Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

luận văn đại học sư phạm hà nội Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường mầm non ngoài công lập tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.51 KB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo (GD&ĐT) đội ngũ giáo viên
(ĐNGV) đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này được khẳng định rất rõ
trong Điều 14, Luật giáo dục: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm
bảo chất lượng giáo dục” [tr13]. Chất lượng ĐNGV phản ánh trực tiếp chất
lượng của giáo dục. Có thể nói rằng đội ngũ nhà giáo là lực lượng quyết định
đến sự thành công của ngành giáo dục, do đó, chiến lược phát triển GD 2001 -
2010 của Bộ GD&ĐT đã chú trọng: “Phát triển đội ngũ nhà giáo một trong
những nhiệm vụ hết sức cấp thiết của ngành giáo dục - đào tạo nói chung và
của từng cấp học, bậc học nói riêng. Trong đó ĐNGV mầm non có vị trí đặc
biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân; ĐNGV mầm non có nhiệm
vụ thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 - 72 tháng tuổi, tạo
tiền đề vững chắc cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Mặt
khác, việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non (GDMN) là trách nhiệm
chung của các cấp chính quyền, của toàn dân và xã hội. Lứa tuổi mầm non có
vị trí rất quan trọng trong suốt quá trình phát triển cuộc đời của mỗi con
người. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học dưới góc độ sinh lý, tâm vận
động, tâm lý xã hội đã khẳng định sự phát triển của trẻ từ 0 - 6 tuổi là giai
đoạn phát triển có tính quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát
triển trí tuệ trong tương lai. Những kết quả nghiên cứu về sự phát triển đặc
biệt của não bộ trong những năm đầu tiên của cuộc đời, những nghiên cứu về
ảnh hưởng và ích lợi của các dịch vụ GDMN có chất lượng đã khiến các
Chính phủ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam ngày
càng quan tâm phát triển GDMN.
Không có mô hình chung cho GDMN ở tất cả các nước. Tuy nhiên, vai
trò của giáo dục ngày càng được coi trọng đối với mọi quốc gia. Đến nay có 160
nước và các tổ chức quốc tế đã cam kết coi GDMN là một mục tiêu quan trọng
của giáo dục cho mọi người. Thụy Điển coi giai đoạn mầm non là “thời kỳ vàng
1
của cuộc đời'' và thực hiện chính sách: trường mầm non là trường tự nguyện do


chính quyền địa phương quản lý, trẻ 5 tuổi có thể theo học không mất tiền, 3
tiếng/ngày. Ở New Zealand, Chính phủ hỗ trợ cho các loại trường GDMN dựa
trên kết quả hoạt động mà các cơ sở đú đó đạt được. Điều kiện được nhận hỗ trợ
là cơ sở GDMN phải đáp ứng được các Chuẩn do Bộ Giáo dục đưa ra. Chính
phủ hỗ trợ 50% chi phí hoạt động của các cơ sở GDMN không phân biệt cơ sở
công lập hay ngoài công lập. Phần còn lại do cha mẹ đóng góp. Các gia đình khó
khăn về thu nhập hoặc có con ở tuổi mầm non bị khuyết tật có thể làm đơn xin
miễn đóng góp. Luật hệ thống giáo dục quốc gia Indonesia đã công nhận GDMN
là giai đoạn tiền đề cho hệ thống giáo dục cơ bản. Luật Giáo dục của Thái Lan
nhấn mạnh gia đình và Chính phủ phải cùng chia sẻ trách nhiệm đối với GDMN
nhằm thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Giáo dục mầm non có vị trí là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Đề án Phát triển GDMN giai đoạn 2006-2015'' đã thể hiện quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục mầm non thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đề án cú cỏc mục tiêu cụ thể sau đây: Xây dựng đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục mầm non đủ về số lượng, được đào
tạo để có 80% giáo viên đạt chuẩn tạo năm 2010 và 100% năm 2015; Củng
cố, mở rộng mạng lưới trường, lớp, bảo đảm nhu cầu gửi trẻ tại các nhà trẻ,
nhóm trẻ từ 15% năm 2005 lên 20% năm 2010 và 30% năm 2015; Tăng tỷ lệ
trẻ đến trường, lớp mẫu giáo lên 75% năm 2015; Nâng tỷ lệ các cơ sở giáo
dục mầm non đạt chuẩn quốc gia từ 9% năm 2005 lên 20% vào năm 2015.
Xác định được vai trò của Giáo dục mầm non trong chiến lược phát
triển nguồn nhân lực, phát triển con người, sau hơn hai mươi năm đổi mới và
năm năm thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010”, giáo dục
mầm non đó cú bước phát triển đáng kể về quy mô, loại hình, lớp học vượt
định mức chỉ tiêu chiến lược đã đề ra; tăng cường các hoạt động phổ biến
kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho gia đình. Đội ngũ giáo viên được đào tạo
bài bản và từng bước nâng cao về chất lượng, trình độ đào tạo. Chất lượng
2
chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non ngày càng tốt hơn;

góp phần nâng cao chất lượng, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục.
1.2.Tuy nhiên mức độ phát triển nói trên của GDMN vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu nuôi dạy trẻ và và những đòi hỏi mới của sự nghiệp phát triển
của đất nước. Những yếu kém về quy mô, mạng lưới trường lớp, đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý, cơ chế chính sách xã hội.
Thực hiện định hướng và mục tiêu phát triển xã hội ở các cấp học và
các loại hình giáo dục theo Quyết định số 20/2005/QĐ.BGD-ĐT của Bộ GD-
ĐT ngày 24 tháng 6 năm 2005 phê duyệt đề án quy hoạch phát triển xã hội
hoá giáo dục giai đoạn 2005 -2010: Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo
dục mầm non dân lập, ngoài công lập ở thành phố. Tiến đến đưa 70% -80%
tỷ lệ trẻ mầm non học ở các cơ sở bán công lập. Trong bối cảnh trường công
lập không không đủ để đáp ứng chỗ học cho trẻ, nhà nước khuyến khích phát
triển xã hội hoá giáo dục mầm non.
Sơn La là một tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn.Chỉ số HDI đứng thứ
57/63 tỉnh thành trong cả nước. Một trong những nguyên nhân đó là chất lượng
giáo dục thấp. Đặc biệt GDMN ở Sơn La phát triển rất chậm. Nhằm nâng cao
khả năng đáp ứng nhu cầu nuôi dạy trẻ trên cơ sở đa dạng hoỏ cỏc loại hình
giáo dục mầm non, phát triển thêm loại hình trường lớp ngoài công lập ở thành
phố, thị xó, vựng kinh tế phát triển. Để giảm tải học sinh đối với hệ thống các
trường mầm non công lập, đáp ứng được nhu cầu của xã hội ngày càng phát
triển. Được sự ủng hộ, quan tâm của một số tập thể, cá nhân điển hình với tâm
huyết và trách nhiệm với sự nghiệp giáo dục mầm non của tỉnh nhà đã xây
dựng một số trường mầm non ngoài công lập có chất lượng hoạt động theo quy
định của Bộ GD& ĐT. Mặt khác, các trường ngoài công lập có thế mạnh là
được quyền tuyển chọn đội ngũ giáo viên và học sinh theo nhu cầu. Do đó có
việc không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non, đồng thời nắm bắt những thuận lợi
khó khăn của đơn vị để tìm ra những biện pháp quản lý hoạt động dạy học có
3
hiệu quả. Đú luụn là một vấn đề cần thiết và được nhiều người trong xã hội

quan tâm đặc biệt là những người làm công tác quản lý giáo dục mầm non
trong đơn vị cũng như các cấp quản lý khác trong tỉnh.
Xuất phát từ thực tiễn công tác quản lý của trường mầm non nói chung,
hệ thống các trường mầm non ngoài công lập nói riêng nhằm phát huy thế
mạnh của trường ngoài công lập và thu hút của các lực lượng xã hội, đáp ứng
nhu cầu đòi hỏi càng cao của phụ huynh học sinh. Do vậy chất lượng đội ngũ
phải thực sự được xem là then chốt.
Đã có nhiều tác giả có nhiều đề tài nghiên cứu ĐNGV, phần nào có
đóng góp đáng kể vào lĩnh vực phát triển ĐNGV nói chung nhưng chỉ tập
trung vào khối trường chuyên nghiệp, phổ thông. Một số đề tài khỏc cú đề cập
đến GDMN nghiên cứu về phát triển ĐNGV mầm non ở cỏc xó đặc biệt khó
khăn của tỉnh Sơn La. Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu về phát triển
ĐNGV mầm non ngoài công lập tại tỉnh Sơn La. Xuất phát từ những lý do cơ
bản trên, từ thực tiễn quản lý trường mầm non ngoài công lập tỉnh Sơn La và
sự tâm huyết tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp phát triển đội
ngũ giáo viên các trường mầm non ngoài công lập tỉnh Sơn La”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn biện pháp phát triển đội ngũ
GVMN các trường mầm non ngoài công lập tỉnh Sơn La, đề xuất một số biện
pháp phát triển đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm
non ngoài công lập tỉnh Sơn La.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường mầm non ngoài
công lập ở tỉnh Sơn La.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Công tác quản lí phát triển đội ngũ giáo viên mầm non của các trường
mầm non ngoài công lập.
4
4. Giả thuyết khoa học

Nếu các biện pháp đề xuất phù hợp, khắc phục được những bất cập
của thực trạng đội ngũ giáo viên mầm non ở các trường mầm non ngoài công
lập thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non ngoài
công lập ở tỉnh Sơn La.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên mầm
non nói chung và giáo viên mầm non ngoài công lập nói riêng.
5.2. Đánh giá thực trạng biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của các trường
mầm non ngoài công lập ở tỉnh Sơn La.
5.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường mầm
non ngoài công lập ở tỉnh Sơn La và khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả
thi của các biện pháp đã đề xuất.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn lĩnh vực khoa học: Phạm vi đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường mầm non ngoài
công lập ở tỉnh Sơn La.
- Địa điểm nghiên cứu: Các trường mầm non ngoài công lập trên địa
bàn tỉnh Sơn La.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhúm các phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng và Nhà nước về
định hướng phát triển đa dạng hoỏ cỏc loại hình giáo dục và công tác xã hội
hoá giáo dục.
- Nghiờn cứu các văn bản pháp quy của Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh Sơn
La, Sở GD & ĐT Sơn La, phòng GD và ĐT các huyện thị.
- Nghiên cứu tài liệu giáo dục mầm non, tài liệu quản lý, báo cáo khoa
học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhúm cỏc phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
5
7.2.1. Phương pháp chuyên gia.

7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (Anket)
7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
7.3.Nhóm phương pháp nghiên cứu bổ trợ:
Phương pháp thống kê toán học
6
CHƯƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước, phát triển đội ngũ giáo
viên vẫn luôn được coi trọng, là mối quan tâm của nhiều bậc lão thành, các
nhà khoa học và là đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc đương thời Người rất quan tâm đến chất
lượng giáo dục, đặc biệt là đội ngũ thầy, cô giáo. Người đã chỉ rõ: “Vấn đề then
chốt, quyết định chất lượng giáo dục là phải phát triển được đội ngũ đông đảo
những người làm công tác giáo dục yêu nghề, yêu trường, hết lòng thương yêu,
chăm sóc, giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi đạo đức, tự bồi dưỡng nâng
cao tay nghề để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Người luôn
đánh giá cao vai trò của cô giáo, thầy giáo trong xã hội mới, coi họ là lớp người
vẻ vang của đất nước. Vì nếu không có cô giáo, thầy giáo hết lòng dạy dỗ con
em nhân dân lao động ngày hôm nay thì không thể xây dựng được một xã hội
tốt đẹp trong tương lai, như mọi người mong muốn [25, 183].
Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn
đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là vấn đề phát triển và hoàn thiện con người
thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Đối với Người, nhân tố con
người với những tinh hoa, những hiểu biết, năng lực và đạo đức là yếu tố then
chốt, có tính quyết định đối với thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội,
tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người từng nói: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
mà đội ngũ giáo viên đóng vai trò then chốt.

Ngoài ra, trong những năm gần đây có nhiều đề tài nghiên cứu về
chuyên ngành Quản lý giáo dục, trong đó có những đề tài nghiên cứu về đội
ngũ giáo viên: Năm 2003 Tác giả Nguyễn Thị Phương Hạnh nghiên cứu đề
7
tài “ Một số biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên trường
CĐSP Sơn La trong giai đoạn mới”. Năm 2006, tác giả Trần Quốc Bìnhcũng
nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tiểu
học tỉnh Sơn La đến năm 2015”. Năm 2006 Tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân
nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ở
cỏc xó đặc biệt khó khăn tỉnh Sơn La”.
Có thể thấy, ở nhiều cơ sở giáo dục trong địa bàn tỉnh đó có những tác giả
của các luận văn thạc sỹ chuyên ngành QLGD đề cập đến công tác phát triển đội
ngũ giáo viên trong các trường phổ thông, trường cao đẳng, đại học, trung học
chuyên nghiệp. Song các đề tài khoa học của các tác giả nói trên đều mang tính
đặc thù ở từng địa phương, từng bậc học cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của sự nghiệp giáo dục. Riêng ở tỉnh Sơn La cho đến nay theo những tài
liệu mà tác giả bao quát được vẫn chưa có tác giả nào đề cập đến công tác phát
triển đội ngũ GVMN ngoài công lập một cách đầy đủ và có hệ thống.
Các cấp quản lý giáo dục tỉnh Sơn La đã thấm nhuần Nghị quyết Trung
ương 3 khóa VIII, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về tiếp tục đổi
mới công tác cán bộ, Nghị quyết Trung ương 6 khóa IX, Nghị quyết 11 của
Bộ Chính trị khóa IX, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Sơn La, kế hoạch số 79-
KH/TU ngày 11-8-2004 của tỉnh uỷ Sơn La thực hiện chỉ thị 40-CT/TW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.Tuy nhiên, việc tìm hiểu, phân tích đánh
giá và xây dựng các biện pháp cho việc phát triển đội ngũ giáo viên chưa
được nghiên cứu với tư cách như một đề tài khoa học. Các đánh giá chủ yếu
dựa trên thực tiễn và kinh nghiệm, chưa được xây dựng hoàn chỉnh trên cơ sở
lý luận khoa học nên hiệu quả chưa cao. Do vậy, trong luận văn này tác giả
mong muốn sẽ đưa ra một số giải pháp phù hợp với đặc điểm tình hình của

tỉnh Sơn La trong công tác phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ngoỡa công
lập trước yêu cầu và nhiệm vụ mới.
8
Nhìn chung những đề tài trên phần nào có đóng góp đáng kể vào lĩnh
vực phát triển ĐNGV nói chung, trong đó có ĐNGV mầm non. Tuy nhiên,
chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu sâu về lĩnh vực phát triển đội ngũ
GVMN ngoài công lập tỉnh Sơn La.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà trường
1.2.2.1. Quản lý
Theo từ điển Tiếng Việt (2001) -Viện Ngôn ngữ học: "Quản lý là trông
coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; Là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định" [35, 800]
“Quản lý” là từ Hán Việt được ghép giữa từ “quản” và từ “lý”. “quản”
là sự trông coi, chăm sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định. “lý” là sự sửa
sang, sắp xếp, làm cho nó phát triển. Như vậy, “quản lý” là trông coi, chăm
sóc, sửa sang làm cho nó ổn định và phát triển.
Trong lịch sử nhân loại có nhiều danh nhân nổi tiếng đã đề cập đến vấn đề
quản lý, chức năng quản lý, đặc trưng của quản lý ở từng góc độ khác nhau.
C.Mỏc cũng đã nói đến tới sự cần thiết của quản lý, coi quản lý là một
đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội. Ông viết: "Bất
cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một
quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt
động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những
chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản
xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ
thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một
dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng" [8 ; 29-30].
Hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phức tạp nên quản lý cũng
đa dạng, phức tạp và phong phú. Chính sự đa dạng, phức tạp và phong phú đó

cho nên có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý. Dưới đây là một
số quan niệm chủ yếu.
9
Quan niệm của các tác giả nước ngoài về quản lý.
Theo Afanaxev: “Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta,
sao cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu
của xã hội, tập thể, để những cái đó có lợi cho cả tập thể và cá nhân, thúc
đẩy sự tiến bộ của cả xã hội lẫn cỏ nhõn” [1 ; 27].
Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich cho rằng: “Quản lý
là hoạt động đảm bảo sự phối hợp giữa nỗ lực các cá nhân nhằm đảm bảo
mục tiêu quản lý trong điều kiện chi phí thời gian, công sức, tài lực, vật lực ít
nhất đạt được kết quả cao nhất” [17 ; 33].
Frederch Wiliam Taylor (Mỹ), Henry Fayol (Pháp), Max Webber
(Đức) khẳng định: Quản lý là khoa học đồng thời là một nghệ thuật thúc
đẩy sự phát triển xã hội.
Quan niệm của các tác giả trong nước về quản lý
Theo tác giả Nguyễn Bá Dương: “Hoạt động quản lý là sự tác động qua
lại một cách tích cực giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý qua con
đường tổ chức, là sự tác động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của
các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng vào hoàn thành những mục tiêu
nhất định của tập thể và xã hội” [22; 55]
Các khái niệm trên đây, tuy khác nhau về cách diễn đạt, song chỳng cú
chung những nét đặc trưng cơ bản chủ yếu sau đây:
• Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm
xã hội.
• Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích.
• Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá
nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Trong các khái niệm trên, tác giả nhận thấy khái niệm quản lý của
Nguyễn Ngọc Quang ngắn gọn, rõ ràng và đầy đủ nhất. Khái niệm này định

hướng hoạt động quản lý tới hành động cụ thể của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý.
10
Hoạt động quản lý có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Mô hình về quản lý
Như vậy, quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng một hệ thống luật lệ, các
chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm
tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
* Chức năng của quản lý
Quản lý thực hiện 4 nhóm chức năng: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra.
Chức năng thứ nhất: Kế hoạch hóa là khởi điểm của một quá trình quản
lý. Kế hoạch hóa là quá trình vạch ra các mục tiêu và quy định phương thức
đạt được mục tiêu.
Chức năng thứ hai: Tổ chức là một quá trình phân công và phối hợp các
nhiệm vụ, sắp xếp nguồn lực theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực
hiện tốt các mục tiêu đã được vạch ra.
Để thực hiện vấn đề phân phối và sắp xếp nguồn nhân lực, chức năng tổ
chức thực hiện những nội dung sau:
Xác định cấu trúc của tổ chức.
Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực (gồm quy hoạch đội ngũ, tuyển
chọn, bồi dưỡng, sử dụng, thẩm định, thuyên chuyển, đề bạt, sa thải )
Xác định cơ chế hoạt động, các mối quan hệ của tổ chức.
Tổ chức lao động một cách khoa học của người quản lý.
11
Chủ thể
Quản lý
Công cụ
quản lý

Phương pháp
Quản lý
Khách thể
Quản lý
Mục tiêu
Quản lý
Môi trường
quản lý
Lê nin - người thầy của cách mạng vô sản đã từng nói: "Hãy cho tác giả
một tổ chức những người cách mạng, tác giả sẽ đảo lộn cả nước Nga". Câu
nói bất hủ đó của Người chúng ta đã hiểu rõ tổ chức và vai trò tổ chức trong
bất kỳ một hệ thống chính trị nào.
Chức năng thứ ba: Chỉ đạo là phương thức tác động của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm điều khiển tổ chức vận hành theo đúng kế hoạch
để đạt được mục đích, mục tiêu đề ra.
Chức năng thứ tư: Hoạt động kiểm tra bao gồm việc kiểm tra, giám sát,
theo dõi, phát hiện, xử lý tình huống và kết quả hoạt động kiểm tra cũng là
một quá trình tự điều khiển.
Các chức năng này liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chu trình
quản lý. Ngoài 4 chức năng cơ bản nêu trên, trong quá trình quản lý cũn cú
thờm 2 vấn đề quan trọng là: thông tin quản lý và quyết định quản lý.
Thông tin quản lý: là dữ liệu về việc thực hiện các nhiệm vụ đã được xử lý
giúp cho người quản lý hiểu được về đối tượng quản lý mà họ đang quan tâm để
phục vụ cho việc đưa ra các quyết định quản lý cần thiết trong quá trình quản lý. Do
đó thông tin quản lý không những là tiền đề của quản lý mà còn là huyết mạch quan
trọng để duy trì, nuôi dưỡng quá trình quản lý. Thông tin quản lý là cơ sở để người
quản lý đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả.
Quyết định quản lý là sản phẩm của người quản lý trong quá trình thực
hiện các chức năng quản lý.
Các chức năng quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 2: Mô hình các chức năng của quản lý
12
Thông tin quản lý
Quyết định quản lý
Kiểm tra
Kế hoạch hóa
Tổ chức
Chỉ đạo
1.2.2.1. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của lao động xã hội. Đây là một
hoạt động chuyên môn nhằm thực hiện quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử - xã hội qua các thế hệ, đồng thời là một động lực thúc đầy sự
phái triển xã hội. Để hoạt động này vận hành có hiệu quả, giáo dục phải được
tổ chức thành các cơ sở, tạo nên một hệ thống thống nhất. Quản lý giáo dục
được xem như là một hoạt động chuyên biệt để quản lý các cơ sở giáo dục.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục.
Theo Nguyễn Ngọc Quang [37]: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật và chủ thể quản lý (Hệ giáo
dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Theo Phạm Minh Hạc [23] Quản lý nhà trường (quản lý giáo dục nói
chung) là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục
tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ và với từng học sinh.
Khái niệm quản lý giáo dục tuy đã được các nhà khoa học trong và ngoài
nước định nghĩa theo nhiều góc độ khác nhau, nhưng chúng đều phản ánh
những nét đặc thù, nét bản chất chung nhất của hoạt động quản lý giáo dục,
đó là:

- Tổ hợp những tác động có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch của
chủ thể quản lý đến chủ thể bị quản lý trong các cơ sở giáo dục.
- Duy trì, điều chỉnh sự vận hành của hệ thống giáo dục hướng đến các
mục tiêu giáo dục đã xác định.
- Quản lý giáo dục với mục tiêu là đào tạo, rèn luyện nhân cách của thế
hệ trẻ - người công dân mẫu mực, phải bám sát mục tiêu, nguyên lý, phương
châm giáo dục của Đảng.
13
Theo nghĩa đó, quản lý giáo dục là tập hợp các tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau trong hệ
thống lờn cỏc đối tượng quản lý trực thuộc, thông qua việc thực hiện các chức
năng quản lý và việc sử dụng hợp lý các tiềm năng, cơ hội nhằm làm cho hệ
thống giáo dục vận hành, đảm bảo được các tính chất và nguyên lý của nền
giáo dục Việt Nam, đạt được mục tiêu giáo dục.
1.1.2.2 Quản lý nhà trường
1.1.2.1 Quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức giáo dục cơ sở mang tính Nhà nước - xã hội,
là nơi trực tiếp làm công tác GD-ĐT thế hệ trẻ. Theo Phạm Minh Hạc: Quản
lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành GD-ĐT, đối với thế hệ trẻ
và với từng học sinh.[16,23]
Các nhà trường hoạt động theo Luật Giáo dục và Điều lệ nhà trường do
Bộ trưởng Bộ giáo dục ban hành.
Như vậy, quản lý nhà trường bao gồm quản lý các hoạt động bên trong nhà
trường và phối hợp quản lý giữa nhà trường với các lực lượng giáo dục xã hội,
trong đó cốt lõi là quản lý quá trình dạy học và giáo dục. Quản lý nhà trường vừa
mang tính Nhà nước vừa mang tính xã hội. Cho nên quản lý nhà trường phải biết
phối hợp với các lực lượng xã hội để cùng thực hiện mục tiêu GD-ĐT.
Để hoạt động quản lý nhà trường đạt được mục tiêu và mang lại hiệu

quả cao, nhân tố quan trọng hàng đầu chính là đội ngũ CBQL nhà trường.
Quá trình quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm
của thầy giáo, quản lý hoạt động học tập - tự học tập của học trò và quản lý
CSVC- thiết bị phục vụ dạy và học. Trong đó người CBQL phải trực tiếp và
ưu tiên dành nhiều thời gian để quản lý hoạt động của lực lượng trực tiếp đào
tạo. Tất cả các hoạt động quản lý khác đều nhằm mục đích nâng cao chất
lượng hoạt động dạy và học.
14
1.2.2. Quản lý giáo dục mầm non và quản lý trường mầm non ngoài
công lập
1.2.2.1. Quản lý giáo dục mầm non
Xu thế và chính sách phát triển giáo dục mầm non các nước trên thế giới
Trong bối cảnh ngày nay, vai trò của giáo dục ngày càng được coi
trọng đối với mọi quốc gia. Tháng 4 năm 2000 tại diễn đàn thế giới tổ chức ở
Dakar, Senegal, đại biểu của 160 nước và các tổ chức quốc tế có liên quan đó
tỏi khẳng định cam kết, coi GDMN là một trong các mục tiêu quan trọng của
giáo dục cho mọi người, điều đó được thể hiện trong “Khuụn khổ hành động
Dakar về giáo dục cho mọi người”.
Tháng 5 năm 2001, các nước trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD) đã tổ chức Hội thảo quan trọng với tiêu đề “Sự khởi đầu cho một
nền GDMN vững mạnh”. Theo tuyên ngôn này, các nước OECD đều thực
hiện việc xây dựng chiến lược và chính sách trong GDMN. Chiến lược sẽ gắn
chặt với điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Cũng từ năm 2001, với sự phối hợp của tổ chức OECD, UNESCO đã
tiến hành dự án nghiên cứu, tổng kết chính sách GDMN của các nước. Dưới
đây là tóm tắt chính sách phát triển giáo dục mầm non của một số nước, khu
vực theo kết quả của dự án UNESCO
- Củng cố chăm sóc - giáo dục mầm non của Chính phủ Thuỵ Điển:
Từ năm 1980, chính phủ Thuỵ Điển ưu tiên các vấn đề liên quan tới trẻ
nhỏ. Chăm sóc, giáo dục mầm non được nhà nước hỗ trợ hoàn toàn, dưới sự

quản lý của Bộ Giáo dục và Khoa học. Chỉ đến những năm 90, kiểu trường
mầm non ngoài công lập mới được hình thành, nhưng học phí không được thu
cao. Theo qui định, học phí của cha mẹ phải trả không quá 3% tổng thu nhập
của cha mẹ trẻ. Những qui định của Uỷ ban mới về GDMN là: Trường mầm
non là trường tự nguyện, trẻ 5 tuổi có thể theo học không mất tiền, thời gian
học 3 tiếng một ngày. Trường mầm non do chính quyền địa phương quản lý.
15
- Chính sách chăm sóc - giáo dục mầm non của các nước Indonexia,
Thái Lan, Philipin.
Luật hệ thống giáo dục quốc gia Indonexia đã công nhận GDMN là giai
đoạn tiền đề cho hệ thống giáo dục cơ bản. Luật Giáo dục của Thái Lan nhấn
mạnh: Gia đình và chính phủ phải cùng chia sẻ trách nhiệm đối với GDMN
nhằm thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Chính phủ Philipin
khuyến khích các chương trình chăm sóc và phát triển trẻ thông qua việc
thành lập mối liên hệ giữa cơ quan chính phủ và địa phương như Sở Giáo dục,
Sở Y tế và Sở Phúc lợi xã hội. Các nước này, GDMN đều được tổ chức cả ở
hệ chính qui và không chính qui, đa dạng các cơ sở dịch vụ. Các cơ sở này
được sự quản lý, hỗ trợ từ các Bộ: Bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Phúc lợi xã hội.
Túm lại, chính sách phát triển GDMN ở một số nước phát triển và đang
phát triển cho thấy có những quan điểm chỉ đạo phát triển GDMN chung là: Nhà
nước đầu tư cho GDMN, cụ thể là đầu tư trên đầu trẻ trong các trường mầm non,
không phân biệt loại hình. Song đầu tư của nhà nước, kết hợp các nguồn khác
(từ tổ chức phi chính phủ) tập trung cho vựng nghốo, vựng khó khăn để rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo sự công bằng cho mọi trẻ em.
Những quan điểm phát triển GDMN xu thế của các nước trên thế giới tạo
ra một môi trường vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi GDMN nước ta phải có những
bước phát triển mang tính đặc thù.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục mầm non ở
đây trước hết là chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục
mầm non: Phát triển giáo dục mầm non là chính sách nhất quán của Đảng và

Nhà nước ta từ trước đến nay. Mấy chục năm qua chính sách này vẫn là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng và được thể chế
hoá trong các văn bản của Nhà nước, đặc biệt là trong vòng hơn một thập niên
trở lại đây.
Định hướng phát triển GDMN đến 2010 của nước ta được xác định tại
văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII và Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành
16
Trung ương Đảng khoá VIII. Thực hiện đường lối đó, Quốc hội, Chính phủ đã
ra nhiều văn bản quan trọng để thực hiện.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Luật Giáo dục 2005 qui
định quyền được hưởng thụ một nền giáo dục cơ sở từ GDMN để phát triển
toàn diện nhân cách và chuẩn bị vào lớp một thông qua nội dung, phương
pháp giáo dục phù hợp với trẻ và những điều kiện cần thiết để đảm bảo chất
lượng nuôi dạy trẻ em.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục, đào
tạo giai đoạn 2001-2010 với các mục tiêu phát triển GDMN: “Nõng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường
mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt vùng nông thôn và những vựng
khú khăn.” [10. 23]
Đặc biệt, giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) phát triển là điều kiện tiên
quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để xã hội phát triển,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ngày 15/6/2004 Ban Bí thư Trung
ương Đảng có Chỉ thị số 40-CT/TW về xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (01). Chỉ thị nêu rõ: Tăng cường xây
dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn
diện là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược
lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010
và chấn hưng đất nước. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo
dục được chuẩn hoá, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú

trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề
của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu
quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
17
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg
ngày 23/6/2006 về việc phê duyệt Đề án “Phỏt triển giáo dục mầm non giai
đoạn 2006-2015”, trong đó có nhiệm vụ “xõy dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non” để đáp ứng mục tiêu “Đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non, phấn đấu để
có 80% giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo năm 2010 và 100% năm 2015,
trong đó có 8% đạt trình độ trên chuẩn năm 2010 và 15% năm 2015” .
Tuy nhiên, đến nay việc mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường mẫu giáo
trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn theo
Chiến lược Phát triển giáo dục, chưa có đủ nguồn lực để thực hiện, phần lớn trẻ
em dưới 3 tuổi chưa được đến trường mầm non; đội ngũ cán bộ giáo viên mầm
non đang thiếu và yếu đặt ra cho GDMN những thách thức lớn trong thời gian
tới cần phải giải quyết.
Vị trí của giáo dục mầm non được qui định trong điều 4 Luật Giáo dục
năm 2005: “Cỏc cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân
bao gồm: Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giỏo” và là bậc học đầu tiên
của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non là sự thể hiện sinh động
nguyên tắc: Nhà nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Với cách làm sáng tạo,
phù hợp với đặc điểm kinh tế-xã hội và quan điểm của Đảng và Nhà nước, tới
nay GDMN đã tạo được niềm tin trong nhân dân và đã đóng góp không nhỏ
vào sự nghiệp giáo dục chung. Vì thế, vị trí của GDMN ngày càng được
khẳng định trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục cơ bản và phát triển chiến
lược con người lâu dài.
Vai trò của Giáo dục mầm non và ý nghĩa giáo dục của nó là: Tổ chức

tốt công tác chăm sóc giáo dục và phát triển trẻ em ở lứa tuổi này sẽ góp phần
đảm bảo phát triển nguồn lực con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội. Can thiệp trẻ đúng lúc về mặt giáo dục là góp phần làm giảm tỷ lệ
học sinh lưu ban, bỏ học ở bậc Tiểu học, giữ vững chất lượng giáo dục phổ
cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập bậc Trung học cơ sở (THCS). Có thể
18
nói, sự phát triển giáo dục trẻ em ở lứa tuổi mầm non hôm nay chính là chuẩn
bị cho thế hệ trẻ đảm bảo sự phát triển xã hội trong tương lai.
Theo nhà giáo dục học Xô Viết Makarenco A.X đã từng nhận xét:
“Những cơ sở căn bản của việc giáo dục trẻ đã được hình thành từ trước tuổi
lên 5. Những điều kiện dạy cho trẻ trong thời kỳ đó chiếm chiếm tới 90% tiến
trình giáo dục trẻ. Về sau việc giáo dục và đào tạo con người vẫn tiếp tục.
Nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, những nụ hoa thỡ đó vun trồng trong 5
năm đầu tiờn”.
Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
em vào học lớp 1.
Hiện nay, GDMN có hệ thống Nhà trẻ, trường Mẫu giáo, trường MN
trên quy mô toàn quốc, giáo dục MN là sự thể hiện sinh động nguyên tắc: Nhà
nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Cho tới nay, GDMN đã tồn tại với đủ các
loại quy mô trường, lớp, nhóm với các loại hình công lập, bỏn công, dân lập
và ngoài công lập. Với cách làm sáng tạo, phù hợp với đặc điểm kinh tế xã
hội và thế mạnh của từng vùng, miền, được sự quan tâm của đảng và chính
quyền các cấp, GDMN đã thực sự tạo được niềm tin trong nhân dân và đóng
góp không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục chung. Vì thế, vị trí của GDMN ngày
càng được khẳng định trong toàn bộ sự nghiệp GD&ĐT con người.
Nhiệm vụ của giáo dục mầm non được thể hiện trong Luật giáo dục
2005 có ghi: Giáo dục mầm non có nhiệm vụ thực hiện việc nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi nhằm mục tiêu giúp trẻ phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ nhằm hình thành những yếu tố

đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào lớp một
cũng như đặt nền móng cho quá trình học tập suốt đời.
Tổ chức Liên hiệp quốc đã khẳng định: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày
mai”. Thông điệp này đã nhắc nhở chúng ta thấm nhuần quan điểm đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển. Cùng quan điểm trờn, Bỏc Hồ đã chỉ rõ:
19
“Vỡ lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Như vậy giáo dục mầm non có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đạt
được mục tiêu cơ bản và phát triển chiến lược con người lâu dài của đất nước.
Quá trình quản lý chỉ đạo của ngành cũng chính là quá trình thực hiện
thống nhất và có hiệu quả các nhiệm vụ nêu trên.
Giáo dục MN đòi hỏi GV, CBQL trường MN phải là người am hiểu sâu
sắc về khoa học nuôi, dạy trẻ và đặc biệt phải hết sức yêu nghề, mến trẻ.
Thứ hai, GDMN là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
nhưng cho đến nay nó vần chưa mang tính chất bắt buộc đối với mọi trẻ em.
Nhiều trẻ em trong độ tuổi vẫn chưa đến trường. Nhiều loại hình chăm sóc
giáo dục trẻ em cùng song song tồn tại. Hơn nữa, sự tồn tại và phát triển của
ngành chủ yếu dựa vào sự đóng góp và hỗ trợ của cộng đồng. Vì thế, công tác
quản lý GDMN là phải làm sao để mọi người trong xã hội hiểu rõ trách nhiệm
của mình là phải quan tâm đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Do đó, người
CBQL GDMN phải là người năng động, linh hoạt để tuyên truyền, cuốn hút
mọi lực lượng xã hội tham gia vào công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Thứ ba, đội ngũ CBQL, GV của bậc học MN hầu hết là nữ. Đó là một nét
riêng biệt khác hẳn với các ngành học, bậc học khác. Thực tế các trường MN
cho thấy việc quản lý một tập thể toàn nữ rất khó khăn, phức tạp. Bởi vì phụ
nữ có những điểm khác biệt với nam giới. Phụ nữ thường cẩn thận, tỉ mỉ,
thích nhẹ nhàng tình cảm, dễ xúc động nhưng cũng hay đố kỵ, tự ti Do đó,
tuy nữ giới có nhiều mặt tốt, song cũng cũn cú những mặt hạn chế. Điều đó
đòi hỏi người CBQL phải hết sức khéo léo, tế nhị, am hiểu tâm lý phụ nữ
nhưng phải quyết đoán để có những quyết định đúng đắn, kịp thời nhằm phát

huy những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu còn tồn tại trong tập thể nữ.
Quản lý GDMN là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch
của các cấp quản lý đến các cơ sở GDMN nhằm tạo ra những điều kiện tối ưu
cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
20
Nhà trường là đơn vị cơ sở của ngành giáo dục được tổ chức theo các
loại hình công lập, bỏn cụng, dân lập, ngoài công lập. Trường MN là đơn vị
cơ sở của bậc học MN và cũng được tổ chức theo các loại hình như các bậc
học khác. Thực chất, quản lý GDMN là quản lý hệ thống nhà trường MN,
quản lý hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ em trong các trường MN.
1.1.2.3. Quản lý nhà trường mầm non ngoài công lập
Trường mầm non ngoài công lập: Theo Quyết định số 39/2001/QĐ-
BGD&ĐTvề việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động trường ngoài công
lập quy định: Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo bỏn công, dân lập,
tư thục là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập khi được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm
kinh phí hoạt động là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Nhà trường, nhà trẻ ngoài công lập, có tư cách pháp nhân, con dấu và
được mở tài khoản riêng.
Nhiệm vụ, quyền hạn của nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu
giáo ngoài công lập: Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; Huy động trẻ em lứa tuổi mầm
non đến trường; tổ chức giáo dục hoà nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn; Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn
lực theo quy định của pháp luật. Xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị theo yêu
cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá hoặc theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng khó

khăn; Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo
viên, nhân viên và trẻ em tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng;
Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em
21
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Tự chủ và tự chịu trách nhiệm về
quy hoạch, kế hoạch phát triển, tổ chức các hoạt động giáo dục, xây dựng và
phát triển đội ngũ giáo viên, huy động, sử dụng và quản lý các nguồn lực để
thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non, góp phần cùng Nhà nước chăm lo sự
nghiệp giáo dục, đáp ứng yêu cầu xã hội; Có trách nhiệm báo cáo định kỳ và
đột xuất theo quy định và yêu cầu của các cơ quan có liên quan; Thực hiện
các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Hội đồng quản trị: Nhà trường, nhà trẻ ngoài công lập có từ hai thành
viên góp vốn trở lên phải có Hội đồng quản trị; Hội đồng quản trị là tổ chức
đại diện duy nhất quyền sở hữu của nhà trường, nhà trẻ ngoài công lập, có
quyền tự chủ quyết định những vấn đề quan trọng về quy hoạch, kế hoạch
phát triển, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản, bảo đảm thực hiện mục tiêu
giáo dục, phù hợp với quy định của pháp luật; Cơ cấu tổ chức, nội quy hoạt
động và thủ tục thành lập hội đồng quản trị.
Chủ tịch Hội đồng quản trị: Chủ tịch Hội đồng quản trị do Hội đồng
quản trị bầu trong số thành viên Hội đồng quản trị bằng hình thức bỏ phiếu
kín và được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định công nhận theo
đề nghị của phòng giáo dục và đào tạo. Nhiệm kỳ đầu của Chủ tịch Hội đồng
quản trị là 3 năm, những nhiệm kỳ tiếp theo là 5 năm. Chủ tịch Hội đồng quản
trị phải có phẩm chất, đạo đức tốt, có bằng trung cấp chuyên nghiệp trở lên,
có đủ sức khoẻ, khi được đề cử không quá 65 tuổi, có chứng chỉ bồi dưỡng
chuyên môn giáo dục mầm non ít nhất là 30 ngày hoặc chứng chỉ bồi dưỡng
cán bộ quản lý. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể được đề cử đồng thời là
Hiệu trưởng nếu có đủ tiêu chuẩn của Hiệu trưởng được quy định tại Điều 15
Quy chế này.

Nhiệm vụ của CTH ĐQT: Chịu trách nhiệm trước Nhà nước và pháp
luật về các quyết định của Hội đồng quản trị; Chịu trách nhiệm trước Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và phòng giáo dục và đào tạo về toàn bộ hoạt
động của nhà trường, nhà trẻ ngoài công lập; Có trách nhiệm đầu tư và quản
22
lý cơ sở vật chất trường lớp, cung cấp trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, tài liệu
giảng dạy và học tập đáp ứng nhu cầu, chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ; Tuyển chọn đội ngũ giáo viên, trực tiếp ký hợp đồng sử dụng giáo
viên, nhân viên theo quy định của pháp luật về hợp đồng lao động; Trả tiền
lương, tiền thưởng, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, các chi phí khác cho giáo
viên, nhân viên theo hợp đồng lao động theo hướng dẫn của phòng giáo dục
và đào tạo; Đảm bảo an toàn và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trẻ mầm non; Công khai các nguồn thu với cha mẹ hoặc người bảo trợ trẻ em,
thực hiện thu, chi theo quy định tài chính.
Quản lý trường mầm non ngoài công lập: Quản lý trường mầm non
ngoài công lập là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể
quản lý (hiệu trưởng, chủ tịch hội đông quản trị) đến tập thể giáo viên để
chính họ tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục đối với từng độ tuổi và mục tiêu chung của bậc học.
1.2.3. Khái niệm phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ngoài công lập
1.2.3.1 Phát triển
Theo từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học (2001) phát triển có nghĩa
là: "Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến
cao, đơn giản đến phức tạp" [35, 769].
Theo từ điển Anh Việt - Viện Ngôn ngữ học thì " phát triển" (Develop)
có nghĩa là: "Làm cho ai/cỏi gỡ tăng trưởng dần dần; trở nên hoặc làm cho
trưởng thành hơn, tiến triển hơn hoặc có tổ chức hơn ". [ 34, 476].
Từ điển triết học: " Phát triển là một quá trình vận động từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đú cỏi cũ biến mất và cái mới ra đời. Đối
với sự phát triển, nét đặc trưng là hình thức xoáy trôn ốc. Mọi quá trình riêng

lẻ đều có sự khởi đầu và kết thúc. Trong khuynh hướng, ngay từ đầu đã chứa
đựng sự kết thúc của phát triển, còn việc hoàn thành một chu kỳ phát triển lại
đặt cơ sở cho một chu kỳ mới, trong đó không tránh khỏi sự lặp lại một số
đặc điểm của chu kỳ đầu tiên. Phát triển là một quá trình nội tại: bước
23
chuyển từ thấp lên cao xảy ra bởi vì trong cái thấp đã chứa đựng dưới sự
tiềm tàng những khuynh hướng dẫn đến cái cao là cái thấp đã phát triển.
Đồng thời, chỉ ở một mức độ phát triển khá cao thì những mầm mống của cái
cao chứa đựng trong cái thấp mới bộc lộ ra và lần đầu tiên mới trở nên dễ
hiểu "
Nói một cách khái quát, phát triển là sự vận động đi lên của mọi sự vật
và hiện tượng tuân theo những quy luật nội tại khách quan của chúng.
Từ những khái niệm trên, tác giả cho rằng phát triển bao gồm 3 yếu tố là:
tăng cường số lượng, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao chất lượng.
1.2.3.2. Đội ngũ giáo viên mầm non ngoài công lập
Đội ngũ: Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học nêu khái niệm: “Đội
ngũ là tập hợp một số đông người, cùng chức năng nghề nghiệp thành một
lực lượng ” [35; 328].
Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng
rãi như: đội ngũ trí thức, đội ngũ thanh niên xung phong, đội ngũ giỏo viờn…
Tuy nhiên, ở một nghĩa chung nhất chúng ta hiểu: Đội ngũ là tập hợp
một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức
năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung mục đích xác
định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh
thần cụ thể.
Đội ngũ giáo viên là những người lao động có nghiệp vụ sư phạm được
xã hội phân công làm nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ. Vị trí của đội ngũ này ngày
càng được xã hội đánh giá cao. Trong bài phát biểu nhân dịp về thăm trường
Đại học sư phạm thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 31-08-1998 đồng chí
Tổng Bí thư Lê Khả Phiờu đó nhấn mạnh: " Đội ngũ giáo viên là lực lượng

cốt cán biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực. Đây là nói vai trò của
người thầy, vị trí của người thầy trong sự nghiệp trồng người, cả xã hội cùng
chăm lo sự nghiệp trồng người, mà trồng người thì thầy giáo giữ vai trò
quyết định. Xã hội tôn vinh thầy giáo, nhưng tôn vinh thì chưa đủ mà xã hội
24
phải coi trọng sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng thầy giáo, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để thầy giáo đảm đương sứ mệnh vinh quang đó " (Trích bài phát
biểu của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII Lê Khả Phiêu tại
trường Đại học Quốc gia Hà Nội - 8/1998)
Giáo viên: Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, giáo viên là:
“Người dạy học ở bậc phổ thông hoặc tương đương ” [35, 395].
Luật Giáo dục (2005) qui định tại điều 70, mục 1, chương IV: " Nhà
giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, các cơ sở
giáo dục khác
Cũng trong Luật Giáo dục 2005 tại điều 70, mục 1, chương IV ghi: "Nhà
giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên”.
Giáo viên mầm non: Điều 29, điều 30, điều 31 của Điều lệ trường
mầm non quy định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của giỏo viờm mầm non như
sau: Giáo viên là người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em
trong trường, gồm: hiệu trưởng, phó hiệu trưởng và giáo viên nhóm, lớp.
Nhiệm vụ của giáo viên: Thực hiện theo chương trình và kế hoạch nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo lứa tuổi; thực hiện đúng quy chế
chuyên môn và chấp hành nội quy của trường; Bảo vệ an toàn tuyệt đối tính
mạng của trẻ em; Gương mẫu, thương yêu, tôn trọng và đối xử công bằng với
trẻ; Chủ động phối hợp với gia đình trẻ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục và tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ theo khoa học cho các
bậc cha mẹ; Rèn luyện đạo đức; học tập văn hoá; bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ; Thực hiện các quyết định của hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra của hiệu

trưởng và của các cấp quản lý giáo dục; Thực hiện các quy định khác của
pháp luật.
1.2.3.3. Đội ngũ giáo viên mầm non ngoài công lập
25

×