phục vụ xã hội, cải tạo xã hội
mà thông qua hoạt động này nhân cách của các em được hình thành và phát
24
triển, tức là nhằm biến đổi và phát triển chính bản thân trẻ. Chẳng hạn khi cho
trẻ mẫu giáo vẽ bức tranh về chủ đề “Gia đình của em”, bức tranh này không
có gì mới đối với mọi người nhưng qua đó trẻ đã thể hiện thái độ, tình cảm,
nhận thức và suy nghĩ của mình về những người thân trong gia đình. Đây là
cơ sở để phát triển tư duy, trí nhớ, tình cảm… của trẻ.
Đặc điểm đầu tiên dễ dàng nhận thấy trong tranh vẽ của trẻ là tính duy
kỷ. Cái mà trẻ quan tâm nhất trong khi vẽ là vẽ cái gì chứ không phải vẽ như
thế nào. Chính vì vậy, trẻ sẵn sàng vẽ bất cứ cái gì không cần biết khó khăn
trong miêu tả.
Trẻ càng nhỏ tuổi càng dễ dàng lựa chọn đối tượng miêu tả. Bởi lẽ đối
tượng đó thường là cái mà trẻ thích, trẻ muốn chứ không phải là cái dễ vẽ. Vì
vậy, trẻ cố gắng truyền đạt những suy nghĩ, thái độ, tình cảm của mình trước
những gì được miêu tả mà Ýt quan tâm tới người xem. Sự hạn chế về mặt kỹ
năng thường được trẻ bồi đắp tích cực bằng âm thanh, lời nói, cử chỉ, điệu bộ.
Trong quá trình phát triển hoạt động vẽ ở trẻ em sẽ xuất hiện nhu cầu
sử dụng màu, bộc lộ hai xu hướng sử dụng màu.
Xu hướng thứ nhất: trẻ sử dụng màu một cách tuỳ tiện, tức là có thể
dùng bất kỳ màu nào để vẽ một đối tượng hay các bộ phận của nó mà thường
những màu này không phù hợp với màu của đối tượng. Ví dụ: trẻ vẽ mặt trời
màu xanh, mây màu đỏ; cá màu tím, vây cá màu vàng…
Xu hướng thứ hai: trẻ cố tô màu cho phù hợp với màu thực của đối
tượng. Vì vậy màu của đối tượng đơn điệu nên không thể hiện sắc thái của
màu. Trẻ vận dụng sự hiểu biết về màu qua lời nói của người lớn mà không
vận dụng tri giác riêng của mình.
Đặc điểm nổi bật ở các hình vẽ của trẻ là đã thể hiện thái độ của mình
một cách rõ ràng bằng cách tô các mầu rực rỡ những gì mình cho là đẹp.
Ngược lại có một số ý kiến của người lớn cho rằng: trẻ thể hiện thái độ của
mình với những nhân vật mình thích và không thích. Trẻ thường vẽ to, vẽ cẩn
25