Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ tại trường Cao đẳng Nông Lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.46 KB, 101 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NSNN: Ngân sách Nhà nước
KBNN: Kho bạc Nhà nước
KSNB: Kiểm soát nội bộ
HTKSNB: Hệ thống kiểm soát nội bộ
KTNB: Kiểm toán nội bộ
SV: Sinh viên
HSSV: Học sinh, sinh viên
NN & PTNT: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
IAS: Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế
IFAC: Liên đoàn Kế toán Quốc tế
TSCĐ: Tài sản cố định
XDCB: Xây dựng cơ bản
THCN và DN: Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập Quốc tế hoá đang diễn ra gay gắt như hiện nay,
đòi hỏi các trường đào tạo nghề trong đó có các trường Cao đẳng phải đối mặt
với rất nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt là sức ép cạnh tranh không chỉ bởi
các đối thủ trong nước mà còn bởi các đối thủ trong khu vực và trên thế giới.
Làm thế nào để tồn tại và phát triển vững mạnh. Đó là yêu cầu đặt ra đôí với
các nhà quản lý. Với chức năng chính là đào tạo các kỹ sư thực hành trong
lĩnh vực Nông lâm nghiệp - là một tổ chức sự nghiệp công - trước cơ chế tự
chủ về tài chính của Nhà nước, đặc biệt là xu thế hội nhập hoá, quốc tế hoá
đang diễn ra gay gắt thì việc quản lý tổ chức hoạt động của trường thế nào để
đạt được mục tiêu đề ra là vấn đề cấp thiết.
Nhận thức được hiệu quả quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ trong
quản lý là nó cho phép người quản lý luôn nắm bắt và kiểm soát một cách tốt
nhất hoạt động của đơn vị; hạn chế, ngăn ngừa những sai sót có thể xảy ra


trong quá trình hoạt động. Do đó, xây dựng HTKSNB hữu hiệu là yêu cầu
không thể thiếu đối với các tổ chức sự nghiệp công để đảm bảo cho hoạt động
của đơn vị đạt được mục tiêu đã đề ra và giảm thiểu tối đa những rủi ro do sai
sót trong qúa trình hoạt động. Vì vậy, Nhà trường đã có những quy chế, quy
định về việc KSNB nhưng nó chưa tạo thành một HTKSNB và vẫn còn một
số tồn tại mà việc tổ chức, hoàn thiện nó là một vấn đề cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nói trên, tôi chọn chuyên đề: “Tổ chức hệ thống
kiểm soát nội bộ tại trường Cao đẳng Nông Lâm” nhằm góp thêm một tiếng
nói vào quá trình phát triển xây dựng Nhà trường vững mạnh hơn nữa.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống những vấn đề lý luận hệ thống kiểm soát nội bộ trong các tổ
chức sự nghiệp công.
1
- Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại trường Cao
đẳng Nông Lâm.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hệ thống
kiểm soát nội bộ và những điều kiện thực hiện những giải pháp này tại trường
Cao đẳng Nông Lâm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức sự nghiệp công với cấu trúc hệ
thống kiểm soát nội bộ, nội dung và sự vận hành của hệ thống KSNB.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đi sâu nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ tại trường Cao
đẳng Nông Lâm trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
kết hợp lý luận cơ bản của khoa học kinh tế
- Phương pháp cụ thể: phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá, khảo
sát thực tiễn nhằm phục vụ công tác nghiên cứu đạt kết quả tốt.

5. Những đóng góp của luận văn
Ngoài việc làm phong phú thêm lý luận về HTKSNB, Luận văn đã phân
tích thực trạng HTKSNB và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện tổ chức
HTKSNB tại trường Cao đẳng Nông Lâm.
6. Kết cấu của Luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận được trình bày gồm:
Chương 1: Lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ trong các tổ
chức sự nghiệp công.
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại trường Cao
đẳng Nông lâm.
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hệ
thống kiểm soát nội bộ tại trường Cao đẳng Nông lâm.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
1.1.1. Kiểm soát trong hoạt động quản lý
Quản lý là một khái niệm khá quen thuộc, tuy nhiên cũng có nhiều khái
niệm khác nhau về quản lý. Có quan điểm cho rằng quản lý là quá trình nhằm
đạt được sự khéo léo sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hay hoạt động quản
lý là hoạt động nhằm làm cho hệ thống vận động theo mục tiêu đề ra và tiến
tới trạng thái chất lượng mới. Như vậy, tựu chung lại quản lý là một quá trình
định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn
lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Một quá trình quản lý bao gồm các giai đoạn cơ bản là giai đoạn định
hướng và giai đoạn tổ chức thực hiện những hướng đã định trên cơ sở nguồn
lực xác định. Trong giai đoạn định hướng cần những dự báo về nguồn lực và
xác định mục tiêu cần đạt được. Để đảm bảo định hướng là đúng đắn và mục
tiêu là khả thi, trước hết các nguồn lực cần được kiểm tra lại để đảm bảo tính

đúng đắn, phù hợp. Tiếp đó, quá trình xây dựng mục tiêu cũng cần được kiểm
tra để đảm bảo mục tiêu được xây dựng mang tính khả thi và phù hợp. Trong
giai đoạn này, mục tiêu sẽ được cụ thể hoá thông qua các chương trình kế
hoạch. Chính vì vậy, kiểm tra tính khả thi và phù hợp của các kế hoạch,
chương trình là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành công của
giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, các kế hoạch được thực hiện hoá
thông qua việc kết hợp các nguồn lực theo phương án đã được xây dựng. Để
đạt được kế hoạch đã đề ra, khâu tổ chức thực hiện đóng vai trò rất quan trọng
3
và phải được gắn liền với hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Vì thông qua hoạt
động kiểm tra, kiểm soát nhà quản lý sẽ được cung cấp thông tin về quá trình
thực hiện, về kết quả đạt được, kịp thời so sánh với các mục tiêu đã đặt ra
trong kế hoạch để có những điều chỉnh các hoạt động một cách phù hợp nhằm
đạt được mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Do vậy, kiểm soát không phải là một giai đoạn hay một khâu của quá
trình quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản
lý. Thực chất có thể hiểu kiểm soát là một chức năng của quản lý. Kiểm soát
là hoạt động giám sát thực tiễn từ đó cung cấp thông tin cho nhà quản lý, giúp
các nhà quản lý đánh giá tình hình thực tế để có các quyết định phù hợp và
kịp thời đảm bảo tính khả thi của mục tiêu đã đề ra.
Một hệ thống kiểm soát hữu hiệu hướng tới mục tiêu bảo đảm rằng mọi
hoạt động được thực hiện theo những cách thức tốt nhất hướng tới mục tiêu
của tổ chức. Tuy nhiên, chức năng này cũng thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc
vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền
thống văn hoá cũng như những điều kiện kinh tế xã hội khác của mỗi nơi
trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Như vậy, kiểm soát là một chức năng của quản lý, gắn liền với quản lý, ở
đâu có quản lý thì ở đó có kiểm soát. Xã hội càng phát triển cao thì vai trò của
quản lý càng lớn, nội dung quản lý càng phức tạp nên công tác quản lý càng

có những yêu cầu cao hơn đối với kiểm soát. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động
của mình trong tất cả các khâu của quản lý, từ định hướng đến tổ chức thực
hiện. Chức năng kiểm tra, kiểm soát trong tổ chức sự nghiệp công được thực
hiện bởi HTKSNB.
1.1.2. Khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ
Trong tổ chức sự nghiệp công, hệ thống kiểm soát nội bộ luôn giữ vai trò
quan trọng trong quá trình quản lý, thể hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của
4
quản lý. Hiện nay, có khá nhiều tổ chức chuyên môn đưa ra khái niệm về hệ
thống kiểm soát nội bộ nhưng nhìn chung đều khá tương đồng.
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế (Chuẩn mực IAS 400) “Hệ thống
KSNB là toàn bộ những chính sách và thủ tục kiểm soát do ban lãnh đạo của
đơn vị thiết lập nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và sự hiệu quả của các
hoạt động trong khả năng có thể. Các thủ tục này đòi hỏi việc tuân thủ các
chính sách quản lý, bảo quản tài sản, ngăn ngừa và phát hiện gian lận hoặc sai
sót, tính chính xác và tính đầy đủ của các ghi chép kế toán; đồng thời đảm bảo
lập trong thơì gian mong muốn những thông tin tài chính đáng tin cậy”
Còn theo định nghĩa của AICPA thì “ KSNB gồm kế hoạch tổ chức và
tất cả những phương pháp, biện pháp phối hợp được thừa nhận dùng trong
kinh doanh để bảo vệ tài sản của tổ chức, kiểm tra sự chính xác và độ tin cậy
của thông tin kế toán, thúc đẩy hiệu quả hoạt động và khích lệ bám sát những
chủ trương quản lý đề ra”
Theo định nghĩa của Liên đoàn kế toán quốc tế (International Federation
of Accountants - IFAC) “ Hệ thống KSNB là một hệ thống các chính sách và
thủ tục kiểm soát nhằm:
- Bảo vệ tài sản của đơn vị, tránh mất mát, thất thoát, hư hỏng
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin kế toán, tránh những sai sót gian
lận trong việc ghi chép, tổng hợp trên các tài liệu kế toán.
- Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, bảo đảm sự tuân thủ
đúng mức các quy định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động của đơn

vị, tránh những vi phạm dẫn đến những quan hệ không lành mạnh trong
hoạt động tài chính.
- Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý. Tránh những
lãng phí về các nguồn lực tài chính và phát huy tối đa năng lực của đội ngũ
cán bộ quản lý và của người lao động trong đơn vị”
5
Nhìn chung, HTKSNB được hiểu là toàn bộ các chính sách, các bước
kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm kiểm soát các hoạt động
của đơn vị trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong từng khâu công việc
để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu
đặt ra của đơn vị. HTKSNB hướng tới những mục tiêu cơ bản như:
Thứ nhất, tài sản của đơn vị phải được bảo vệ. Tài sản ở đây có thể là vô
hình, hữu hình, có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Chúng có thể bị đánh cắp,
bị lạm dụng vào các mục đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu không được bảo
vệ bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp.
Thứ hai, các thông tin phải đảm bảo độ tin cậy. Thông tin là căn cứ quan
trọng để hình thành các quyết định quản lý. Vì vậy, thông tin cung cấp phải đảm
bảo tính kịp thời về thời gian, tính chính xác và tin cậy về thực trạng hoạt động
đồng thời phản ánh đầy đủ, khách quan các nội dung chủ yếu của các hoạt động
kinh tế tài chính.
Thứ ba, bảo đảm việc tuân thủ các quy định pháp lý. Hệ thống KSNB
được thiết kế trong các tổ chức sự nghiệp công phải đảm bảo luật pháp và các
quy định pháp lý liên quan đến hoạt động tổ chức, quản lý của đơn vị phải
được tuân thủ đúng mức.
Thứ tư, bảo đảm hiệu năng, hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức sự
nghiệp công. Các quá trình kiểm soát trong đơn vị được thiết kế nhằm ngăn
ngừa sự lặp lại không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt
động và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực.
Ngoài ra, định kỳ các nhà quản lý thường đánh giá kết quả hoạt động
trong đơn vị được thực hiện với cơ chế giám sát của hệ thống KSNB của đơn

vị nhằm nâng cao khả năng quản lý điều hành của bộ máy quản lý đơn vị.
Như vậy, hệ thống KSNB có thể được định nghĩa như sau: Hệ thống
KSNB là toàn bộ các chính sách và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm bảo
đảm hiệu năng và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị: Bảo đảm sự tuân
6
thủ quy định của đơn vị và pháp luật của Nhà nước; Bảo đảm độ tin cậy của
thông tin và bảo vệ tài sản của đơn vị.
Qua khái niệm này có thể nhận thấy phạm vi của hệ thống KSNB bao
trùm toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của một đơn vị từ tổ chức nhân sự đến
hoạt động cụ thể, tài chính kế toán; từ các bộ phận, phòng ban cho đến các cơ
quan chủ quản (ngành dọc) như Bộ, ngành.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của hệ thống kiểm soát nội bộ
Để thực hiện đầy đủ chức năng kiểm tra, kiểm soát của quản lý
HTKSNB trong tổ chức sự nghiệp công thường bao gồm 4 bộ phận cấu
thành cơ bản: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục kiểm
soát và kiểm toán nội bộ.
1.1.3.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài
đơn vị có tính chất môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý
dữ liệu của các loại hình KSNB.
Các yếu tố thuộc môi trường kiểm soát chủ yếu liên quan đến thái độ,
nhận thức và hành động của người quản lý đơn vị. Tính hiệu quả của
HTKSNB trong tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý đơn vị, tuỳ
thuộc vào nhận thức và đánh giá vai trò của HTKSNB trong hoạt động quản
lý của họ. Vì vậy chúng có vai trò hết sức quan trọng trong HTKSNB của đơn
vị. Các nhân tố có tính chất môi trường thường bao gồm:
Đặc thù về quản lý
Đặc thù về quản lý ở đây đề cập đến nhận thức, quan điểm của người
quản lý trong điều hành các hoạt động của đơn vị. Những quan điểm này
ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách, chế độ cũng như cách thức tổ chức

quy trình kiểm tra, kiểm soát trong đơn vị. Những quan điểm khác nhau
trong quản lý và điều hành tất yếu sẽ dẫn đến sự khác nhau trong xây dựng
và áp dụng những chính sách và thủ tục kiểm soát.
7
Đặc thù về quản lý còn được thể hiện ở cơ cấu quyền lực trong tổ chức
sự nghiệp công. Khác với một doanh nghiệp là cơ cấu quyền lực thông qua
quan hệ sở hữu về vốn. Trong các mô hình doanh nghiệp khác nhau thì
quyền lực và trách nhiệm của họ cũng khác nhau, do đó quan điểm của họ
về HTKSNB cũng khác nhau. Còn trong tổ chức sự nghiệp công thì nhà
quản lý (đối với các trường là Hiệu trưởng) do Bộ chủ quản ra quyết định
trên cơ sở lấy ý kiến thăm dò từ chính toàn thể cán bộ công nhân viên chức
trong đơn vị. Do vậy, nhà quản lý có toàn bộ quyền lực đối với đơn vị mình
quản lý. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách, thủ tục kiểm
soát được thiết kế và vận hành của HTKSNB. Nếu như người quản lý cao
nhất coi trọng công việc kiểm soát, đưa ra những mệnh lệnh rõ ràng cho các
nhân viên về sự quan trọng của kiểm soát, thì các chính sách, thủ tục kiểm
soát, các yếu tố khác tác động tích cực đến hoạt động kiểm soát sẽ được thiết
lập và các nhân viên trong đơn vị sẽ tuân thủ nghiêm túc, thận trọng quy chế
quản lý của đơn vị. Mặt khác, nếu như những thành viên của tổ chức hiểu rõ
được kiểm soát không phải là vấn đề quan trọng đối với người quản lý cấp
cao nhất và họ không nhận được sự hỗ trợ, khuyến khích trong công việc
kiểm soát từ phía người lãnh đạo thì hầu như chắc chắn mục tiêu kiểm soát
của người quản lý sẽ không thể đạt được một cách hữu hiệu.
Năng lực của người quản lý: Năng lực là những hiểu biết và những kỹ
năng cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ đã được định rõ trong công việc của
mỗi cá nhân. Nếu những người quản lý cao cấp được đào tạo chính quy,
chuyên ngành phù hợp với nhiệm vụ quản lý được giao; nắm bắt được công
việc kiểm soát cùng với hệ thống chính sách, thủ tục kiểm soát được ban hành
đầy đủ, đó là biểu hiện của người quản lý có năng lực, quan tâm công tác
kiểm soát. Nhân tố này tác động rất tích cực đến hiệu quả hoạt động của hệ

thống KSNB.
8
Tính trung thực và đạo đức của người quản lý: Là cách cư xử của người
quản lý theo các chuẩn mực về đạo đức đã được thiết lập. Chúng bao gồm
những hoạt động của người quản lý để làm giảm và xoá bỏ những động cơ và
sự cám dỗ mà có thể khiến các nhân viên sẽ không trung thực hoặc có những
hành động phi pháp, phi đạo đức. Chúng cũng bao gồm giá trị truyền đạt
thông tin của một đơn vị và chuẩn mực cư xử với nhân viên thông qua việc
thiết lập các chính sách, điều lệ quản lý
Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của một đơn vị là sự phân chia nhiệm vụ quyền hạn giữa
các thành viên trong đơn vị. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống
xuyên suốt từ trên xuống dưới trong việc ban hành các quyết định, triển khai
các quyết định đó cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định
đó trong toàn bộ đơn vị, góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận
và sai sót trong mọi hoạt động của đơn vị.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên
toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực của đơn vị sao cho không bị chồng chéo
hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch giữa các chức năng, bảo đảm
sự độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn
nhau trong các bước thực hiện công việc. Ngược lại, sự thiếu hợp lý trong
việc bố trí cơ cấu tổ chức sẽ dẫn đến sự lãng phí, chồng chéo hay bỏ sót hoặc
sự lơ là thiếu trách nhiệm, từ đó dễ xảy ra các sai phạm. Như vậy, bản thân cơ
cấu tổ chức của đơn vị cũng ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách cũng như
các thủ tục kiểm soát trong đơn vị. Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý
trong đơn vị sẽ góp phần tạo ra môi trường kiểm soát tốt.
Như vậy, để thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả thì nhà
quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
9
- Thiết lập được sự điều hành và sự kiểm soát trên toàn bộ hoạt động của

đơn vị, không bỏ sót lĩnh vực nào, đồng thời không có sự chồng chéo giữa các
bộ phận.
- Thực hiện sự phân chia rành mạch ba chức năng: xử lý nghiệp vụ, ghi
chép sổ và bảo quản tài sản.
- Đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất trong hoạt động của các bộ phận chức năng.
Chính sách nhân sự
Chính sách nhân sự bao gồm toàn bộ các chính sách chế độ của đơn vị
đối với việc tuyển dụng, đánh giá, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật các nhân
viên. Chính sách nhân sự có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kiểm soát
bởi vì con người luôn đóng vai trò quyết định trong qúa trình quản lý, là chủ
thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của đơn vị.
Mọi chính sách thủ tục dù đúng đắn, chặt chẽ đến đâu cũng không phát
huy được hiệu quả khi đội ngũ nhân sự thực thi yếu kém về trình độ, thiếu
trách nhiệm trong công việc. Một chính sách nhân sự hữu hiệu sẽ khiến cho
các chính sách, thủ tục kiểm soát được tuân thủ một cách nghiêm túc, hạn
chế đến mức thấp nhất những sai phạm.
Chính vì vậy, các nhà quản lý cần có những chính sách cụ thể và rõ ràng
về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên.Chính
sách nhân sự rõ ràng và hợp lý chính là công cụ tốt nhất để vận hành hiệu quả
HTKSNB.
Công tác kế hoạch
Hệ thống kế hoạch và dự toán bao gồm các kế hoạch đào tạo, thực hành
thực tập, kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, thu chi quỹ, kế hoạch hay dự toán đầu
tư, sửa chữa tài sản cố định, đặc biệt là kế hoạch tài chính gồm những ước
tính cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự luân chuyển tiền
10
trong tương lai là những nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát. Lập
kế hoạch là giai đoạn đầu tiên của quản lý, thực hiện việc cụ thể hoá các mục
tiêu thành các kế hoạch cụ thể. Việc lập kế hoạch sẽ giúp cho đơn vị hoạt

động đúng hướng và đạt mục tiêu đặt ra.
Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học thì hệ thống
kế hoạch sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu trong quá trình thực hiện,
giúp đơn vị có thể phát hiện, ngăn ngừa được những vấn đề bất thường, những
sai sót, gian lận trong các hoạt động của mình. Trên cơ sở đó các nhà quản lý sẽ
có những xử lý, điều chỉnh kịp thời, đảm bảo việc thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Uỷ ban kiểm soát
Uỷ ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất
của đơn vị nhưng không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý và những chuyên
gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát. Uỷ ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
- Giám sát sự chấp hành pháp luật của đơn vị.
- Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ.
- Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính.
- Dung hoà những bất đồng (nếu có) giữa Ban Giám đốc với các kiểm
toán viên bên ngoài.
Các nhân tố bên ngoài (môi trường bên ngoài)
Ngoài các nhân tố nêu trên, môi trường kiểm soát còn phụ thuộc vào các
nhân tố bên ngoài. Các nhân tố này tuy không thuộc sự kiểm soát của các nhà
quản lý nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của
các nhà quản lý cũng như sự thiết kế và vận hành các quy chế và các thủ tục
kiểm soát nội bộ. Thuộc nhóm các nhân tố này bao gồm: sự kiểm soát của các
cơ quan chức năng của Nhà nước, môi trường pháp lý, đường lối phát triển
của đất nước
11
Như vậy, môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ những nhân tố có ảnh
hưởng đến quá trình thiết kế, vận hành và xử lý dữ liệu của HTKSNB của đơn
vị, trong đó nhân tố chủ yếu và quan trọng là nhận thức về hoạt động kiểm
tra, kiểm soát và điều hành hoạt động của các nhà quản lý đơn vị.
1.1.3.2. Hệ thống kế toán

Hệ thống thông tin chủ yếu của đơn vị là hệ thống kế toán bao gồm hệ
thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ
thống bảng tổng hợp, cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển
chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác KSNB của đơn vị. Trong
HTKSNB, một hệ thống kế toán hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm
soát chi tiết về tính có thực, sự phê chuẩn, tính đầy đủ, sự đánh giá, sự phân
loại, tính đúng kỳ, quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác.
Chức năng hệ thống kế toán của một đơn vị là thu thập và phản ánh các
hoạt động kinh tế tài chính phát sinh trong đơn vị. Cung cấp thông tin thuộc
lĩnh vực tài chính và nguồn tài chính cho các hệ thống ngành chủ quản (ngành
dọc) cấp trên.
Nhiệm vụ của kế toán là:
- Ghi chép và phản ánh một cách đúng đắn và kịp thời đầy đủ và có hệ
thống tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư tiền vốn, quá trình hình
thành kinh phí và sử dụng nguồn kinh phí, tình hình và kết quả sản xuất kinh
doanh tại đơn vị (nếu có)
- Thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình chấp hành dự toán thu chi, tình
hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tài chính và các tiêu chuẩn định mức của Nhà
nước, kiểm tra việc quản lý, sử dụng các loại vật tư, tài sản ở đơn vị, kiểm tra
việc chấp hành kỷ luật thanh toán và chế độ chính sách của Nhà nước.
- Theo dõi và kiểm soát tình hình phân phối cho các đơn vị dự toán cấp
dưới, tình hình chấp hành dự toán thu chi và quyết toán của các đơn vị cấp dưới.
12
- Lập và nộp đúng hạn các báo cáo tài chính cho các sơ quan quản lý cấp
trên và cơ quan tài chính theo quy định, cung cấp thông tin và tài liệu cần
thiết phục vụ cho việc xây dựng dự toán, xây dựng định mức chỉ tiêu phân
tích và đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí ở đơn vị.
Như vậy, thông qua việc tính toán, ghi chép và đối chiếu các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh, hệ thống kế toán không những cung cấp thông tin cho việc
quản lý mà còn có tác dụng kiểm soát nhiều mặt hoạt động của đơn vị. Chức

năng kiểm tra, kiểm soát của hệ thống kế toán trong đơn vị được thể hiện
thông qua việc kiểm tra ghi chép trên chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo
tài chính; kiểm tra việc nhận và sử dụng nguồn kinh phí, kiểm tra việc thực
hiện các khoản thu, việc chấp hành các chế độ thể lệ tài chính kế toán và thu
nộp ngân sách.
Lập chứng từ kế toán là giai đoạn đầu tiên của hệ thống kế toán. Đây là
giai đoạn hết sức quan trọng. Chứng từ được lập phải đầy đủ, hợp lệ, hợp
pháp và phản ánh trung thực mọi nghiệp vụ phát sinh. Trong giai đoạn lập
chứng từ kế toán, kế toán có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát đảm bảo yêu cầu
về chứng từ kế toán. Chính vì vậy, thông qua giai đoạn lập chứng từ, kế toán
có thể kiểm tra, phát hiện và ngăn ngừa các sai phạm trong nghiệp vụ kinh tế
phát sinh, bảo vệ tài sản, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đơn vị.
Phản ánh vào sổ kế toán là giai đoạn chính trong hệ thống kế toán. Ở
đây, mọi nghiệp vụ phát sinh sẽ được ghi chép, phân loại, tính toán, tổng hợp
vào sổ kế toán. Thông qua việc phân loại, ghi chép và tổng hợp kế toán đồng
thời tiến hành kiểm tra, kiểm soát đối chiếu các nghiệp vụ phát sinh. Bên cạnh
đó, sổ kế toán còn giúp cho việc tổng hợp, lưu trữ thông tin được khoa học và
có hệ thống, là trung gian giữa chứng từ ban đầu và hệ thống báo cáo kế toán.
Vì vậy, nó là cơ sở để kiểm tra, đối chiếu các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Lập báo cáo tài chính là giai đoạn cuối cùng của công tác kế toán nhằm
tổng hợp số liệu trên sổ kế toán thành những chỉ tiêu trên báo cáo tài chính.
13
Thông tin thể hiện trên báo cáo tài chính phản ánh một cách tổng quát tình
hình tài sản, tình hình cấp phát, tiếp nhận kinh phí Nhà nước, kinh phí viện
trợ và tình hình sử dụng từng loại kinh phí của đơn vị HCSN. Ngoài ra, các
đơn vị có hoạt động sản xuất kinh doanh còn phải tổng hợp thu chi và kết quả
từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ kế toán. Đồng thời nó phải
cung cấp các thông tin cần thiết, tin cậy về kinh tế, tài chính, phục vụ cho
công việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi và tình hình quản lý tài sản của
Nhà nước; cung cấp thông tin cho việc phân tích, đánh giá tình hình tôn trọng

định mức chi kinh phí, tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện
cho việc lập kế hoạch kinh phí và thực hiện cơ chế khoán thu chi. Đây chính
là yêu cầu quan trọng đối với hệ thống thông tin kế toán.
Việc nhận và sử dụng nguồn kinh phí phải chính xác, đầy đủ, rõ ràng số
hiện có và tình hình biến động của từng nguồn kinh phí của đơn vị, nguồn
kinh phí đang hoạt động, các nguồn kinh phí chờ quyết toán và các nguồn
được chuyển năm sau.
Việc thực hiện các khoản thu: thu phí, lệ phí theo quy định của Nhà
nước; thu sự nghiệp khác; thu hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Để đáp ứng yêu cầu về nội dung phản ánh trên báo cáo tài chính, hệ thống
kế toán phải hoạt động hữu hiệu, bảo đảm các mục tiêu kiểm soát chi tiết:
- Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép những nghiệp
vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị.
- Sự phê chuẩn: bảo đảm mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp lý.
- Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Sự đánh giá: bảo đảm không có sự sai phạm trong việc tính toán các
khoản giá và phí.
- Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài
khoản và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách kế toán.
14
- Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được thực
hiện kịp thời theo quy định.
- Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghi
vào sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên
các báo cáo tài chính của đơn vị.
Như vậy, bên cạnh chức năng ghi chép và cung cấp thông tin, kế toán
còn một chức năng quan trọng là chức năng kiểm tra, kiểm soát việc quản lý,
sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn, kinh phí của đơn vị. Chính vì vậy, hệ thống
kế toán là một phần rất quan trọng, không thể thiếu của HTKSNB.
1.1.3.3. Thủ tục kiểm soát nội bộ

Thủ tục kiểm soát là các chính sách và các thủ tục được thiết lập trong
quản lý nhằm đảm bảo các mệnh lệnh quản lý được thực hiện đầy đủ. Để đạt
được các mục tiêu quản lý, các nhà quản lý phải thiết lập và duy trì các chính
sách cũng như các thủ tục kiểm soát trong đơn vị. Các thủ tục kiểm soát chủ
yếu bao gồm: Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu, tài liệu liên
quan đến đơn vị; Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán; Kiểm tra số
liệu giữa sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết; Kiểm tra và phê duyệt các
tài liệu kế toán; Đối chiếu số liệu nội bộ với bên ngoài; So sánh, đối chiếu kết
quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán; Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp
với các tài sản và các tài liệu kế toán; Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với
dự toán, kế hoạch; kiểm tra chương trình ứng dụng và môi trường tin học.
Chúng được thiết kế tuỳ thuộc vào đặc thù của từng đơn vị. Chính vì vậy, các
bước kiểm soát và cách thức kiểm soát có thể không giống nhau, thậm chí rất
khác nhau giữa các đơn vị và các loại nghiệp vụ. Tuy nhiên, các thủ tục kiểm
soát đều phải được xây dựng theo các nguyên tắc cơ bản như sau:
Một là nguyên tắc phân công, phân nhiệm.
Theo nguyên tắc này, quyền hạn và trách nhiệm cần được phân chia cho
15
nhiều người trong một bộ phận hoặc nhiều bộ phận khác nhau trong một tổ
chức. Mục đích của nó là làm cho không có một cá nhân hay bộ phận nào
được thực hiện một nghiệp vụ trọn vẹn từ khâu đầu đến khâu cuối. Cơ sở của
nguyên tắc này là nhiều người cùng làm một công việc thì sai sót dễ phát hiện
hơn và các gian lận khó xảy ra hơn. Việc phân công, phân nhiệm còn có tác
dụng tạo nên sự chuyên môn hoá, tạo cơ chế kiểm tra, thúc đẩy lẫn nhau trong
công việc. Ví dụ cách ly việc quản lý, sử dụng tiền bạc, tài sản với việc hạch
toán các nghiệp vụ vào sổ kế toán, bằng cách tách rời giao phó các phần
nhiệm vụ này cho các nhân viên khác nhau, thậm chí các nhân viên này cũng
không được có quan hệ họ hàng với nhau. Chính sự phân chia này, các sai sót,
sơ suất, nhầm lẫn cũng như các hành động tham ô, tiêu cực sẽ được ngăn chặn
và phát hiện dễ dàng hơn là giao các công việc nói trên cho một người.

Bên cạnh đó, phân công, phân nhiệm còn là sự lựa chọn nhân sự phù hợp
với từng vị trí công việc. Việc phân công, phân nhiệm phù hợp, đúng người,
đúng việc là yêu cầu trong tổ chức bộ máy hoạt động nhằm bảo đảm sử dụng
tốt nhất nguồn lực về con người. Nguyên tắc này rất quan trọng trong khai
thác, sử dụng nguồn lực con người bởi nguồn lực con người luôn giới hạn,
việc phân công công việc đúng người không chỉ bảo đảm cho hiệu quả công
việc mà còn bảo đảm cho bộ máy không chồng chéo. Một bộ máy chồng chéo
sẽ lãng phí nguồn nhân lực, hạn chế hiệu quả công việc và quan trọng hơn cả
là trách nhiệm không được xác định rõ ràng khiến hoạt động quản lý, kiểm tra
kiểm soát không mang lại hiệu quả.
Hai là nguyên tắc bất kiêm nhiệm.
Có một số bộ phận trong đơn vị vì lý do tiện lợi hoặc tiết kiệm ngân quỹ,
người phụ trách việc này có thể kiêm nhiệm thêm một phần việc khác. Nhưng
có một số lĩnh vực và công việc kiêm nhiệm phải bị nghiêm cấm vì có thể dẫn
tới lạm dụng quyền lực và gian lận.
16
Nguyên tắc này đòi hỏi sự tách biệt về quyền hạn và trách nhiệm đối với
một số công việc như trách nhiệm thực hiện nghiệp vụ với trách nhiệm ghi
chép sổ sách: trách nhiệm bảo quản tài sản với trách nhiệm ghi sổ kế toán;
trách nhiệm xét duyệt với trách nhiệm ghi sổ sách; chức năng kế toán với
chức năng tài chính; chức năng thực hiện với chức năng kiểm soát Nguyên
tắc này xuất phát từ mối quan hệ đặc biệt giữa các trách nhiệm với sự kiêm
nhiệm dễ dẫn đến gian lận khó phát hiện. Ví dụ, kế toán kiêm nhiệm công tác
thủ quỹ có thể dẫn đến tham ô công quỹ và sửa đổi số liệu kế toán để che dấu
sự thâm hụt; thủ kho kiêm nhiệm công tác kế toán dễ dẫn đến sai sót và gian
lận trong số liệu nhập, xuất hoặc tồn kho.
Ba là nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn.
Theo nguyên tắc này, người quản lý đơn vị không thể giải quyết mọi
công việc sự vụ trong đơn vị mà phải uỷ quyền cho cấp dưới thay mặt người
quản lý đơn vị quyết định một số công việc trong phạm vi nhất định. Tuy

nhiên, người quản lý đơn vị vẫn phải chịu trách nhiệm về công việc đó và vẫn
phải duy trì một sự kiểm tra nhất định. Quá trình uỷ quyền được tiếp tục thực
hiện đối với các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và
quyền hạn giữa các cấp song vẫn bảo đảm tính tập trung của đơn vị.
Bên cạnh đó, để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp vụ kinh
tế phải được phê chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn được thực hiện qua hai loại:
phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể.
Sự phê chuẩn chung được thực hiện thông qua việc xây dựng các chính
sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp dưới tuân thủ.
Ví dụ việc xây dựng và phê chuẩn đối tượng được sử dụng xe ô tô của đơn
vị, đối tượng và thời hạn tạm ứng tiền, bảng giá bán sản phẩm cố định, hạn
mức tín dụng cho khách hàng
17
Sự phê chuẩn cụ thể được thực hiện theo từng nghiệp vụ kinh tế riêng.
Ngoài ba nguyên tắc cơ bản trên, các thủ tục kiểm soát còn bao gồm:
việc quy định chứng từ, sổ sách, quá trình kiểm soát vật chất đối với tài sản,
sổ sách và kiểm soát độc lập việc thực hiện các hoạt động của đơn vị.
Hoạt động KSNB bao gồm nhiều loại. Theo nội dung kiểm soát,
HTKSNB là một công cụ quản lý do chính người quản lý đơn vị xây dựng để
phục vụ cho mục đích quản lý của mình gồm 2 bộ phận: KSNB về quản lý và
KSNB về kế toán.
- KSNB về quản lý: Là hệ thống các chế độ, thủ tục và các quy định mà
Ban Giám Hiệu chịu trách nhiệm tổ chức thiết lập nhằm:
+ Đảm bảo sự tuân thủ của tổ chức đối với các chính sách, kế hoạch, thủ
tục, pháp luật và các quy định hiện hành. Từ đó tránh các chi phí khác do
thiếu tuân thủ. Đồng thời nó cũng bao gồm cả việc tìm kiếm những biện pháp
kiểm soát cải tiến và các mức độ cao hơn của sự tuân thủ
+ Đề ra những chuẩn mực điều hành rõ ràng để định lượng việc sử dụng
các nguồn lực tiết kiệm và có hiệu quả như: cơ sở vật chất phải được tận dụng
tối đa, công việc phải năng suất, thủ tục tiết kiệm, không tốn kém và xác định

lượng nhân viên vừa đủ
+ Xây dựng các mục tiêu và mục đích đã đề ra cho hoạt động hoặc
chương trình triển khai và thực hiện các thủ tục kiểm soát và hướng tới các
kết quả hoạt động hoặc chương trình mong muốn. Đồng thời tìm ra những
chính sách và thủ tục tốt hơn, hoàn thiện hơn và từ đó đề ra những mục tiêu
cao hơn.
Như vậy, kiểm soát quản lý bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức và thực
hiện các trình tự cần cho quá trình ra quyết định để cho phép tiến hành các
nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý gắn liền với trách nhiệm thực hiện các mục tiêu
của tổ chức và là điểm xuất phát để thành lập kiểm soát kế toán. Hoạt động
18
kiểm soát quản lý tập trung vào cách thức kiểm tra nhằm đảm bảo cho việc
điều hành công tác ở đơn vị có nề nếp, nghiêm minh, hiệu quả. Các thao tác
kiểm soát quản lý được thực hiện trên các cấp độ như tuyển chọn nhân viên, xây
dựng quy định, quy chế làm việc, quá trình chấp hành mệnh lệnh ở đơn vị.
Phù hợp với loại kiểm soát quản lý này là các loại kiểm soát các hoạt
động nhân sự, kiểm soát tổ chức, kiểm soát chất lượng - kỹ thuật - nghiên cứu,
kiểm soát các hoạt động quan hệ quốc tế và vấn đề gia tăng các hoạt động.
- KSNB về kế toán: bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các
trình tự cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách tài chính kế
toán, nghĩa là phải đảm bảo:
+ Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của quản lý.
+ Các nghiệp vụ ghi sổ là cần thiết để chuẩn bị các báo cáo tài chính
đúng với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận hoặc các tiêu chuẩn cụ thể
áp dụng cho các báo cáo này đồng thời duy trì khả năng hạch toán của tài sản.
+ Tài sản phải được quản lý theo những nguyên tắc nhất định.
+ Các hoạt động đều được ghi nhận vào các thời điểm thích hợp, giúp
cho việc thành lập thông tin kinh tế tài chính phù hợp với các chuẩn mực kế
toán và thể hiện chính xác, toàn diện tình trạng tài nguyên của đơn vị hoặc
đơn vị có nhiệm vụ điều chỉnh phù hợp khi có những sai lệch.

+ Cung cấp căn cứ để ra quyết định xử lý các sai lệch rủi ro có thể gặp phải.
Phù hợp với loại kiểm soát kế toán là các loại: kiểm soát quản lý tài
chính, kiểm soát nghiệp vụ sử dụng máy tính, kiểm soát thu mua và vận
chuyển
Như vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của
đơn vị được phản ánh trên tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm soát quản lý
yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng quản lý theo mục tiêu của
kiểm soát. Tuy nhiên, kiểm soát kế toán lại có vai trò quan trọng để làm cơ sở
19
cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là vật mang thông tin
thuần tuý mà còn là minh chứng quản lý cho ự hoàn thành các nghiệp vụ kế
toán. Từ đó, kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự kiểm soát
như kiểm soát qua chứng từ, đối ứng tài khoản, qua tổng hợp cân đối kế toán.
1.1.3.4. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của hệ
thống KSNB. Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong
đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu
cầu quản trị nội bộ đơn vị.
Theo các chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán nội
bộ Hoa Kỳ ban hành năm 1978 thì: “ Kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh
giá độc lập được thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra, đánh giá các hoạt động
của tổ chức như là một hoạt động phục vụ cho một tổ chức” Mục tiêu của kiểm
toán nội bộ là giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của
họ một cách hiệu quả.
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) kiểm toán nội bộ là “một hoạt
động đánh giá được lập ra trong một đơn vị như là một loại dịch vụ cho đơn
vị đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của
hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến
hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị

nội bộ đơn vị. Bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, bao gồm cả tính hiệu quả của
việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về KSNB. Bộ phận kiểm
toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp đơn vị có được những thông tin kịp thời và xác
thực về các hoạt động trong đơn vị, chất lượng của hoạt động kiểm soát nhằm
kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả.
20
Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ phát huy tác dụng nếu:
Về tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để
không giới hạn phạm vi hoạt động của nó, đồng thời phải được giao một
quyền hạn tương đối rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với phòng kế
toán và các bộ phận hoạt động được kiểm tra.
Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân viên
có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với các quy định
hiện hành.
Như vậy, kiểm toán nội bộ là hoạt động do tổ chức và nhân viên của tổ
chức tiến hành. Công việc kiểm toán là độc lập, không bị những ràng buộc có
thể hạn chế đáng kể phạm vi và hiệu quả của việc thẩm tra, hoặc làm chậm trễ
việc báo cáo những phát hiện và kết luận kiểm toán. Nó được lập ra để kiểm
tra lại và đánh giá những hoạt động khác trong đơn vị; bao gồm tất cả các
hoạt động: hoạt động tài chính kế toán và các hoạt động phi tài chính kế toán,
các hoạt động điều hành; nhằm giúp đỡ và hỗ trợ cho cả tổ chức, bao gồm
toàn thể nhân viên và Ban Giám đốc. Bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp sự
quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, bao gồm cả
tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về
KSNB. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho đơn vị có được những
thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động trong đơn vị, chất lượng của
hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi
tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính,
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, nhân lực, tiền vốn và hạn chế

lãng phí, tham nhũng; nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý;
hoàn thiện và đổi mới phong cách làm việc tại đơn vị, điều chỉnh và bổ sung
các quy chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả.
Như vậy, HTKSNB trước hết là sự phân công, phân cấp, phân quyền một
cách hợp lý và chặt chẽ trong điều hành để hình thành một phương thức kiểm
21
soát. Hệ thống KSNB còn là các nguyên tắc, chuẩn mực hình thành mạng lưới
kiểm soát theo nhiều giác độ như quản lý, nghiệp vụ kế toán
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG CÁC TỔ
CHỨC SỰ NGHIỆP CÔNG
1.2.1. Những yếu tố tác động đến hệ thống kiểm soát nội bộ trong các tổ
chức sự nghiệp công
Các yếu tố tác động chính đến hệ thống kiểm soát nội bộ của các tổ chức
sự nghiệp công, mang tính đặc thù và những yếu tố này cũng thuộc các yếu tố
cấu thành của hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung.
- Đặc thù về quản lý của các tổ chức sự nghiệp công là đơn vị HCSN có
thu, là đơn vị trực thuộc. Do vậy, trong hoạt động quản lý chịu sự chi phối
của cơ quan chủ quản. Quyền lực thuộc người lãnh đạo cao nhất trong đơn vị,
do cơ quan quản lý quyết định bổ nhiệm trên cơ sở lấy ý kiến của toàn thể cán
bộ công nhân viên chức trong đơn vị và chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ
quản, trước pháp luật về công việc được giao.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy cũng do cơ quan chủ quản quyết định với cơ
chế quản lý tập trung.
- Chính sách nhân sự: Các chức danh đứng đầu đơn vị, trưởng các bộ
phận, phòng ban chuyên môn, việc tuyển dụng nhân sự vào công chức Nhà
nước cũng do cơ quan chủ quản ra quyết định trên cơ sở các cuộc thi xét
tuyển có Hội đồng giám khảo quyết định. Ngoài ra, người lãnh đạo cao nhất
trong đơn vị có quyền quyết định việc ký kết các hợp đồng ngắn hạn nếu
nhu cầu công việc cần thiết. Và họ có quyền sắp xếp nhân sự cho hợp lý
nhằm phát huy hết năng lực, sở trường của cán bộ công nhân viên. Tuy

nhiên, việc tuyển dụng nhân sự ở đây khác với các doanh nghiệp bởi thủ tục
thi tuyển khá phức tạp và chặt chẽ. Do vậy, vấn đề kỷ luật và sa thải cán bộ
công nhân viên chức cũng rất phức tạp, phải qua nhiều giai đoạn, thủ tục.
22

×