MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết của Quốc hội khoá 10 về đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông đã nhấn mạnh: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của
các bậc học, cấp học quy định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt
còn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành; tăng cường tính
thực tiễn kỹ năng thực hành; năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học
xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh”.[18; Tr1]
Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo yêu cầu nêu trên
đòi hỏi một sự triển khai đồng bộ trên nhiều lĩnh vực: xây dựng chương
trình, biên soạn sách giáo khoa, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, nâng cấp
cơ sở vật chất, đổi mới thiết bị giáo dục.
Không thể coi nhẹ bất kỳ nhiệm vụ nào trong các lĩnh vực kể trên,
tuy nhiên có thể nói nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng giáo viên đóng vai trò
quyết định trong việc tổ chức thành công việc đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông. Đó là vì, chính nhà giáo chứ không ai khác có trách nhiệm
đưa các yêu cầu về đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục đến với lớp
học, đem lại cho các em kỹ năng thực hành, năng lực tự học, tính năng
động và sáng tạo, tư cách và trách nhiệm công dân mà công cuộc CNH,
HĐH đất nước đang trông chờ ở tuổi trẻ ngày nay.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, để kịp triển khai việc đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông theo lộ trình đã định, nhiệm vụ bồi dưỡng
giáo viên mang tính ưu tiên, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bản chất của việc
bồi dưỡng giáo viên là việc học suốt đời, tức là người giáo viên phải lấy
tinh thần tự học là chính, thường xuyên cập nhật kiến thức, nâng cao trình
độ, theo đuổi việc học suốt đời. Tuy nhiên, trong bồi dưỡng giáo viên để
1
thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, nhất thiết phải có bước
“bồi dưỡng ban đầu” làm cơ sở cho bồi dưỡng tiếp tục. Bước bồi dưỡng
ban đầu này được thực hiện qua các giáo viên cốt cán.
Theo một nghĩa nào đó, giáo viên cốt cán là giáo viên của các giáo
viên trong trường học của mình; họ vừa có trách nhiệm làm cho đội ngũ
giáo viên nhà trường hiểu được và làm được theo các yêu cầu đổi mới
chương trình giáo dục, vừa là người tiên phong, mẫu mực, lôi cuốn mọi
người trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Vì vậy, nếu theo Điều 15 - Luật Giáo dục năm 2005, “Nhà giáo giữ
vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”[17; Tr15] thì
chất lượng bồi dưỡng giáo viên cốt cán góp phần quyết định trong việc đảm
bảo thực hiện thành công việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Triển khai Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội khoá 10, Chỉ
thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Chỉ thị số
14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức bồi dưỡng giáo viên cốt
cán các tỉnh trong việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Các báo
cáo tổng kết cho thấy công tác bồi dưỡng giáo viên cốt cán đã thu được
những kết quả tích cực và là một đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông.
Các nhà khoa học, nhà sư phạm, cán bộ quản lý giáo dục đã có
những nghiên cứu, đánh giá về công tác bồi dưỡng giáo viên nói chung.
Tuy nhiên, hiện nay các công trình nghiên cứu về chất lượng bồi dưỡng
GVCC trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông còn
rất thiếu.
Đây là lĩnh vực nghiên cứu rất đáng quan tâm vì tính thực tiễn của
nó. Phạm vi nghiên cứu cũng rất rộng theo vùng, miền và đa dạng theo cấp
2
học. Do những giới hạn về điều kiện thực hiện và phạm vi của luận văn, đề
tài sẽ chỉ khoanh lại trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục ở
cấp trung học phổ thông và ở một tỉnh trung du, cụ thể là Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên tác giả chọn đề tài nghiên
cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên cốt
cán THPT tỉnh Vĩnh Phúc trong việc thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực trạng bồi dưỡng giáo viên cốt cán THPT
tỉnh Vĩnh Phóc trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, đÒ xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo
viên cốt cán đáp ứng chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác bồi dưỡng GVCC THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên cốt cán
THPT tỉnh Vĩnh Phúc trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông.
4. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề đặt ra được nghiên cứu tại 4 trường THPT tỉnh Vĩnh Phúc
thực hiện thí điểm đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đó là: THPT
Yên Lạc, THPT Yên Lạc 2, THPT Bán công Phạm Công Bình, THPT Bán
công Yên Lạc.
5. Giả thuyết khoa học
Thành công của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết
định. Tuy nhiên, ở nước ta, việc triển khai đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông được thực hiện trong bối cảnh giáo viên tại ngũ cũng như giáo
3
viên mới ra trường chưa được chuẩn bị về năng lực cần thiết (năng lực ở
đây được hiểu là kiến thức, kỹ năng, thái độ). Điều kiện cũng không cho
phép bồi dưỡng đồng loạt mọi giáo viên. Biện pháp bồi dưỡng GVCC là
biện pháp thực tế khả thi trên cơ sở chấp nhận một giả định là GVCC sẽ là
lực lượng đem lại những thay đổi cần thiết (về kiến thức, kỹ năng, thái độ)
cho toàn bộ đội ngũ giáo viên trong việc thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề bồi dưỡng giáo viên, bồi
dưỡng giáo viên cốt cán.
6.2. Tìm hiểu thực trạng bồi dưỡng GVCC THPT tỉnh Vĩnh Phúc
trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông .
6.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng
GVCC đáp ứng chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp; phân loại
hệ thống lý thuyết để tiến hành tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ về những
vấn đề lý luận có liên quan đến bồi dưỡng giáo viên.
Tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu tài liệu, các công trình khoa
học, các văn bản, có liên quan đến vấn đề bồi dưỡng giáo viên cốt cán
trong các trường THPT.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra viết
* Điều tra thu thập số liệu bằng các phiếu, biểu mẫu thống kê về
công tác bồi dưỡng GVCC.
4
* Điều tra, khảo sát lấy ý kiến của Ban giám hiệu, giáo viên cốt cán
nhằm tìm hiểu thực trạng công tác bồi dưỡng GVCC trong việc thực hiện
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, giáo viên cốt cán về
bồi dưỡng giáo viên .
5
8. Dự kiến cái mới của đề tài
Bước đầu chỉ ra một số bất cập, nguyên nhân của bất cập và các yếu
tố tác động đến chất lượng trong việc bồi dưỡng GVCC THPT. Đề xuất
một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng GVCC THPT trong phạm
vi tỉnh Vĩnh Phúc.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Hiện trạng công tác bồi dưỡng GVCC THPT trong việc
thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo
viên cốt cán THPT tỉnh Vĩnh Phóc trong việc thực hiện đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
1.1.1. Khái niệm chương trình giáo dục phổ thông
1.1.1.1. Khái niệm chương trình giáo dục
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chương trình giáo dục. Ngay
từ những năm đầu của thế kỷ 20, các nhà giáo dục đã cho rằng: “Chương
trình giáo dục gồm toàn bộ kiến thức của các môn học. Chương trình giáo
dục là một hệ thống các môn học cần phải có để được tốt nghiệp hoặc
được cấp chứng nhận đã học xong một ngành học”.[29]
Vào năm 1924, chuyên gia Bobbitt đã đưa ra một cái nhìn khác về
khái niệm chương trình giáo dục: “Chương trình giáo dục là một chuỗi
những kinh nghiệm nhà trường phát triển nhằm giúp học sinh tăng cường
tính kỉ luật, phát triển năng lực tư duy và hành động. Chương trình giáo
dục gồm tất cả những gì mà người học cần có được từ một khoá học nhằm
đạt được các mục đích và mục tiêu của nó. Chương trình giáo dục được
xây dựng theo kiểu khung lí thuyết và nghiên cứu hoặc những thực tiễn
nghề nghiệp trong quá khứ hay hiện tại”.[29]
Đến những năm 50 của thế kỷ 20, người ta đã nhìn nhận về chương
trình giáo dục rộng hơn chứ không bó hẹp ở nội dung học hay kinh nghiệm
của học sinh. Mét trong những định nghĩa chứng tỏ sự thay đổi trong cách
nhìn nhận về chương trình giáo dục của các tác giả đó là: “Chương trình
giáo dục không chỉ quan tâm đến những gì học sinh phải làm trong quá
trình học tập, mà còn là những gì họ sẽ học được từ những việc làm đó.
Chương trình giáo dục quan tâm đến kết quả cuối cùng. Nó là những hoạt
động học tập được hoạch định và chỉ đạo bởi nhà trường nhằm giúp người
học phát triển năng lực cá nhân và xã hội một cách liên tục”.[29; Tr18]
7
Từ thực tiễn phát triển giáo dục ngày nay, có thể thống nhất cách
hiểu về khái niệm chương trình giáo dục như sau: “Chương trình giáo
dục là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động
giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu
học tập mà người học cần đạt được, đồng thời xác định rõ phạm vi,
mức độ nội dung học tập, các phương tiện, phương pháp, cách thức tổ
chức học tập, các cách đánh giá kết quả học tập nhằm đạt được mục
tiêu học tập đề ra”.[29; Tr21]
1.1.1.2. Chương trình giáo dục phổ thông
Từ khái niệm chương trình giáo dục ở trên kết hợp với quy định về
chương trình giáo dục trong Luật Giáo dục, cho phép chúng ta định nghĩa
chương trình giáo dục phổ thông là: “Sự trình bày có hệ thống những vấn
đề chung, chương trình các môn học và cấp học, thể hiện mục tiêu giáo dục
phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội
dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo
dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi cấp
học từ giáo dục tiểu học đến giáo dục trung học phổ thông”.
Trong bản luận văn này đề cập tới giáo dục cấp trung học phổ thông.
1.1.2. Lý do phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Tháng 12 năm 1986, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới giáo dục
toàn diện, trong đó có nhiều nội dung tập trung vào chỉ đạo, thực hiện đổi
mới giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu chuyển đổi của đất nước sang cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới,
giáo dục và đào tạo nước ta đã phát triển rõ rệt về quy mô, mạng lưới
trường lớp, hình thức đào tạo, hệ thống giáo dục quốc dân dần được hoàn
thiện, nội dung chương trình - sách giáo khoa được cải tiến. Tuy nhiên, vẫn
tồn tại nhiều bất cập: tư duy giáo dục chậm đổi mới, chậm phân cấp quản
lý, tồn tại nhiều hiện tượng tiêu cực, giáo dục còn mang nặng bệnh thành
8
tích và đặc biệt chất lượng giáo dục còn thấp, chương trình, nội dung,
phương pháp giáo dục lạc hậu…
Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo Việt
Nam, vấn đề đổi mới chương trình giáo dục phổ thông giữ vai trò then
chốt. Những lý do cho việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông bao
gồm:
- Để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới đòi hỏi phải có nguồn nhân lực phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Đó là những người có ý thức trách nhiệm, có lòng yêu nước, có
lòng nhân ái, có năng lực hợp tác, cạnh tranh và giải quyết vấn đề… Những
kĩ năng, phẩm chất yêu cầu trên là những nội dung cơ bản của mục tiêu
giáo dục, trước hết là của nhà trường phổ thông.
- Trong thời buổi bùng nổ của khoa học - công nghệ, người học
không chỉ cần có những tri thức dưới dạng có sẵn, mà cần có năng lực khai
thác, chiếm lĩnh, năng lực hoạt động độc lập. Tuy nhiên, nhà trường phổ
thông không thể trang bị hết những kĩ năng, năng lực đó. Đó là một yêu cầu
cơ bản của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
- Chương trình, sách giáo khoa các nước trên thế giới ngày càng tiến
bộ cho nên nhu cầu phải hoà chung với xu thÕ phát triển hiện đại buộc
chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam phải được đổi mới. Cần
hướng tới việc thực hiện yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng
sống của con người, khắc phục tình trạng học tập nặng nÒ, nặng lý thuyết,
không coi trọng thực hành, vận dụng.
Chương trình giáo dục phổ thông nước ta cần được đổi mới để bắt
kịp với xu thế tiến bộ trong giáo dục thế giới, đồng thời đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, nhấn mạnh giữ gìn bản sắc dân tộc, tập trung vào
những kĩ năng cơ bản, thiết thực, hình thức tổ chức dạy học, cách học. Như
9
vậy, căn cứ vào những cơ sở trên, có thể thấy rằng đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông là yêu cầu cần thiết và phù hợp.
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là quá trình đổi mới về
mục tiêu, nội dung, phương pháp, đến phương tiện giáo dục, đánh giá chất
lượng giáo dục, kể cả việc đổi mới cách xây dựng chương trình từ quan
niệm cho đến các quy trình kỹ thuật.
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm xây dựng nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới phù
hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ
thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tổ chức phân luồng sau trung học cơ sở và trung học phổ
thông, chuẩn bị tốt cho học sinh học tập tiếp tục ở bậc sau trung học hoặc
tham gia lao động ngoài xã hội. Giúp học sinh phát triển toàn diện, dựa trên
bốn năng lực chủ yếu:
- Năng lực hành động có hiệu quả trên cơ sở kiến thức, kĩ năng,
phẩm chất đã được hình thành trong quá trình học tập, rèn luyện và giao
tiếp. Cụ thể là dám nghĩ, dám làm, năng động trong cuộc sống, có khả năng
ứng dụng sự hiểu biết của bản thân vào thực tiễn.
- Năng lực sáng tạo, có thể ứng phó với những thay đổi trong cuộc
sống biểu hiện ở tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong học tập, lao động,
biết đặt và giải quyết vấn đề trong học tập và cuộc sống.
- Năng lực hợp tác, phối hợp hành động trong học tập và cuộc sống.
Cụ thể là có lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm, tôn trọng lẫn nhau trong
quan hệ gia đình, nhà trường và xã hội; biết làm việc tập thể có tổ chức,
phân công, hợp tác.
- Năng lực tự khẳng định bản thân, tự lực trong học tập và cuộc
sống, tự chịu trách nhiệm về cuộc sống học tập và lao động của bản thân;
10
có ý thức và phương pháp tự học suốt đời; tự tin và ý thức được năng lực
của bản thân để tự định hướng việc làm cho mình trong tương lai.[31; Tr3]
11
1.1.3. Yêu cầu đối với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông
- Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính
phủ và Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội đã chỉ ra một số những
yêu cầu cơ bản đối với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
- Quán triệt các mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo
dục của các cấp học, bậc học quy định trong Luật Giáo dục.
- Đảm bảo tính hệ thống, kế thừa và phát triển của chương trình giáo
dục; phù hợp với thực tiễn và truyền thống; tiếp thu những thành tựu giáo
dục tiên tiến trên thế giới.
- Thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Đảm bảo thống
nhất về chuẩn kiến thức và kỹ năng, tăng cường tính liên thông với giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục sau trung học, đồng thời có các phương án áp
dụng chương trình, sách giáo khoa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
các địa bàn khác nhau; chọn lọc, đưa vào chương trình các thành tựu khoa
học công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh; hết sức
coi trọng tính thực tiễn, “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
- Thực hiện đồng bộ việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp dạy và học với việc đổi mới về cơ bản phương pháp đánh giá,
thi cử, đổi mới đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; đổi mới công tác
quản lý giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất nhà trường theo hướng chuẩn
hoá, đảm bảo trang thiết bị và đồ dùng dạy học.
1.1.4. Làm thế nào để thực hiện đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông
Như đã đề cập trong luận văn, việc đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông đòi hỏi một sự triển khai đồng bộ trên nhiều lĩnh vực: xây dựng
12
chương trình, biên soạn sách giáo khoa, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên,
nâng cấp cơ sở vật chất, đổi mới thiết bị giáo dục…
Để đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Bé Giáo dục và Đào
tạo đã xây dựng một đề án tổng thể bao gồm cả vấn đề cải tiến tổ chức
giảng dạy và học tập ngoại ngữ, tin học trong nhà trường phổ thông; những
định hướng về việc thiết kế mục tiêu, chương trình giáo dục, chuẩn kiến
thức và kế hoạch dạy học cho các trường phổ thông.
- Về tổ chức xây dựng chương trình, sách giáo khoa và sách giáo
viên mới, cần huy động, tập hợp các nhà khoa học, các nhà sư phạm, các
cán bộ quản lý giáo dục am hiểu, có kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và
các giáo viên giỏi tham gia biên soạn, thẩm định, thử nghiệm chương trình,
sách giáo khoa mới và hướng dẫn áp dụng cho các địa bàn khác nhau.
Tổ chức tham khảo ý kiến rộng rãi của mọi tầng lớp trong xã hội, từ
những người trực tiếp thực hiện là các thày cô giáo, các nhà quản lý giáo
dục đến các nhà khoa học và đặc biệt là phụ huynh học sinh, nghiêm túc rút
kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời trước khi triển khai đại trà. Kết hợp
trưng cầu ý kiến với hội thảo hẹp của các chuyên gia về chương trình giáo
dục. Đảm bảo quy trình biên soạn, thẩm định lấy ý kiến đóng góp, nghiệm
thu và hoàn chỉnh thực sự nghiêm túc, khoa học, khách quan và cầu thị.
Thiết kế chương trình các cấp học thích hợp với việc tổ chức học một buổi
ngày trong giai đoạn chuyển tiếp, khi chưa đủ điều kiện để tổ chức đại trà
việc học hai buổi ngày cho học sinh phổ thông.
Xây dựng chương trình đảm bảo tính hiện đại: Nội dung dạy học các
môn học phải phản ánh được những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật -
công nghệ, phản ánh được trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng như các
vÊn đề kinh tế xã hội đang được quan tâm trên thế giới và trong nước. Bên
cạnh đó, đảm bảo tính sư phạm: Nội dung dạy học được thiết kế nhằm tạo
ra sự phát triển nối tiếp của các cấp học, hình thành sự hoàn chỉnh của học
13
vấn phổ thông. Phạm vi và mức độ của các nội dung dạy học được lựa chọn
phải cơ bản, tinh giản, thiết thực và tích hợp được nhiều mặt giáo dục, chú
ý những kiến thức mang tính phương pháp, kỹ thuật học tập.
Ngoài những yêu cầu chung về tính hiện đại, cập nhật, về cách trình
bày mẫu mực, đơn trị, đổi mới cách viết, cấu trúc… sách giáo khoa mới
được chú ý biên soạn nhằm phục vụ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
- Về xây dựng đội ngũ giáo viên, cần lập kế hoạch cụ thể về bồi
dưỡng giáo viên thực hiện chương trình mới. Cần tính toán để có giải pháp
đổi mới chương trình đào tạo tại các trường sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông và từng bước đổi mới phương pháp
dạy của thày, cô giáo, khắc phục phương pháp giảng dạy cũ kỹ đang còn rất
phổ biến hiện nay.
Vấn đề bồi dưỡng giáo viên luôn được quan tâm trong nỗ lực phát
triển nền giáo dục và đào tạo nước nhà. Để có thể giải quyết được vấn đề
trình độ giáo viên còn thấp, bất cập, công tác bồi dưỡng giáo viên cần được
đổi mới trên nhiều khía cạnh.
Trước hết, cần đổi mới mục tiêu bồi dưỡng giáo viên. Phải đảm bảo
cho đội ngũ giáo viên đang dạy học trong cả nước hiểu rõ tinh thần cơ bản,
phương hướng, nguyên tắc xây dựng chương trình mới, kế hoạch dạy học
mới, nắm vững những điều thay đổi so với chương trình và sách giáo khoa
hiện hành.
Nội dung chương trình bồi dưỡng cần đáp ứng sát với nhu cầu của
giáo viên giúp giáo viên hưởng ứng, tự nguyện tích cực thực hiện. Khi xây
dựng chương trình bồi dưỡng, cần dành những phần mềm rộng để đáp ứng
yêu cầu riêng của từng địa phương trong cả nước.
Cần đổi mới phương pháp bồi dưỡng tập trung theo hướng tổ chức
các hoạt động cá nhân/nhóm để mọi học viên tham gia tích cực vào nội
dung lớp học và được tập dượt vận dụng tại chỗ.
14
Bên cạnh đó, phương tiện dạy học là yếu tố rất cần được đổi mới
trong công tác bồi dưỡng giáo viên. Các tài liệu bồi dưỡng, sách giáo khoa,
băng hình, băng tiếng, đĩa CD cần được đầu tư nhiều hơn nhằm đảm bảo
tính hợp lý, hiệu quả phục vụ cho đợt bồi dưỡng. Ngoài ra, cũng cần đổi
mới phương thức tổ chức bồi dưỡng, cách kiểm tra, đánh giá kết quả bồi
dưỡng tại chỗ và tập trung, tạo điều kiện để học viên tự đánh giá, đánh giá
lẫn nhau.
- Về cơ sở vật chất - kỹ thuật và đồ dùng dạy học: xây dựng kế
hoạch cụ thể đảm bảo đủ trang thiết bị, đồ dùng dạy học để thực hiện
chương trình và phương pháp dạy và học mới, trong đó sớm tổ chức các
phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm ở các trường. Cần có cơ chế để các
giáo viên đứng lớp thẩm định đồ dùng dạy học và dạy thử trên các đồ dùng
này trước khi đưa vào sản xuất và sử dụng đại trà.
Đặc biệt ưu tiên cung cấp đồ dùng dạy học cho vùng núi, vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Đồng thời tổ chức huy động
nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia đóng góp xây dựng và nâng cấp cơ
sở vật chất và trang thiết bị cho nhà trường.
- Về các giải pháp hỗ trợ: tăng cường công tác thanh tra giáo dục để
đảm bảo thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, đạt hiệu quả chương trình
mới và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Tăng cường tuyên truyền
vận động trong toàn xã hội, làm cho phô huynh học sinh hiểu được mục
tiêu và tính ưu việt của chương trình mới, cùng tham gia giúp các học sinh
học tập.
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một nhiệm vụ trọng tâm
của ngành giáo dục để triển khai Nghị quyết 40 của Quốc hội, đòi hỏi sự
phối hợp của các cơ quan, ban ngành và sự nỗ lực của toàn xã hội, triển
khai trên nhiều lĩnh vực. Có thể nói rằng:
15
“Muốn đổi mới thành công chương trình giáo dục phổ thông, cần nỗ
lực tạo ra sự chuyển biến ở một vài trọng tâm trong từng thành tố đó, được
lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển hiện đại của khoa học đào tạo và
đang là điểm yếu trong thực tiễn đào tạo bồi dưỡng hiện nay, đồng thời
phải kế thừa phát triển những mặt mạnh đã có, đề phòng xu hướng cực
đoan phiến diện”. [33; Tr204]
16
1.2. BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN
1.2.1. Khái niệm đào tạo giáo viên
Đào tạo giáo viên đóng một vai trò then chốt tạo nên chất lượng nền
giáo dục quốc dân. Mỗi một quốc gia cần có cách triển khai công tác đào
tạo giáo viên sao cho phù hợp.
“Đào tạo” là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu
chuẩn nhất định.[25; Tr279]
Ví dụ: đào tạo chuyên gia, đào tạo cán bộ
Theo GS.TS. Trần Bá Hoành: “Đào tạo là dạng hoạt động của xã
hội nhằm truyền đạt, tập luyện những kinh nghiệm hoạt động trong một
lĩnh vực xác định”.[25; Tr279]
Như vậy, có thể nói, đào tạo giáo viên là trang bị kiến thức, kĩ năng
dạy học một hoặc một vài môn học ở trường, bên cạnh đó phát triển nhân
cách của người giáo viên. Đào tạo giáo viên là chuẩn bị cho những nhà
giáo tương lai đạt các tiêu chuẩn nhất định không những là những kĩ năng,
kiến thức, mà còn phẩm chất, nhân cách của mỗi giáo viên.
Đào tạo giáo viên là đảm bảo cho người giáo viên tương lai thu nhận
được tinh hoa văn hoá, không những truyền đạt cho giáo viên mà còn biến
đổi họ thành những nhân tố phát triển văn hoá.
Cũng có ý kiến cho rằng: “Đào tạo giáo viên thực chất là quá trình
tạo thuận lợi, giúp đỡ giáo sinh chủ động đạt tới mục tiêu đào tạo.”
Tóm lại, đào tạo giáo viên chính là giúp phát triển nhân cách, nâng
cao, cập nhật tri thức, kĩ năng cho nhà giáo tương lai, đáp ứng yêu cầu đổi
mới của ngành giáo dục và của toàn xã hội.
1.2.2. Khái niệm bồi dưỡng giáo viên
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Trung tâm từ điển ngôn ngữ thì “Bồi
dưỡng” được hiểu theo hai cách như sau:
17
Một là: Làm cho tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ. Ví dụ: bồi
dưỡng sức khoẻ, tiền bồi dưỡng.
Hai là: Làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất. Chẳng hạn
như: bồi dưỡng cán bộ trẻ.
PGS.TS. Đỗ Tiến Đạt đã khẳng định: “Bồi dưỡng giáo viên là
đào tạo lại, đổi mới, cập nhật kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc đang làm. Đó là một dạng
đào tạo đặc biệt, là giai đoạn tất yếu tiếp theo của quá trình đào tạo
liên tục, tiếp nối, thường xuyên trong cuộc đời nghề nghiệp của người
giáo viên”.[25; Tr279]. Muốn trò giỏi thì thầy phải giỏi, điều này đặt
ra một yêu cầu với người giáo viên phải luôn cập nhật kiến thức mới
có thể đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Như vậy, bồi dưỡng giáo viên có thể định nghĩa là việc cập nhật,
nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn, năng lực và nghiệp vụ
cho giáo viên đang dạy học.
1.2.3. Tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng giáo viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta đã dạy:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Xác định được vị trí vai trò quan
trọng đặc biệt của giáo dục và đào tạo trong thời kú đổi mới đất nước, nghị
quyết TW 4 khoá VII và Nghị quyết TW 2 khoá VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nêu rõ: “Chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo phụ
thuộc chủ yếu vào việc xây dựng và bồi dưỡng một đội ngũ giáo viên năng
động, sáng tạo, tinh thông nghề nghiệp, có phẩm chất cách mạng vững
vàng”. Người giáo viên là người ra quyết định có hiểu biết, hiểu được học
sinh và có khả năng cấu trúc lại nội dung giảng dạy để học sinh có thể tiếp
thu được nội dung đó. Người giáo viên là nhân vật trung tâm của nhà
trường, người chỉ đạo, điều khiển quá trình sư phạm. Do đó giáo viên là
nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, không có thày giỏi sẽ không có trò
18
giỏi nên người giáo viên phải hội tụ đầy đủ cả hai yÕu tố: đức và tài. Vì
vậy bồi dưỡng giáo viên trở thành một hoạt động thường xuyên có ý nghĩa
và tầm quan trọng đáng kể trong sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Nếu như đào tạo giáo viên được xem như công việc ban đầu, nhằm
trang bị kiến thức, kĩ năng dạy học môn học cụ thể nhằm đạt tới mục tiêu
đào tạo, thì bồi dưỡng là việc đào tạo lại, đổi mới, cập nhật, nâng cao các
kiến thức, kĩ năng, phẩm chất người giáo viên đã có. Bồi dưỡng giáo viên
là quá trình đào tạo tiếp theo, liên tục và thường xuyên.
Bồi dưỡng giáo viên là công việc cần thiết để bắt kịp sự vận động và
phát triển xã hội nhanh, mạnh, và rộng, nhằm đáp ứng sự phát triển của
khoa học, kinh tế, chính trị. Hơn thế nữa, người học với trình độ ngày càng
cao thì yêu cầu họ đặt ra cho người dạy cũng đòi hỏi người giáo viên được
bồi dưỡng để nâng cao trình độ, cập nhật thông tin, hoàn thiện phẩm chất
và nhân cách của mình.
Bồi dưỡng giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa quyết
định việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng, chất lượng giáo
dục nói chung. Thực hiện bồi dưỡng là nhiệm vụ được tiến hành trong suốt
quá trình công tác của người giáo viên. Bồi dưỡng nhằm bổ sung, đào tạo
tiếp tục về chuyên môn, nghiệp vụ cho người giáo viên, giúp người giáo
viên không ngừng nâng cao năng lực và phẩm chất nghề nghiệp, có trình
độ chuyên môn sâu, rộng, có trình độ sư phạm lành nghề đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng giáo dục phổ thông.
Riêng đối với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Quốc
hội đã nêu rõ những điểm cần thiết về công tác bồi dưỡng giáo viên: đảm
bảo cho đội ngũ giáo viên đang dạy học trong cả nước hiểu rõ tinh thần cơ
bản, phương hướng, nguyên tắc xây dựng chương trình mới, kế hoạch dạy
19
học mới, nắm vững những điều thay đổi so với chương trình và sách giáo
khoa hiện hành.
Đổi mới phương pháp bồi dưỡng cũng là một yêu cầu không thể
thiếu để có thể nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên.
1.2.4. Các hình thức bồi dưỡng giáo viên
Trên thế giới hiện nay, do trình độ chuẩn và năng lực của đội ngũ
giáo viên phần lớn rất tốt, nên việc tự học tự bồi dưỡng qua sách vở, tài liệu
và sách tham khảo rất phổ biến. Các hình thức bồi dưỡng chủ yếu theo
chương trình bồi dưỡng chung của cơ quan quản lý giáo dục. Ngoài ra,
công tác bồi dưỡng giáo viên cũng được tiến hành theo nhu cầu của giáo
viên, họ được lựa chọn các chuyên đề mà mình muốn nâng cao trình độ để
có thể được bồi dưỡng.
Tại Việt Nam, cã ba hình thức bồi dưỡng giáo viên: bồi dưỡng để
dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới (gọi tắt là bồi dưỡng thay
sách), bồi dưỡng chuẩn hoá, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ. Bồi
dưỡng giáo viên dạy chương trình và sách giáo khoa mới đóng vai trò chủ
yếu, việc bồi dưỡng chuẩn hoá và bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ
phối hợp và hỗ trợ bồi dưỡng dạy chương trình và sách giáo khoa mới.
1.2.4.1. Bồi dưỡng để dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới
Bồi dưỡng dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới giúp giáo
viên hiểu được những điểm mới và khó của chương trình và sách giáo
khoa, chuẩn kỹ năng, thái độ, cách dạy các dạng bài theo hướng đổi mới
phương pháp dạy học, cách sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học và cách kiểm
tra đánh giá kết quả học tập và giáo dục của học sinh.
Nội dung chủ yếu của hình thức bồi dưỡng này tập trung vào
chương trình, sách giáo khoa mới theo chủ trương đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông. Hình thức bồi dưỡng là kết hợp bồi dưỡng tập trung tại
tỉnh, tập trung tại cụm trường với tự học, tự bồi dưỡng và bồi dưỡng tại
20
trường. Tổ chức bồi dưỡng theo phòng giáo dục huyện, thị xã hay sở giáo
dục và đào tạo tuỳ cấp quản lý đối với cấp học cụ thể.
Phương pháp tại các lớp bồi dưỡng tập trung cũng như bồi dưỡng tại
cụm trường hay tại trường là thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, chú
trọng phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của người học, coi trọng
thực hành, sử dụng băng hình và băng tiếng, các loại sách giáo khoa, sách
giáo viên, sách bài tập hay tài liệu của khoá bồi dưỡng như một phần tài
liệu học tập trong quá trình bồi dưỡng giáo viên.
Hình thức đánh giá chủ yếu là kiểm tra đánh giá và cấp giấy chứng
nhận đã hoàn thành bồi dưỡng.
1.2.4.2. Bồi dưỡng chuẩn hoá
Bồi dưỡng chuẩn hoá nhằm nâng cao năng lực và trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của giáo viên đạt chuẩn đào tạo theo quy định, đảm bảo
chất lượng đội ngũ giáo viên, đồng thời trang bị cho giáo viên đi học những
hiểu biết, kỹ năng để thực hiện chương trình mới.
Bồi dưỡng chuẩn hoá chủ yếu được tổ chức tập trung tại các trường
cao đẳng sư phạm, các trường đại học Nội dung bồi dưỡng chuẩn hoá phụ
thuộc rất nhiều vào nhu cầu của đội ngũ giáo viên: những chuyên đề giáo
viên chưa được học, những chương trình giáo viên cần hoàn thiện. Sau mỗi
khóa bồi dưỡng, giáo viên được cấp bằng theo đúng quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
1.2.4.3. Bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ
Mục đích của các chương trình bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ
là giúp cho giáo viên nắm vững được những vấn đề cụ thể của từng chu kỳ
bồi dưỡng: hiểu và biết về một số vấn đề mới và khó trong chương trình,
sách giáo khoa mới; đặc điểm về hình thức, phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của người học; cách đánh giá học sinh để điều
21
chỉnh quá trình hoạt động dạy học, cũng như là các chuyên đề cụ thể về
giới, môi trường, các vấn đề xã hội…
Hình thức tổ chức chủ yếu là tự học cá nhân và tự học theo
nhóm ở trường hoặc nơi phù hợp, kết hợp với tập trung trao đổi giải
đáp thắc mắc của giáo viên. Cách thức tự học tạo điều kiện học tập
linh hoạt, đa dạng với phương pháp học tập cùng tham gia cũng góp
phần đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Các giáo viên các
bộ môn tự học, tự nghiên cứu theo nhóm, theo cụm trường, sau đó tất
cả những thắc mắc cần giải đáp, có thể trao đổi trực tiếp với đội ngũ
tác giả, hoặc đề xuất lên sở giáo dục và đào tạo…
Đánh giá kết quả học tập chương trình bồi dưỡng thường xuyên theo
chu kỳ là đánh giá bằng nhận xét trên cơ sở tự đánh giá theo mẫu hoặc
đánh giá của đồng nghiệp trong nhóm.
1.2.5. Bồi dưỡng giáo viên cốt cán
1.2.5.1. Khái niệm giáo viên cốt cán
1.2.5.1.1. Giáo viên cốt cán
“Cốt cán” là người hoặc bộ phận làm nòng cốt trong một tổ chức,
một phong trào xã hội, chính trị, văn hoá [25; Tr206]
Ví dụ: lực lượng cốt cán. Vai trò cốt cán của giáo viên trong sự
nghiệp giáo dục
Như vậy, giáo viên cốt cán là những người có đủ năng lực, uy
tín chuyên môn, đóng vai trò chủ chốt trong các cơ sở giáo dục, các
trường học
Giáo viên cốt cán là nòng cốt tại chỗ, thường xuyên, được chọn cử
từ các tổ trưởng chuyên môn, các giáo viên giỏi, những người nổi trội trong
trường, trong cơ sở giáo dục về uy tín và năng lực chuyên môn, là những
người có nhiệt tình với công cuộc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học
và có điều kiện thuận lợi đảm đương nhiệm vụ.
22
Người giáo viên cốt cán phải đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về
Chuẩn giáo viên Trung học phổ thông (được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành tháng 10 - 2009). Họ là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức;
có năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục; có năng lực xây
dựng và thực hiện kế hoạch dạy học và giáo dục. Bên cạnh đó người giáo
viên cốt cán cần có năng lực kiểm tra kết quả học tập; đồng thời có năng
lực hoạt động chính trị xã hội và phát triển nghề nghiệp, tự học, tự đánh
giá, giải quyết các vấn đề.
1.2.5.1.2. Nhiệm vụ của giáo viên cốt cán
Đã có những quy định cụ thể về nhiệm vụ của giáo viên cốt cán:
+ Tham gia xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trong các trường
để thực hiện chương trình sách giáo khoa mới, nhất là kế hoạch bồi dưỡng
hàng tuần trong năm học, về phần mình chịu trách nhiệm giúp đỡ các giáo
viên trong trường tự bồi dưỡng theo các tài liệu đã được cung cấp.
+ Hướng dẫn hoặc tư vấn cho chủ toạ tại các buổi sinh hoạt, bồi
dưỡng theo nhóm, các buổi thảo luận theo chuyên đề.
+ Tổ chức buổi dự lớp trao đổi kinh nghiệm thực hiện chương trình
và sách giáo khoa mới, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
+ Tìm hiểu tình hình triển khai và kết quả bồi dưỡng của giáo viên
trong trường, tham mưu với lãnh đạo về những vấn đề cần điều chỉnh, giúp
đỡ cho giáo viên.
+ Tham gia quá trình đánh giá kết quả bồi dưỡng giáo viên, nhất là
việc tự bồi dưỡng và bồi dưỡng lẫn nhau của giáo viên trong các nhóm
chuyên môn.
1.2.5.1.3. Quyền lợi của giáo viên cốt cán
Giáo viên cốt cán được chọn cử từ các tổ trưởng chuyên môn, các
giáo viên giỏi, có năng lực, uy tín, chuyên môn. Đó là những người giáo
viên được lãnh đạo các nhà trường cân nhắc lựa chọn rất cẩn thận.
23
Họ tham gia bồi dưỡng với những nhiệm vụ được giao, bên
cạnh đó là quyền lợi mà họ có thể được hưởng từ các khoá bồi dưỡng
giáo viên cốt cán:
+ Được dự các lớp bồi dưỡng tập huấn tại Bộ Giáo dục và Đào tạo,
tại các trường Đại học sư phạm, tại các Sở hay các Phòng Giáo dục về
chương trình và sách giáo khoa mới, về đổi mới phương pháp dạy học môn
học, về kế hoạch bồi dưỡng tại trường trong năm học.
+ Được cung cấp đầy đủ chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên về
môn học, các tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn học tại chỗ hay từ xa.
+ Được tham dự các hội nghị sơ kết, tổng kết về kết quả bồi dưỡng
giáo viên ở quận/huyện.
+ Khối lượng công việc của giáo viên cốt cán được quy đổi thành số
tiết dạy để tính toán trong định mức lao động. Những giáo viên cốt cán
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được ghi nhận thành tích, được khen thưởng
xứng đáng.
1.2.5.2. Một số hình thức bồi dưỡng giáo viên cốt cán
1.2.5.2.1. Bồi dưỡng giáo viên cốt cán triển khai thực hiện chương
trình và sách giáo khoa mới
Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội khoá X, Chỉ
thị số 14/2001/CT-TTg của Thủ tuớng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức bồi dưỡng giáo viên cốt cán triển khai thực hiện chương trình
và sách giáo khoa mới. Mục đích của bồi dưỡng giúp cho đội ngũ giáo
viên cốt cán nắm vững được mục tiêu đổi mới chương trình và sách giáo
khoa theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Ban Bí thư,
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông và xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo ; giúp đội ngũ
giáo viên cốt cán hiểu và phân tích được chuẩn kiến thức, kỹ năng, yêu
cầu về thái độ trong chương trình và sách giáo khoa mới. Hiểu và phân
24
tích rõ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá
theo chương trình, sách giáo khoa mới, vận dụng được trong quá trình
dạy học. Bồi dưỡng giáo viên cốt cán triển khai thực hiện chương trình
và sách giáo khoa mới giúp cho đội ngũ giáo viên cốt cán có đủ năng lực
triển khai bồi dưỡng đại trà tại địa phương.
Nội dung bồi dưỡng giáo viên cốt cán: giới thiệu mục tiêu, phạm vi,
cấu trúc và yêu cầu đối với nội dung dạy học cấp trung học phổ thông;
chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ, những điểm mới trong chương trình sách
giáo khoa trung học phổ thông. Phương pháp dạy học bộ môn, năng lực tự
học, hướng dẫn thiết kế bài học, các hoạt động giáo dục, hướng dẫn
phương pháp giảng dạy ở một số bài.
Bồi dưỡng giáo viên cốt cán triển khai thực hiện chương trình và
sách giáo khoa mới còn tập trung vào kiểm tra đánh giá theo hướng đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học tự chọn, xây dựng kế
hoạch, nội dung, phương pháp và những điểm cần chú ý khi tập huấn triển
khai đại trà cho giáo viên ở địa phương.
Phương thức bồi dưỡng giáo viên cốt cán được Bộ Giáo dục và Đào
tạo chủ trì, tổ chức các hội nghị triển khai bồi dưỡng, biên soạn tài liệu bồi
dưỡng, xây dựng đĩa hình các tiết dạy minh hoạ sử dụng chung trong cả
nước, chuẩn bị sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng, phương
tiện, thiết bị dạy học cho các đợt bồi dưỡng Tổ chức các đợt bồi dưỡng
giáo viên cốt cán theo kế hoạch, theo từng môn, cuối đợt có đánh giá kết
quả, cấp giấy chứng nhận tham gia bồi dưỡng.
Phương pháp bồi dưỡng tập trung vào bồi dưỡng có trọng tâm, trọng
điểm, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng, yêu cầu thái độ thể hiện trong
chương trình và sách giáo khoa phù hợp với đối tượng bồi dưỡng. Tăng
cường thực hành, kết hợp bồi dưỡng nội dung với bồi dưỡng sử dụng thiết
25