Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp Vụ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.02 KB, 64 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Dạy nghề có một vị trí quan trọng trong chiến lược của đất nước. Dự
thảo Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 nêu rõ: Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào
việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân là một trong ba khâu
đột phá chiến lược…
Trong 10 năm gần đây, hệ thống dạy nghề trong cả nước đã được
phục hồi và có bước phát triển mạnh, từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực
cho phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập,
góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển con người. Mạng lưới cơ sở dạy
nghề được phát triển nhanh, rộng khắp trên toàn quốc, tính đến tháng 11
năm 2009 có 265 trường TCN (trung cấp nghề), 107 CĐN (cao đẳng nghề)
và 684 TTDN (trung tâm dạy nghề) và hơn 1000 cơ sở khác có tham gia dạy
nghề. Quy mô dạy nghề tăng nhanh ( năm 2001 dạy nghề cho 887,3 ngàn
người, đến năm 2008 là 1,538 triệu người), nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề năm 2008 lên 26%, dự kiến năm 2009 là 28%(nguồn :Tổng cục Dạy
Nghề). Cơ cấu ngành nghề đào tạo đã từng bước được điều chỉnh theo cơ
cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đã mở thêm nhiều nghề
đào tạo mới mà thị trường lao động có nhu cầu và các nghề phục vụ cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải quyết việc làm
cho người lao động. Đã tổ chức dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số, bộ
đội xuất ngũ, người nghèo, người khuyết tật, lao động nông thôn , góp phần
xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống cho người lao động.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là: "Số lượng tăng phải kèm theo chất
lượng tăng. Chúng ta được về số lượng, nhưng chưa được về chất lượng.
Nếu chúng ta tiếp tục cung cấp số lượng lớn với chất lượng như hiện nay thì
1
không đáp ứng nhu cầu mới và thách thức là rất lớn. Việc đào tạo nghề còn
một số điều chưa thỏa đáng. Nhận thức của người dân chưa thỏa đáng; các
doanh nghiệp cũng chưa quan tâm đến việc đào tạo nghề, họ mới chỉ hưởng


thụ chứ chưa đóng góp nhiều vào công tác đào tạo. Nhà nước và ngay bản
thân các cơ sở đào tạo nghề cũng chưa quan tâm đúng mức đến chất
lượng đào tạo.’’(Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân)
Trường trung học kĩ thuật và nghiệp vụ Hà Nội là một thành viên
thuộc Tổng công ty Xây dựng Hà Nội – cái nôi đào tạo ra nguồn công nhân
kỹ thuật chất lượng cao không chỉ cho Tổng công ty Xây dựng Hà Nội mà
còn cho cả toàn nghành Xây dựng.Với thực tiễn hiện nay càng đòi hỏi ở
công nhân sự lành nghề và có chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng với nhu cầu
của các nhà tuyển dụng. Đây cũng chính là thách thức đối với công tác quản
lí đào tạo nghề của trường trong giai đoạn mới nhằm đáp ứng được với đơn
đặt hàng của các doanh nghiệp và xã hội. Cho nên, trong quá trình thực tập
tại trường em đã chọn vấn đề :“Biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo nghề ở trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp Vụ Hà
Nội’’làm đề tài khoá luận, với hi vọng góp phần nhỏ vào việc tăng cường
chất lượng nguồn nhân lực đã qua đào tạo nghề cho xã hội nói chung và
nghành Xây dựng nói riêng.
II. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lí đào tạo nghề ở trường Trung học Kỹ
thuật và Nghiệp vụ Hà Nội góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao
cho các doanh nghiệp và xã hội.
2
III.Nhiệm vụ nghiên cứu
-Xác định cơ sở khoa học về hoạt động đào tạo nghề trong các nhà
trường
-Nghiên cứu về thực trạng quản lí đào tạo nghề ở trường Trung học
Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội.
-Đề xuất một số biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề ở trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội.
IV. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở

trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội
V.Khách thể nghiên cứu
Quản lí chất lượng đào tạo nghề
VI .Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp quản lí đào tạo nghề ở khoa Trung cấp nghề, trường Trung
học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội trong 3 năm gần đây.
VII.Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp quan sát
-Phương pháp phỏng vấn
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu
-Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê và phân tích số liệu
VIII. Kế hoạch nghiên cứu
- Tháng 12/2010 đến tháng 1/2011: Nhận đề tài, thu thập số liệu, tài liệu
tham khảo.
- Tháng 2/2011 đến 3/2011: Viết đề cương chi tiết, hoàn thành chương 1 đề
tài.
- Tháng 4/2011: Hoàn thành chương 3 và chương 2 của đề tài
3
- Tháng 5/2011: Hoàn chỉnh và bảo vệ đề tài
IV.Cấu trúc đề tài
Đề tài khoá luận gồm:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung gồm:
+Chương 1: Cơ sở khoa học của việc quản lí nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo nghề
+ Chương 2: Thực trạng quản lí đào tạo nghề ở trường Trung học
Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội.
+ Chương 3: : Biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề ở trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội

- Phần kết luận và kiến nghị
4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:Cơ sở khoa học của việc quản lí nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nghề
1.Cơ sở lí luận
1.1 Một số vấn đề cơ bản về quản lí
1.1.1 Khái niệm quản lí
Quản lí theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Giáo Dục, 1998)
là: Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan.
F.W Taylor cho rằng: ‘‘Quản lí là biết chính xác điều người khác
muốn làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc đó một cách tốt
nhất và rẻ nhất”.
Mục tiêu của Quản lí là hình thành một môi trường mà trong đó con
người có thể đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và
sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lí là một loại hình quan trọng nhất trong
các hoạt động của con người. Quản lí đúng tức là con người đã nhận thức
được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được thành công to lớn.
Trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một nhóm
nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận
và chịu một sự quản lí nào đó. Các Mác đã viết: ‘‘Tất cả mọi lao động xã
hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn,
thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân
và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ
cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó.
Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng’’.
5
Mary Parker Follett cho rằng: ‘‘Quản lí là nghệ thuật đạt được mục

đích thông qua nỗ lực của người khác’’. Định nghĩa này nói lên rằng những
nhà quản lí đạt được các mục tiêu của tổ chức bằng cách sắp xếp giao việc
cho những người khác thực hiện chứ không phải hoàn hành công việc bằng
chính mình
Koontz và O’Donnell định nghĩa: “Có lẽ không có lĩnh vực hoạt động
nào của con người quan trọng hơn là công việc quản lí, bởi vì mọi nhà quản
lí ở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và
duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong
các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”
Một định nghĩa khác tương đối rõ nét về quản lí được Jamer Stoner và
Stephen Robbins trình bày như sau: “Quản lí là tiến trình hoạch định, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ
chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục
tiêu đề ra”.
Hiện nay, quản lý được định nghĩa rõ ràng hơn: Quản lí là quá trình
đạt được mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng: Kế hoạch
– tổ chức – chỉ đạo – kiểm tra
Ngày nay thuật ngữ Quản lí đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất. Có người cho quản lí là hoạt động nhằm đảm bảo cho
sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác. Cũng có người
cho rằng quản lí là hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo những phối hợp cá
nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Tuy nhiên theo nghĩa rộng, quản lí
là hoạt động có mục đích của con người, cho đến nay nhiều người cho rằng:
‘‘Quản lí chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành
động của những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn’’. Từ những
ý chung của các định nghĩa và xét quản lí là một hành động, có thể định
6
nghĩa: Quản lí là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí
tới đối tượng quản lí nhằm đạt mục tiêu đề ra.
1.1.2 Chức năng quản lí

Một cách khái quát có thể hiểu chức năng quản lí là một dạng hoạt
động quản lí chuyên biệt mà thông qua đó chủ thể quản lí tác động lên đối
tượng quản lí nhằm đạt mục tiêu đề ra.
- Phân loại chức năng quản lí:
Tuỳ thuộc vào qui mô tổ chức, lĩnh vực chuyên môn, quyền hạn tổ
chức có thể chia như sau:
+ Theo quan điểm truyền thống
- Có một số cách phân loại của một số nhà quản lí điển hình là Hery Fayol,
ông đưa ra 5 chức năng của quản lý là: Kế hoạch – tổ chức – chỉ huy – phối
hợp – kiểm tra
+ Ngoài ra, còn có một số nhà nghiên cứu khác cũng phân loại chức năng
quản lí tương tự như: DM.Kruk cũng chia làm 5 chức năng: Kế hoạch – tổ
chức – phối hợp – chỉ đạo – kiểm kê và kiểm tra
+ V.G afanaxiep, một chuyên gia nổi tiếng của Liên Xô cũ cũng đưa ra các
chức năng cơ bản của quản lí: Xử lí và thông qua quyết định – tổ chức –
điều chỉnh – kiểm kê và kiểm tra
+ Theo quan điểm của Tổ chức UNESCO phân loại chức năng quản lí thành
8 chức năng: Xác định nhu cầu – Thẩm định và phân tích dữ liệu – Xác định
mục tiêu – Kế hoạch hoá – triển khai công việc – Điều chỉnh – đánh giá –
Sử dụng liên hệ ngược và xác định các vấn đề cho quá trình quản lí tiếp
theo
+ Phân loại thông qua một số nội dung phục vụ cho các hoạt động quản lí:
Dự đoán – kế hoạch hoá – tổ chức – động viên – điều chỉnh – kiểm tra –
đánh giá và hạch toán
7
+ Theo quan điểm hiện đại thì mọi công việc có xu hướng chuyên môn hoá,
ngày nay hoạt động quản lí phần lớn được phân loại theo các chức năng: Kế
hoạch – tổ chức – chỉ đạo – kiểm tra
Tuy có nhiều cách phân loại chức năng quản lí khác nhau về số lượng
của chức năng, về tên gọi của các chức năng song về thực chất hoạt động

quản lí có các bước đi khá giống nhau để đạt được mục tiêu cuối cùng.
Nhưng chung qui lại nền tảng của việc thực hiện hoạt động quản lí vẫn là 4
chức năng theo quan điểm hiện đại: Kế hoạch – tổ chức – chỉ đạo – kiểm
tra.
• Lập kế hoạch: Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý,
là cái khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình
xác lập mục tiêu, thời gian, biện pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết
định phương thức để thực hiện mục tiêu đó. Nói cách khác lập kế
hoạch là xác định trước xem phải làm gì, làm như thế nào, khi nào
làm và ai làm. Căn cứ thực trạng ban đầu của tổ chức và căn cứ vào
mục tiêu cần phải hướng tới để cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ của
tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Từ đó tìm ra con đường,
biện pháp đưa đơn vị đạt được mục tiêu.
• Tổ chức: Là quá trình thiết lập cấu trúc quan hệ giữa các thành viên,
các bộ phận. Từ đó, chủ thể quản lý tác động đến đốí tượng quản lý
một cách có hiệu quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức
như nhân lực, vật lực và tài lực. Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ
cấu tổ chức phải đảm bảo các yêu cầu: Tính tối ưu, tính linh hoạt, độ
tin cậy và tính kinh tế. Trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức quản
lý cần tính đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đó là
những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình tổ chức thực hiện.
8
• Chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều
hành tổ chức- nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch
đã vạch ra. Lãnh đạo bao hàm cả liên kết, liên hệ, uốn nắn hoạt động
của mọi người, động viên, khuyến khích họ hoàn thành nhiệm vụ.
Trong chức năng chỉ đạo, chủ thể quản lý phải trực tiếp ra quyết định
( mệnh lệnh) cho nhân viên dưới quyền và hướng dẫn, quan sát, phối
hợp, động viên để thuyết phục, thúc đẩy họ hoạt động đạt được các

mục tiêu đó bằng nhiều biện pháp khác nhau.
• Kiểm tra: Là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể
quản lý thông qua một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế,
đánh giá, giám sát thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh
các sai sót lệch lạc nhằm thúc đẩy hệ thống sớm đạt được mục tiêu đã
định. Để tiến hành kiểm tra, cần phải có các tiêu chuẩn, nội dung và
phương pháp kiểm tra, dựa trên các nguyên tắc khoa học để hình
thành hệ thống kiểm tra thích hợp
Ngoài 4 chức năng quản lý trên, nguồn thông tin là yếu tố cực kỳ quan
trọng trong quản lý. Vì thông tin là nền tảng, là huyết mạch của quản lý,
không có thông tin thì không có quản lý hoặc quản lý mắc sai phạm, nhờ có
thông tin mà sự trao đổi qua lại giữa các chức năng được cập nhật thường
xuyên, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.
1.1.3 Khái niệm Quản lí giáo dục
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm QLGD. Tuy vậy, xét trên
bình diện chung, chúng ta có thể tiếp cận một số khái niệm QLGD như sau:
Tác giả Hồ Văn Liên cho rằng: QLGD là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ
thống giáo dục đạt kết quả mong muốn một cách có hiệu quả nhất.
9
Tùy theo việc xác định đối tượng quản lý mà QLGD được hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau:
Tác giả Trần Kiểm quan niệm QLGD được phân chia thành 2 cấp: vĩ
mô và vi mô. [17, tr.36]
Đối với cấp vĩ mô: “ QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
quản lý đến tất cả mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở
giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu
phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo
dục’’.

Đối với cấp vi mô: ‘‘QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự
giác( có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của
chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha
mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.”
Quan niệm của tác giả Đặng Quốc Bảo: ‘‘QLGD theo nghĩa tổng
quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ
mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới
hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người; Tuy nhiên vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho
nên quản lý giáo dục đựơc hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân,
các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.’’
Như vậy QLGD là quản lý một quá trình kinh tế xã hội nhằm thực
hiện đồng bộ, hài hòa sự phân hóa xã hội để tái sản xuất sức lao động có kỹ
thuật phục vụ các yêu cầu phát triển KT-XH
Quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch
hợp qui luật của chủ thể quản lí (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành
10
theo đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất
của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất
Quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng
cũng như chất lượng
Tổng quát: Quản lí giáo dục là hoạt động điều hành phối hợp các lực
lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo giáo dục thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển xã hội

1.1.4 Bản chất của Quản lí giáo dục
Quản lí là những tác động có phương hướng và mục đích rõ ràng của
chủ thể quản lí. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hiệu quả của quản lí phải là
sản phẩm cuối cùng. Đó chính là những lợi ích phục vụ cho con người.
Quản lí là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao. Đó là những quyết
định đúng qui luật và có hiệu quả của chủ thể quản lí nhằm giải quyết tốt
nhất những vấn đề đặt ra trong cuộc sống QLGD là một quá trình. Quá trình
QLGD là hoạt độngcủa các chủ thể và đối tượng quản lý thống nhất với
nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đạt mục đích đề ra của quản lý bằng
cách thực hiện các chức năng nhất định và vận dụng các biện pháp, nguyên
tắc, công cụ quản lý thích hợp.
QLGD nằm trong phạm trù quản lý xã hội nói chung. Tuy nhiên
QLGD có những đặc trưng riêng:
- QLGD là loại quản lý nhà nước. Các hành động quản lý trong giáo
dục dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước mà đại diện là các cơ quan QLGD và
11
đào tạo các cấp từ Bộ GD&ĐT đến các cơ sở đào tạo. Mọi hoạt động của
chủ thể quản lý và đối tượng chịu sự quản lý đều thông qua hệ thống các quy
phạm pháp luật như luật Giáo dục, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của
Chính phủ…
- QLGD là quản lý con người. Quản lý con người trong ngành giáo
dục có ý nghĩa là đào tạo con người, dạy cho họ thực hiện vai trò xã hội,
những chức năng, nghiã vụ trách nhiệm của mình, phát triển nghề nghiệp để
họ làm tròn trách nhiệm xã hội của mình.
- QLGD thuộc phạm trù phương pháp chứ không phải mục đích. Nếu
chúng ta xem QLGD là phương pháp thì sẽ luôn luôn tìm cách đổi mới công
tác quản lý của mình sao cho đạt được mục đích đề ra mà không bị rơi vào
tình trạng độc đoán, chuyên quyền áp đặt đối với người chịu sự quản lý để
đạt ý đồ cá nhân.
- QLGD cũng có 2 thuộc tính chủ yếu là: tổ chức kỹ thuật và kinh tế

xã hội. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống khi đã xuất hiện quản lý thì thuộc
tính đầu tiên là tổ chức – kỹ thuật. Thuộc tính này thể hiện phải có một tổ
chức để thực hiện công tác quản lý và yêu cầu thường xuyên cải tiến đổi mới
công việc nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động trong một tổ chức.
QLGD có hiệu quả sẽ đem lại lợi ích cho xã hội đó là tính kinh tế xã hội.
- QLGD được xem là hệ tự quản lý nó bao hàm bởi các đặc điểm tự
điều chỉnh, tự hoàn thiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
- QLGD vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. QLGD đã trở thành một
ngành khoa học, có cơ sở lý luận riêng của nó. Người cán bộ quản lý cần có
trình độ khoa học về quản lý, am hiếu các khoa học về lĩnh vực xã hội, con
người, giáo dục, triết học, luật học … và phải có nghệ thuật quản lý được
tích lũy từ những kinh nghiệm quản lý và sáng tạo của chủ thể quản lý
12
1.1.5 Quản lí nhà trường
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lí nhà trường là thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với nghành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”
Quản lí nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lí nhằm tập hợp
và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục
khác, cũng như huy động tố đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo trong nhà trường.
Quản lí nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo
dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với nghành giáo dục,
đối với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh.
1.2 Một số vấn đề cơ bản về Quản lí đào tạo nghề
1.2.1 Khái niệm nghề, dạy nghề, đào tạo nghề
- Khái niệm nghề
Khái niệm ‘‘nghề’’ theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác

nhau nhất định.Cho đến nay thuật ngữ “nghề” được hiểu và định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau. Dưới đây là một số khái niệm về nghề:
+ Khái niệm “nghề’’ở Nga được định nghĩa: " Là một loại hoạt động lao
động đòi hỏi có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh
tồn"
+ Khái niệm “nghề” ở Pháp: " Là một loại lao động có thói quen về kỹ năng,
kỹ xảo của một người để từ đó tìm được phương tiện sống".
+ Khái niệm “nghề” ở Anh được định nghĩa: "Là công việc chuyên môn đòi
hỏi một sự đào tạo trong khoa học nghệ thuật".
13
+ Khái niệm “nghề” ở Đức được định nghĩa:" Là hoạt động cần thiết cho xã
hội ở một lĩnh vực lao động nhất định đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ
nào đó".
Như vậy, “nghề” là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến
gắn chặt với sự phân công lao động, với tiến bộ khoa học kỹ thuật, và văn
minh nhân loại. Bởi vậy được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu
từ nhiều góc độ khác nhau
+ Ở Việt Nam, nhiều định nghĩa “nghề” được đưa ra song chưa được
thống nhất, chẳng hạn có định nghĩa được nêu: "Nghề là một tập hợp lao
động do sự phân công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi
được. Nghề mang tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do
trình độ của nền sản xuất và nhu cầu xã hội.
Mặc dù khái niệm “nghề” được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau
song chúng ta có thể nhận thấy một số nét đặc trưng nhất định sau:
+ Đó là hoạt động, là công việc về lao động của con người được lặp đi
lặp lại.
+ Là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
+ Là phương tiện để sinh sống.
+ Là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã
hội đòi hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định.

Hiện nay xu thế phát triển của nghề chịu tác động mạnh mẽ của tác
động KHKT và văn minh nhân loại nói chung và về chiến lược phát triển
KT-XH của mỗi quốc gia nói riêng. Bởi vậy phạm trù "Nghề" biến đổi mạnh
mẽ và gắn chặt với xu hướng phát triển KT-XH của đất nước.
14
- Khái niệm Dạy nghề
+ Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết
và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo
léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp. .
+ Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và
thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể t ìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học ( Điều 5 luật dạy
nghề)
- Khái niệm đào tạo nghề
+ Đào tạo nghề: “Đào tạo nghề là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao
tay nghề hay kỹ năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và
trong tương lai”. Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với
nhau. Đó là:
• Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng,
kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp.
• Học nghề: “Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực
hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất
định”.
Đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao
động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn bao gồm: đào tạo nghề
mới, đào tạo nghề bổ sung, đào tạo lại nghề.
Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những người
đến tuổi lao động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao
động nhưng trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới nhằm đáp ứng tăng

thêm lao động đào tạo nghề cho Xã hội.
15
Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có chuyên
môn nhưng do yêu cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc
thay đổi cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn. Một số công nhân được
đào tạo lại cho phù hợp với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới.
Đào tạo lại thường được hiểu là quá trình nhằm tạo cho người lao động có
cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên môn mới để thay đổi nghề.
Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật
hóa kiến thức còn thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố
các kỹ năng nghề nghiệp theo từng chuyên môn và thường được xác nhận
bằng một chứng chỉ hay nâng lên bậc cao hơn
- Khái niệm học sinh nghề và giáo viên nghề
Theo Điều lệ của trường dạy nghề:
+ Giáo viên trường dạy nghề: là người đảm nhiệm việc giảng dạy, giáo dục
của nhà trường, giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động giảng dạy,giáo dục
+ Học sinh trường dạy nghề: Là người học nghề ở tất cả các hệ đào tạo dài
hạn và ngắn hạn trong trường nghề
1.3 Khái niệm về đào tạo và chất lượng đào tạo
1.3.1 Khái niệm về đào tạo, quá trình đào tạo
- Khái niệm về đào tạo
Đào tạo có thể hiểu là một quá trình trang bị kiến thức, kĩ năng nghề
nghiệp, đồng thời giáo dục phẩm chất đạo đức thái độ cho người học để
người học trở thành người công dân, người cán bộ, người lao động có
chuyên môn và nghề nghiệp nhất định đáp ứng yêu cầu của xã hội trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định, đồng thời thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của mỗi cá nhân.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: ‘‘Đào tạo là quá trình tác động
đến một con người nhằm làm cho con người đó lĩnh hội và nắm vững tri
16

thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận được sự phân công nhất định
góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn
minh loài người.
Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn với
giáo dục đạo đức, nhân cách
Theo tác giả Phạm Minh Đường: ‘‘Đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển có hệ thống tri thức kĩ
năng, kĩ xảo, trình độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân để tạo tiền
đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả”.
- Khái niệm về quá trình đào tạo
Đào tạo có thể hiểu là một quá trình có thể điều khiển được thông qua
các mối liên hệ chặt chẽ trong quản lí như mục tiêu đào tạo, nội dung đào
tạo, chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo, phương pháp đào tạo,người dạy,
người học, cơ sở vật chất kết quả đào tạo
Việc quản lí quá trình đào tạo bao gồm:
1. Quán triệt mục tiêu, nội dung đào tạo, kế hoạch đào tạo
2. Xây dựng các điều kiện cần thiết, khả thi: đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất, trường sở, nguồn tài chính, môi trường sư phạm
3. Xác định qui mô phát triển học sinh và tuyển sinh
4. Tổ chức hoạt động dạy học của thầy và trò
5. Hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lí
6. Phát triển cơ chế cộng đồng phối hợp trong và ngoài nhà trường
7. Tổ chức đánh giá chất lượng và hiệu quả đào tạo
17
1.3.2 Khái niệm về chất lượng và quan niệm về chất lượng đào tạo
- Quan niệm về chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất của tất cả các trường học
nói chung và các trường dạy nghề nói riêng. Việc phấn đấu nâng cao chất
lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kì

cơ sở đào tạo nghề nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng chất
lượng đào tạo vẫn là một khái niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo
lường và cách hiểu của người này khác cách hiểu của người người kia.
Vậy chất lượng là gì? Có rất nhiều định nghĩa và cách lý giải khác
nhau. Có ý kiến cho rằng: chất lượng là sự xuất chúng, tuyệt hảo, là giá trị
bằng tiền, là sự biến đổi về chất và là sự phù hợp với mục tiêu.
Các quan niệm về chất lượng chúng ta có thể thấy qua 6 định nghĩa
sau:
+ Chất lượng là: “tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự
việc)… làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác” (Từ
điển tiếng Việt phổ thông).
+ Chất lượng là :“cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật” hoặc là “cái tạo
nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia” (Từ điển tiếng Việt
thông dụng – Nhà xuất bản Giáo dục – 1998).
+ Chất lượng là: “mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt
đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản” (Oxford Poket
Dictationary).
+ Chất lượng là : Tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn
nhu cầu người sử dụng” (Tiêu chuẩn Pháp – NFX 50-109).
+ Chất lượng là: “Tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho
thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc
nhu cầu tiềm ẩn” (TCVN- ISO 8402).
18
Tóm lại: Chất lượng là khái niệm trừu tượng, phức tạp và là khái
niệm đa chiều, nhưng chung nhất đó là khái niệm phản ánh bản chất của sự
vật và dùng để so sánh sự vật này với sự vật khác.
- Quan niệm về chất lượng đào tạo
Chất lượng nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng là những khái
niệm cơ bản được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau
Theo Lê Đức Ngọc và Lâm Quang Thiệp: ‘‘Chất lượng đào tạo được

hiểu là mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đề ra đối với một chương trình đào
tạo’’.
Theo Trần Khánh Đức : ‘‘Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình
đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất giá trị nhân cách và giá
trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp, tương ứng với
mục tiêu chương trình đào tạo theo các nghành nghề cụ thể.
Chất lượng đào tạo được hiểu là một tiêu thức phản ánh các mức độ của kết
quả hoạt động giáo dục đào tạo có tính liên tục từ khởi đầu quá trình đào tạo
đến kết thúc quá trình đó’’
Theo cách tiếp cận quản lí chất lượng: ‘‘chất lượng đào tạo được coi
là sự phù hợp và đáp ứng yêu cầu’’. Chất lượng đào tạo có hai phần:
+ Phần cứng là bộ ba kiến thức - kĩ năng - thái độ mà người học tiếp thu
trong quá trình quá trình đào tạo(chiếm khoảng 20% – 40 % giá trị)
+ Phần mềm là năng lực sáng tạo và thích ứng ( chiếm khoảng 60% - 80%).
2. Cơ sở pháp lí
-Luật dạy nghề của quốc hội khoá XI, kì họp thứ 10 số 76/2006/QH 11 ngày
29/11/2006
-Luật giáo dục sửa đổi số 44/2009/QH12 của Quốc hội ban hành ngày
25/11/2009
19
- Dự thảo chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011 – 2020 của Tổng
cục Dạy nghề ban hành.
- Điều lệ trường Dạy Nghề ban hành kèm theo quyết định số
775/2001/QĐBLĐTBXH ngày 9/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Lao động
Thương binh Xã hội.
3. Cơ sở thực tiễn
Trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội chia thành 3 loại
hình đào tạo: Đào tạo hệ trung học chuyên nghiệp, đào tạo tại chức và đào
tạo nghề. Trong những năm gần đây, do bối cảnh kinh tế xã hội đã có những
thay đổi nhất định, nhu cầu của xã hội và người sử dụng lao động cũng khắt

khe hơn song song với tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Những thách thức này
đòi hỏi người lao động phải có những kiến thức chuyên môn vững vàng và
kĩ năng nghề nghiệp thành thạo, cộng với đạo đức, tác phong của người lao
động mới. Trong khi đó, chất lượng đào tạo nghề của trường Trung học Kỹ
thuật và Nghiệp vụ Hà Nội lại gặp phải những bất cập về quá trình đào tạo,
cơ sở vật chất kém hiện đại chưa đáp ứng với nhu cầu giảng dạy, học tập;
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí còn thiếu về số lượng, chưa đồng bộ về
chất lượng; chương trình đào tạo chưa cập nhật với thực tiễn sản xuất; mối
liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo Tất cả những vấn đề
bức thiết đó đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết kịp thời để nâng cao chất
lượng đào tạo nghề của trường.

20
Chương 2: Thực trạng quản lí đào tạo nghề ở trường Trung học Kỹ
thuật và Nghiệp Vụ Hà Nội
2.1 Khái quát chung về trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của trường Trung học Kỹ thuật
và Nghiệp vụ Hà Nội
Trường Trung học Kĩ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội được thành lập theo
Quyết định số 1189/QĐ-BXD ngày 30/5/20005 của Bộ trưởng bộ Xây
Dựng.Trường có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản mở tại kho bạc
Nhà nước ,các ngân hàng theo qui định của pháp luật.
Trụ sở chính :169 Nguyễn Ngọc Vũ –Trung Hoà –Cầu Giấy –Hà Nội
Điện thoại: 04.8582667- 04.8585141-04.5583771- 04.5564313 Fax: 04.
8582667
Trường Trung học Kĩ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội có tiền thân là
Trường đào tạo công nhân Kiến trúc thuộc Bộ Kiến trúc được thành lập
vào ngày 15/4/1960 theo quyết định số 163/BKT của Bộ trưởng Bộ Kiến
trúc và đã đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ từng giai đoạn.:
+Trường công nhân Xây dựng Nam Hà Nội 28/6/1973.

+Trường công nhân Kỹ thuật Xây Dựng Từ Liêm 15/3/1975
+Trường công nhân Kỹ thuật Xây Dựng thuộc Tổng Công ty Xây dựng
Hà Nội theo quyết định số 292/BXD-TCCB ngày 7/3/1983 của Bộ
trưởng Bộ Xây dựng.
+Trường công nhân Kỹ thuật và bồi dưỡng cán bộ Nghiệp vụ Xây dựng
Hà Nội theo quyết định số 459/QĐ-BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng
+Trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội theo quyết định số
1189/QĐ-BXD ngày 30/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng
21
2.1.2 Chức năng nhiệm vụ của nhà trường
1. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ bậc trung học chuyên nghiệp và công nhân kĩ
thuật cho cho các ngành , nghề được Bộ Xây Dựng và Tổng công ty Xây
Dựng Hà Nội giao.
2. Căn cứ nhu cầu của xã hội và năng lực đào tạo của Nhà trường, xây dựng
các kế hoạch đào tạo của trường cho từng năm , từng thời kì trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt
3.Tổ chức bồi dưỡng nâng cao, đào tạo lại đối với cán bộ kĩ thuật, nghiệp vụ
và công nhân kĩ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và nhu
cầu xuất khẩu lao động.
4.Xây dựng chương trình đào tạo,kế hoạch giảng dạy dựa trên chương trình
khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây Dựng ban hành
5.Tổ chức biên soạn giáo trình của những nghành nghề được phép đào tạo
trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định do Hiệu trưởng thành lập
6.Thực hiện các hoạt động thực nghiệm, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và
phát triển công nghệ, tham gia giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội của
địa phương và đất nước
7.Thực hiện các dịch vụ khoa học, công nghệ, sản xuất kinh doanh phù hợp
với ngành, nghề đào tạo và các nhiệm vụ khác theo qui định của pháp luật
8.Quản lí đội ngũ giáo viên,cán bộ, nhân viên
9.Tổ chức thực hiện việc tuyển sinh, giáo dục, quản lí học sinh

10.Phối hợp với gia đình học sinh, các tổ chức cá nhân trong hoạt động giáo
dục đào tạo
11.Tổ chức cho cán bộ giáo viên nhân viên và học sinh tham gia các hoạt
động xã hội.
12.Quản lí việc sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị tài chính theo qui
định của pháp luật.
22
13. Liên kết với các tổ chức kinh tế, văn hoá xã hội và các cơ sở đào tạo
nhằm phát triển công tác đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo
với việc làm, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, bổ sung nguồn tài chính cho
nhà trường
14.Sử dụng nguồn thu từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ, từ các hoạt động kinh
tế để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của trường, mở rộng sán xuất kinh
doanh theo nghành nghề và chi cho các hoạt động giáo dục đào tạo theo qui
định của pháp luật.
15.Hợp tác về đào tạo nghiên cứu khoa học với nước ngoài theo qui định của
chính phủ
16.Được Nhà nước giao đất cho thuê đất ,miễn giảm thuế ,vay tín dụng theo
qui định của pháp luật
17. Thực hiện các chế độ báo cáo định kì và đột xuất theo yêu cầu của cơ
quan quản lí cấp trên
18. Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo qui định của pháp luật
2.1.3 Vị trí vai trò của nhà trường
Trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ Hà Nội là cơ sở giáo dục
nghề nghiệp thuộc bậc trung học, có quan hệ liên thông với các trường
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Dạy nghề, Cao đẳng, Đại học trong
hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong 45 năm qua, nhà trường đã đào tạo được hơn 10000 cán bộ kỹ
thuật nghiệp vụ , hơn 20000 công nhân kỹ thuật và bồi dưỡng, bổ túc kiểm
tra bậc thợ cho hơn 12000 lượt công nhân các nghề thuộc nghành Xây dựng

phục vụ cho sự nghiệp công nhiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
23
2.1.4 Chỉ tiêu và nghành nghề đào tạo
- Hệ trung học chuyên nghiệp: 350-500 học sinh/năm. Tuyển học sinh tốt
nghiệp THPT, trung học bổ túc văn hoá, thời gian đào tạo 24 tháng, tốt
nghiệp cấp bằng Trung học chuyên nghiệp.
Ngành: Xây dựng công nghiệp và dân dụng, tin học, hạch toán kế
toán
- Hệ công nhân kỹ thuật: 400-500 học sinh/năm. Tuyển học sinh tốt nghiệp
THCS trở lên, đào tạo 18 tháng tốt nghiệp cấp bằng nghề bậc 3/7.
Ngành: Nề hoàn thiện, Mộc xây dựng, Điện nước dân dụng, Cốt thép
hàn, Hàn công nghệ, Vận hành máy xây dựng…
- Hệ công nhân kỹ thuật ngắn hạn, Bổ túc, bồi dưỡng nâng bậc, sát hạch tay
nghề, cấp chứng chỉ.
- Hệ đại học cao đẳng: 100-150 sinh viên/năm. Nhà trường liên kết với một
số trường đại học cao đẳng mở hệ tại chức.
Ngành: Xây dựng dân dụng và công nghiệp, kế toán tin học…Tốt
nghiệp được cấp bằng đại học, cử nhân cao đẳng.
2.1.5 Những thành tích đã đạt được
- Huân chương lao động Hạng Ba do hội đồng Nhà Nước tặng thưởng năm
1990
- Huân chương lao động Hạng Nhì do Chủ tịch nước tặng thưởng 1999
- Huân chương lao động Hạng Nhất do Chủ tịch nước tặng thưởng 2005.
- Danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc liên tục các năm từ 1983-2005.
- Chi bộ Đảng Nhà trường được công nhận là chi bộ vững mạnh tất cả các
năm.
- Công đoàn Nhà trường hàng năm đều được tặng bằng khen của công đoàn
Ngành Xây dựng Việt Nam.
24
- Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhà trường đã được tặng nhiều

bằng khen của Trung ương Đoàn và Thành Đoàn Hà Nội.
2.1.6 Hình thức, qui mô, chương trình đào tạo
- Hình thức đào tạo
Trường có các hình thức đào tạo sau:
+ Hệ trung cấp chuyên nghiệp chính qui, thời gian đào tạo 2 năm( đối với
học sinh tốt nghiệp THPT) 2,5 năm ( đối với học sinh trượt tốt nghiệp
THPT) 3 năm (đối với học sinh tốt nghiệp THCS)
+ Hệ trung cấp nghề chính qui đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, thời
gian đào tạo từ 12 tháng đến 3 năm tuỳ theo trình độ văn hoá của học sinh là
THCS hoặcTHPT
+ Trường còn liên kết đào tạo và liên thông lên đại học với các trường: Đại
học Bách khoa Hà Nội (hệ cao đẳng chính quy) Đại học kinh tế quốc dân( hệ
tại chức), Đại học Xây dựng (hệ tại chức), Học viện Tài chính (hệ tại chức),
Đại học Giao thông vận tải( hệ tại chức), Đại học Công đoàn( hệ liên thông
lên Cao đẳng/ Đại học)
- Qui mô đào tạo
Mỗi năm trường đào tạo hơn 1000 học sinh và sinh viên trên/năm. Trong đó:
+ Hệ trung học chuyên nghiệp: 350-500 học sinh/năm
+ Hệ công nhân kỹ thuật: 400-500 học sinh/năm.
+ Hệ đại học cao đẳng: 100-150 sinh viên/năm
- Chương trình đào tạo
Khoa Trung cấp nghề của trường Trung học Kỹ thuật và Nghiệp vụ
Hà Nội đào tạo theo khung chương trình do Bộ Lao động thương binh và xã
hội ban hành.
25

×